Chương 11
Năm mới sang mà Asami vẫn bặt vô âm tín. Aoyama vẫn làm việc và cố tỏ ra bình thường trước mặt Shigehiko song gã không thể giấu được vẻ bơ phờ.
Gã sụt đến sáu cân chỉ sau hai tháng trở về từ Izu. Ngay cả khi cái chết chia lìa gã với Yoko gã cũng chẳng đến mức ăn mà nuốt không trôi. Cái chết của Yoko không phải không đau đớn, thậm chí đối với một người trẻ tuổi mắc chứng ung thư như cô thì đó là một sự ra đi chậm rãi. Gã luôn ở kề bên, nhìn thấy Yoko yếu dần đi và cái chết từ từ mang cô đi xa mãi. Gã vẫn còn nguyên những ký ức cảm động đầy hàm ơn với vợ. Ung thư chỉ là một ví dụ, con người lả đi vì bệnh tật, chết dần chết mòn trong đau đớn, họ chiến đấu với nỗi đau đớn và khiếp sợ không gì khác là để đem đến sự giải thoát ngọt ngào cho những kẻ ở lại.
Asami bỗng nhiên biến mất. Lẳng lặng không một dấu hiệu, nàng mất hút ngay từ căn phòng hai người đã ở cùng nhau, rồi sau đó mọi liên lạc đều đứt đoạn. Nhưng với Aoyama, cho đến giờ, đó chẳng phải là một thảm họa nghiêm trọng, chỉ đơn giản là nàng đã hiểu lầm điều gì đó mà thôi. Chính cái ý nghĩ đó trở thành nguyên nhân kìm hãm gã phục hồi. Suốt hai tháng nay, Aoyama đã đến Nakamekuro không biết bao nhiêu lần. Gã đến nơi Asami xuống taxi sau lần hò hẹn thứ hai rồi cứ lòng vòng trong vô định. Chẳng phải gã nghĩ cứ đi như thế thì sẽ tìm thấy nàng, bản thân gã biết rõ điều đang làm chỉ là sự tiếc nuối mà thôi. Song gã hoàn toàn không biết nên làm gì khác bởi cái danh từ cố định tên là Nakamekuro là sợi dây gắn kết duy nhất với nàng.
Không biết gã đã gọi mấy trăm lần vào số điện thoại của nàng, cả sau khi nghe lời thông báo "Số máy quý khách vừa gọi hiện đang tạm khóa". Mỗi khi đi ngang qua bốt điện thoại là gã lại ghé vào. Khi năm mới sang thì lời thông báo đó cũng không còn nữa, song dẫu vậy gã vẫn gọi hoài gọi mãi.
Dối trá là điều không thể tha thứ.
Aoyama vẫn không sao hiểu nổi lời nhắn Asami để lại, những gì đọng lại chỉ là sự ngọt ngào, trong đó có cả cuộc ái ân với nàng ở khách sạn ấy. Gã nhớ rõ mồn một từng chi tiết ngay từ cuộc gặp gỡ lần đầu tiên đến những lần hò hẹn. Gã thấu hiểu những ký ức mật ngọt nối liền với cảm giác mất mát tàn khốc đến nhường nào.
Gã cũng gọi điện cho Yoshikawa đến mấy chục lần, rồi cùng đi ăn, đi uống. Ở công ty gã cũng cứ tưng tửng kể lể hết sự tình với đám nhân viên, bắt đầu từ Takamatsu. Song đó không phải là những cuộc đối thoại mà gần như chỉ một mình gã bộc bạch than vãn từ đầu đến cuối, đến mức ngay cả Yoshikawa cũng chẳng buồn tiếp chuyện nghiêm chỉnh với gã.
Thế có kỳ cục không! Tôi chẳng làm gì cả, cho tới thời điểm đó thì mọi chuyện vẫn tốt đẹp. Cô ấy là người mạnh mẽ, đã vượt qua nỗi ám ảnh quái đản bằng múa ballet. Một sự hiểu lầm tệ hại nào đó đã xảy ra và tôi phải giải thích bằng được điều đó. Không thể để chuyện vớ vẩn cứ thế này mà xong được...
***
Chỉ có Shigehiko là khác. Cậu vẫn tiếp xúc gần gũi với ông bố bơ phờ của mình, bình thản đến mức gã phải xúc động rằng ở đâu ra mà một thằng nhóc mười sáu tuổi đầu lại có được sự thấu hiểu như thế này. Ngay cả lúc cô giúp việc Rie thấy lo lắng, hỏi han đủ thứ xem liệu gã có bệnh tật gì không thì Shigehiko vẫn bao che rằng: "Không sao đâu, ai chẳng có lúc chán cơm!" Cậu cũng không hề hỏi bất cứ điều gì về Asami, gã cũng tuyệt nhiên không kể lể một lời nào. Gã nghĩ rằng Shigehiko đã thấm nhuần cảm giác mất mát là như thế nào sau cái chết của Yoko. Shigehiko hiểu rằng, có bộc bạch hay than vãn với ai thì cũng chẳng thể nào khá khẩm hơn dù chỉ là nhất thời, rốt cuộc, chỉ còn cách cứ sống bình thường như những ngày đã sống, chấp nhận quãng thời gian khổ sở cho đến khi cái cảm giác mất mát vơi đi.
"Mới mười sáu tuổi đầu mà nó đã trưởng thành rồi," ngồi một mình trong phòng khách, Aoyama thầm nghĩ.
Đó là một buổi chiều Chủ nhật khi tiết trời sắp chuyển sang tháng Hai, Shigehiko đi trượt tuyết trong ngày từ sáng sớm với đám bạn cùng trường.
"Bố cứ ngủ trước, tàu đông chắc con không về sớm được."
Ngay cả khi gã gầy rộc đi trông thấy, Shigehiko vẫn hay đi chơi với đám bạn như thường lệ. Cậu biết rằng, không nên đối xử đặc biệt với một kẻ tinh thần đang suy sụp trầm trọng.
Aoyama cuốc bộ ra siêu thị gần nhà, mua về đậu phụ với sữa chua và mật ong, món trứng cá hồi sống ướp xì dầu, món bắp cải cuốn đã chế biến sẵn. Gã chẳng buồn ăn. Đến giờ mồm miệng và cổ họng gã vẫn cảm thấy mọi thứ đồ ăn chỉ như mớ giẻ rách, song ý chí gượng dậy khiến gã bắt đầu suy nghĩ là phải trở nên vững vàng, tất cả vì Shigehiko. Để thực hiện được điều đó, phải làm những công việc thổi bùng lên niềm cảm hứng, và phải ăn uống đầy đủ. Không thể nào để Shigehiko nhìn thấy mình yếu đuối mãi được.
Gã ngồi trên ghế sofa trong phòng khách, ăn sữa chua rưới mật ong. Nuốt trôi thứ mềm như sữa chua cũng là một vấn đề khó nhọc.
Với Aoyama, nó giống như một vết thương ngoài da. Hệ thần kinh gã không từ chối mà vươn tới những ký ức về Asami, nó chỉ chờ mong tái hiện lại những hò hẹn, ái ân nóng bỏng với nàng, chẳng đủ thảnh thơi phát ra tín hiệu cho việc ăn uống. Duy chỉ một lần nó gần như muốn thốt lên rằng "xin đấy, hãy thôi đi," rồi những hình ảnh về khuôn ngực trần, nơi ấy, vòng eo, những ngón tay và gương mặt nàng tiếp tục chiếm lĩnh. Mỗi khi nhìn ảnh khỏa thân của những người mẫu hàng đầu trong các tạp chí khiêu dâm là toàn bộ hệ thần kinh gã mách bảo rằng, cô ấy không thuộc loại này. Cứ như thuốc gây nghiện vậy, gã nghĩ. Thứ Asami đem đến giống như một loại ma túy với hai thành phần, một loại gây hưng phấn và một loại làm ức chế. Chẳng có gì thay thế được nó cả, và hơn cả là toàn bộ hệ thần kinh của gã đã trót hiểu điều đó rồi. Hệ thần kinh thì luôn luôn thẳng thắn, đó là vấn đề sinh lý, thỏa hiệp cũng vô ích.
***
Bên ngoài con Gang đang sủa. Vốn là giống chó săn thỏ nên nó rất hay sủa. Nó vẫn thường sủa đuổi theo khi nghe tiếng xe cảnh sát hay xe cứu thương, với đám chim sẻ và quạ thì đương nhiên rồi, có lúc còn sủa cả những con côn trùng bò dưới đất. Theo gợi ý của Shigehiko, gã có dẫn con Gang đi dạo vài lần nhưng chẳng hề thấy thư thái, cứ bị hấp dẫn bởi một thứ mùi nào đó là nó băm bổ ngửi tìm dấu vết chứ chẳng chịu lững thững đi bao giờ. Thành thử Aoyama cũng phải rảo bước theo và gã chẳng thấy lòng mình tươi mới hơn chút nào.
Aoyama ăn sữa chua và nghe nhạc. Khi tinh thần đã chào thua, chiếc tivi cứ như đang trêu ngươi con người. Tivi gào rống lên rằng tâm trạng ông có ủ ê thì cũng chẳng ảnh hưởng gì đến hòa bình thế giới! Gã bắt đầu nghe nhiều thể loại nhạc cổ điển dù chẳng phải nhờ ai giới thiệu. Từ những bản giao hưởng cung thứ nặng nề đến những bản piano êm ái, về niên đại thì từ thời Bach đến Debussy, nhạc giao hưởng đã cứu rỗi cho dòng thời gian trôi đi. Nghe một bản piano concerto của Mozart mất khoảng ba mươi phút. Nghe từ bản thứ hai mươi đến hai bảy mất chừng bốn tiếng.
Những hình ảnh ngọt ngào kích thích khó cưỡng lại nổi của Asami vẫn khiến gã nhức nhối, ngay cả khi nghe Barenbomtt chơi piano, đến cả Mozart cũng không xoa dịu nổi nỗi đau ấy. Song, đó đều là những giai điệu đẹp, lại được phối khí hay nên tinh thần gã cũng bớt trầm trọng han trước, gã chăm chú nhìn kim đồng hồ quay chờ lúc trời tối để có thể động vào cognac hay whisky.
Aoyama tự cấm mình uống rượu ban ngày. Sau khoảng hai tuần từ khi Asami biến mất, gã ý thức rằng rượu không là thứ thích hợp để xoa dịu đi nỗi đau mất mát. Cảm giác trống vắng giống như vết thương ngoài da, khi thể trạng héo hon thì lại sinh ra sự nôn nóng và bắt đầu tự dằn vặt mình. Trong những buổi sáng vật vờ sau con say, đã bao lần Aoyama trải qua nỗi dằn vặt là kẻ thất bại tuyệt đối trên thế gian.
Thành ra bây giờ, thứ gã đang uống cùng với món sữa chua vào lúc hai giờ chiều ngày chủ nhật là ly trà táo Fortnum & Mason®. Âm nhạc gã đang nghe là những khúc overtune của Giusseppe Verdi. Bản "Sức mạnh số phận" của dàn nhạc giao hưởng Vienna dưới sự chỉ huy của nhạc trưởng huyền thoại Karajan đang ngân vang. Khoảng bốn mươi phút nữa là hết nhạc Verdi, tiếp theo gã sẽ nghe Wagner. Sau đó sẽ nghe tuyển khúc tứ tấu đàn dây và bản sonata cho đàn violin của Mozart. Và thế là màn đêm buông xuống, gã sẽ tắm một cái rồi ngồi uống bia với món đậu phụ rán và cải bắp cuốn. Bản nhạc gã thường nghe vào buổi tối là "Vũ khúc Hungary" của Brahms, "Metamorphosen" của R. Strauss, rồi gã tự cho phép mình làm vài ly cognac khoảng hai tiếng trước khi đi ngủ trong lúc thưởng thức "Dạ khúc" của Chopin. Gã sưu tập máy bản "Dạ khúc" khác nhau của các nghệ sĩ tên tuổi như Ashkenazy, Arthur Rubinstein, Maurâio Pollim... Tiếng đàn piano như nhắn nhủ: "Này, đã hết một ngày rồi, sửa soạn đi ngủ thôi!" Trước khi ngủ, gã nhất định phải nghe bản "Dạ khúc".
Tối hôm đó, khi Aoyama vừa định chọn bản "Dạ khúc" do Michelangeli chơi mà gã chưa từng nghe thì bỗng thấy điều gì đó không ổn. Cảm giác như cái mùi gã chưa một lần quên khẽ thoảng qua, như có tiếng vo ve ngang tai mà bình thường không thể nào nhận biết, như bóng ai thoáng lướt ngang khóe mắt, hoặc như là tất cả những điều ấy đồng loạt xảy ra. Aoyama vươn khỏi ghế sofa, nhìn quanh phòng khách. "Cô Rie?", gã cất tiếng gọi. Có khi cô Rie vẫn đến đây làm bữa tối dù đã xin phép nghỉ chăng. Cũng có khả năng vì cô Rie đã rất lo lắng cho sức khỏe của gã.
"Cô Rie à?"
Aoyama lại gọi. Không có tiếng trả lời. Gã quay người về phía gian bếp, khịt khịt mũi. Có khi cái gì đang cháy cũng nên. Hình như lúc nãy mình đã cho bắp cải cuốn vào nồi để hâm nóng rồi bật lửa trước khi đi vệ sinh. Biết đâu, tư tưởng mình đang phân tán rồi quên khuấy đi mất. Đầu tiên gã vào nhìn bếp ga. Trên đó không có nồi cải bắp cuốn, và dĩ nhiên không có lửa. Cái quái gì xảy ra thế chứ! Gã vặn nhỏ âm lượng từ chiếc điều khiển từ xa. Nhạc đã chuyển sang bản "Kinh chiều đảo Sicile". Gã để ý thấy một điều thực sự thay đổi. Con Gang không cất tiếng sủa, lại không có một tiếng động nào. Ngoại trừ khi ngủ, nó vẫn thường sủa, mà không sủa thì nó cũng chạy nhặng xị vòng quanh và gây ra tiếng động nào đó. Vậy mà gã chẳng hề nghe thấy tiếng sợi dây xích quệt vào chân chuồng, tiếng đuôi vẫy, tiếng sột soạt gãi gãi mình, hay tiếng bước chân nó chạy vòng quanh.
"Gang!"
Aoyama cố gọi tên và nhận thấy điều bất thường với dây thanh. Gã mất hẳn tiếng. Không phải tại dây thanh, Aoyama thấy rõ nhịp thở mình trở nên bất thường, một mối bất an khủng khiếp bất thình lình ập đến. Bình tĩnh nào, gã tự nhắc nhở mình, rồi uống trà. Vừa uống một ngụm, Aoyama đã thấy ngạc nhiên. Gã chắc chắn đã cho hai thìa đường vào vậy mà sao trà lại nhạt thế. Hay lưỡi mình bị làm sao, hay ai đó đã cho thứ gì khác vào. Hay là thằng Shigehiko về sớm làm trò này cũng nên. Biết đâu có tuyết lớn nên nó phải rời Ueno sớm, rồi lén chui vào nhà nghịch ngợm chăng. Bỗng nhiên trong một tích tắc, mắt gã tối sầm, một thanh âm khó tả vang lên, kỳ dị và rùng rợn, như phát ra từ một cánh cửa cói kỹ bí mật ở đâu đó trong căn nhà này mà không ai hay biết, khi đột nhiên nó mở toang ra rồi lại đóng sập vào. Mắt gã tối sầm hơn nữa. Như điện áp bị sụt vậy. Từ trong góc phòng, cái góc tối giữa kệ tủ trang trí và cột rèm, một tiếng nói vọng ra khiến Aoyama kinh hoàng khiếp sợ, chân tay rụng rời.
"Mi không cử động được nữa đâu."
Chiếc bóng đằng sau tấm rèm khe khẽ cử động, Asami xuất hiện, Aoyama tưởng gã đang nhìn thấy ảo ảnh. Ơ kìa, lâu lắm mới gặp em, gã định nói mà không thành tiếng, tê cứng từ tận trong miệng. Toàn thân gã mất hết cảm giác.
"Thư giãn đi nào, rồi mi sẽ tỉnh ngay thôi."
Hai tay xỏ găng cao su như các bác sĩ ngoại khoa vẫn dùng, Asami bước đến gần, dùng ngón cái và ngón trỏ tay trái bóp má gã. Miệng gã há ra uể oải, được một lúc như thế rồi nước miếng trào lên. Gã chẳng thấy đau dù ngón tay Asami bấm sâu vào má, cố tình bóp cho miệng gã mở ra. Toàn thân gã không còn một chút sinh lực. Asami mà buông tay thì chắc gã sẽ ngã vào ghế sofa. Tay phải Asami giơ ống xi lanh bé tí xíu làm bằng nhựa lên ngang mặt gã.
"Cơ thể mi sẽ chết, nhưng thần kinh vẫn tỉnh táo, mi sẽ đau đớn và khốn khổ gấp ngàn lần."
Asami chọc ống xi lanh bằng nhựa đó vào tận cuống lưỡi Aoyama. Thứ chất lỏng trong ống xi lanh truyền đi khắp ngóc ngách cơ thể, trong khoảng thời gian ngắn ngủi đó, Aoyama chìm vào giấc ngủ, rồi bừng tỉnh với con nhói đau. Hơn thế, đó là cơn đau chẳng thể nào chịu nổi từ tận trong đáy mắt. Tưởng như có một chiếc kim nhỏ đâm xuyên từ phía trong, đầu kim nhô ra phía bên ngoài, vướng vào mi mắt, khiến mắt gã mở ra một cách khiên cưỡng. Nước mắt gã không ngừng trào ra. Ngay nước mắt cũng ngai ngái mùi thuốc, song dĩ nhiên Aoyama không thể biết đó là thứ thuốc gì. Gã nằm sóng soài trên ghế sofa, hai chân duỗi thẳng vắt lên bàn. Toàn thân gã bất động. Gã không nhúc nhích nổi dù chỉ là một ngón tay, nhưng kỳ lạ thay, một phần cảm giác đã hồi phục. Gã mấp máy môi. Vị giác và khứu giác cũng đã quay trở lại. Mắt gã vẫn bị nhòa nhưng mọi vật dần hiện lên rõ nét. Thậm chí gã còn thấy tầm nhìn được mở ra như đang ghé mắt vào một chiếc ống kính góc rộng. Mỗi khi chớp mắt, gã thấy cả lưu ảnh trông như những cành cây khô cong to tướng chất đầy trong hốc mắt gã mà gã chắc đó là hệ thống mao mạch trên võng mạc. Gã thấy âm thanh như cũng được khuếch đại lên trong tai gã. Giọng nói Asami nghe hệt như tiếng chuông ngân vang trong thánh đường giáo xứ. Tiếng chớp mắt xoạch xoạch nghe tựa tiếng cửa trập máy ảnh. Gã hiểu ra rằng Asami muốn giết gã, lạ lùng một nỗi, cái cảm giác đầu tiên không phải nỗi khiếp sợ mà là cảm giác thấu hiểu như giải xong một câu đố vào phút chót. Asami không hiểu lầm điều gì, cô ả đã không thể tha thứ cho sự tồn tại của Shigehiko. Asami vẫn chưa thoát khỏi chấn động thần kinh với những trận đòn và lời lẽ chửi rủa từ lão bố dượng: "Cút cho khuất mắt tao!" Với những phức cảm không nguôi ngoai đó, những kẻ nào phản bội hay lừa dối cô ả đều giống như lão bố dượng kia, và họ sẽ cùng nhận một kết cục: bị cắt đứt cả hai chân, đó chính là chân lý của cô ả. Ngoài việc làm thêm để sống, Asami dùng hết quỹ thời gian còn lại vào việc chuẩn bị. Cứ quen biết một ai đó là cô ả liền bắt tay vào chuẩn bị, để chờ tới lúc kẻ kia biến chất giống như lão bố dượng. Khi mới hơn mười tuổi, chẳng có đạo cụ nào từ trên trời rơi xuống đủ tốt để cô ả thực hiện kế hoạch của mình, tất cả chỉ diễn ra trong trí tưởng tượng. Rồi Asami đã phát hiện ra một thứ gọi là "hatpin" qua một chương trình dạy nấu ăn trên truyền hình.
Đó là một loại dao bằng thép mảnh, ở hai đầu có hai vòng khuyên để móc ngón tay vào.
Người đầu bếp cắt rời ống xương lợn dễ như bỡn, và nói rằng trên đời không có dụng cụ nào tuyệt vời hơn để cắt những khúc thịt có xương. Dĩ nhiên, để cắt lát cá hồi hoặc cá ngừ thì còn đơn giản hơn gấp vạn lần. Asami còn tìm hiểu đủ các loại thuốc an thần, chống loạn thần và gây ảo giác như: Chlorpromazine, BeriLZodiazepine, Eprobamat, Diazepam, Medazepam, Chlodiazepoxid, khí tê, Muscimol, Trimex Amphetamine, Psilocin, LSD, Chlorpromazin. Asami nói cô ả đã nhiều lần xem xét và đột nhập vào nhà gã. Cô ả chọn ngày người giúp việc không đến, chờ lúc Shigehiko đi vắng, lẻn vào khi Aoyama đi ra ngoài, lợi dụng lúc gã đi vệ sinh, đổ lẫn thứ thuốc làm tê liệt cơ bắp vào mật ong và sữa chua. Nếu gã không đứng dậy đi vệ sinh, Asami định sẽ đến giả chào hỏi, rồi dùng bình xịt hơi cay cũng đủ hạ gã, nhưng gã lăn ra sàn nhà thì lại mất công xốc lên ghế bởi cơ thể đàn ông nặng trịch.
Asami ôm con Gang từ ngoài vào, ném con chó đã gục xuống bất động vào giữa hai chân gã, khi đó, Aoyama mới bắt đầu thấy khiếp sợ. Con Gang đang bất tỉnh. Bốn chân nó vẫn còn mềm, chưa có vẻ gì là đã chết. Asami phủi đám lông chó dính trên chiếc áo len màu đen, kéo chiếc ba lô loại dùng để đựng máy ảnh đang đặt ở cửa chính và lôi ra một chiếc túi mỏng làm bằng da thuộc. Nó rất giống với hộp đựng dây đàn ghita bass. Asami lấy ra một đoạn thép màu bạc quấn tròn trông như chiếc máy hát Walkman. Ở hai đầu có hai vòng tròn đường kính nhỏ bằng khoảng lỗ trong của đồng xu 500 yên, nếu xỏ ngón tay vào một đầu, rồi giơ lên, chiếc hatpin sẽ rủ xuống thành một đường thẳng, phát sáng lấp lánh.
Asami quấn một vòng chiếc hatpin quanh một chân sau con Gang, giữ chặt hai đầu, ngước mắt nhìn gã. Không chút phấn son, vẫn là khuôn mặt ấy, chẳng khác gì so với lúc cô ả thủ thỉ: Có thật không anh? Thật là hạnh phúc, em chẳng có ai để tâm sự từ tận đáy lòng. Từ giờ, em sẽ chờ điện thoại của anh nhé! Mắt ả không xếch lên cuồng dại, tóc chẳng dựng ngược lên vì giận dữ, bờ môi không biến dạng vì nụ cười. Không có biến đổi nội tại gì trong con người Asami cả.
Như khi dang rộng bộ dãn, Asami kéo hai đầu, siết chặt dây thép, chân con Gang rời ra, thẳng đuỗi vì dây chằng đã đứt, tiếng xương gãy kêu khục một cái, trong phút chốc, cả vùng lông bụng trắng hếu nhuộm đỏ một màu máu. Asami chuẩn bị quấn vào chiếc chân sau còn lại. Dừng tay! Aoyama cố gào lên mà không thành tiếng. Khúc nhạc của Verdi vẫn chưa dứt. Vở opera "Aida" đang ngân lên dịu nhẹ. Dừng tay! Gã dùng khẩu hình.
"Hứ? Chuyện gì?"
Asami hỏi, mặt lạnh tanh. Có cắt thì cắt tao đây này, gã cố thều thào, và nhớ đến Shigehiko. Bị cắt chân mà không cầm máu thì chết tươi. Thế thì thằng Shigehiko sẽ chỉ còn một mình mất. Nó là đứa tốt, chẳng có thằng nào được như nó. Mình không muốn tưởng tượng ra cảnh nó phải buồn đau. Mình không muốn làm nó phải khổ sở. Nhất là nó chẳng có tội tình gì. Lần đầu tiên Aoyama nghĩ rằng gã phải đương đầu với cô gái này.
"Cắt cổ con chó này rồi sẽ đến lượt mi."
Asami quấn chiếc hatpin quanh chân còn lại của con Gang, siết mạnh vòng khuyên màu bạc ở hai đầu một lần nữa. Một âm thanh tương tự vang lên. Máu ộc ra lênh láng hơn trước, bắn sang cả mu bàn tay trái Aoyama. Có cách gì không nhỉ? Có ai đến bây giờ thì tốt quá. Dù vậy, giả như đột nhiên nhân viên tiếp thị các quán rượu có đến cũng vô ích. Phải làm cho ai đó nghi ngờ về không khí ở cái nhà này mà nhảy xổ vào. Nếu ném được cái chân đã bị đứt lìa của con Gang ra ngoài sân, để ai đó phát hiện ra, thấy ngờ vực rồi gọi điện hỏi chưa biết chừng. Không được! Cái chân con Gang ngay trước mặt giờ đây đâu có giống một cái chân chó. Nó giống như một chiếc ô gập hỏng bị vứt chỏng chơ, hay một quyển sổ tay với hình dáng hơi kỳ quái. Tóm lại là chẳng ai từng thấy tận mắt chân một con chó đã bị cắt lìa ra cả. Châm lửa? Đốt căn nhà này thì xe cứu hỏa sẽ đến. Chắc mình vẫn đi được. Không đi được thì cũng có thể lăn trốn ra vườn qua cửa phòng khách, nhưng hiện trên tay bật lửa không, diêm cũng không. Mà có diêm hay bật lửa thì để gây cháy cũng không dễ dàng gì. Vở opera "Aida" sắp đến hồi kết thúc. Tiếp theo là "Vũ hội hóa trang". Kế đến là "Aroldo". Hay thử vặn to âm lượng lên xem sao. Gã nhặt chiếc điều khiển từ xa của dàn âm thanh lăn lóc trên ghế sofa. Đang quấn chiếc hatpin vòng quanh cổ con Gang, Asami đưa mắt về phía gã. Gã giữ chặt nút Tăng âm, ấn nút Khóa khi chỉnh đến mức cực đại, rồi dúi chiếc điều khiển từ xa vào kẽ hở giữa lưng ghế sofa với trục lò xo. Dàn âm thanh hiệu BOSE có công suất khá lớn, cửa sổ kính rung lên bần bật, rèm cửa đung đưa nhưng âm thanh không bị vỡ. Asami lần quanh ghế sofa tìm chiếc điều khiển, nó đang mắc vào khe hở giữa trục lò xo, chừng nào không tháo hết vòng đệm thì không thể lấy ra được. Có một lần, hàng xóm đã gọi điện phàn nàn ngay khi Shigehiko vặn to lúc đang nghe Mr. Children. Theo như Shigehiko kể lại thì chủ nhân những cuộc điện thoại đó là người nước ngoài, dọa sẽ báo cảnh sát ngay nếu không vặn nhỏ tiếng. Asami bỏ ý định tìm chiếc điều khiển, quay sang phía dàn âm thanh bên cạnh tủ trang trí, miệng nguyền rủa điều gì nhưng gã hoàn toàn không nghe thấy. Đoạn mở đầu bản "Vũ khúc hóa trang" do dàn nhạc giao hưởng Berlin Philharmonic thể hiện ngân vang rung chuyển cả căn phòng. Asami vặn núm chỉnh âm lượng trên âm ly nhưng nó không hoạt động vì bị khóa bởi điều khiển từ xa. Ổ cắm nằm phía sau lưng chiếc tủ trang trí to uỳnh, không kéo hết dây thì không thể rút ra được. Asami nhấn nút STOP và OPEN nhưng thao tác đó vô hiệu một khi chưa mở khóa từ chiếc điều khiển từ xa. Gã hy vọng rằng hàng xóm gọi điện không được thì sẽ thông báo với cảnh sát ngay lập tức, và mọi chuyện sẽ được giải quyết. Bản nhạc của Verdi ngân vang với âm lượng cực đại, thổi bùng lên cảm giác phi thực trong căn phòng. Một chú chó mất hai chi sau nằm sóng soài với tư thế kỳ quái với cặp chân bị cắt rời; một cô gái xinh đẹp mặc áo len màu đen, quần jean màu xám, mang đôi giày vải đi vòng quanh; một gã trung niên bất động nằm dài trên ghế sofa; những giọt máu chó trên chiếc bàn gỗ sồi mà hai chân gã gác lên đã đông lại nhưng máu vẫn không ngừng rỏ xuống thảm trên sàn. Aoyama thét lên khi thấy con Gang vẫn đang mở mắt trừng trừng. Tiếng thét của gã chìm nghỉm trong âm thanh cực đại và một phần do thanh đới vẫn còn tê dại. Cặp mắt chú chó săn đã bị đứt lìa hai chân khiến gã lạnh toát sống lưng. Không biết vì quá đau đớn hay vì thuốc mê, nó chỉ mở mắt chứ không sủa, và cũng không động đậy chút nào. Mắt nó tỏ vẻ đã chấp nhận cái chết. Đôi mắt vét tận gốc chút tàn lực nhỏ nhơi còn sót lại trong cơ thể. Chưa bao giờ gã nhìn thấy một đôi mắt của người hay của con vật nào mà sầu thảm đến nhường ấy. Asami lôi từ trong ba lô ra một con dao hòng cắt đứt dây điện.