Chương 3 .
Ngay trước khi một con bò cái bị đập búa vào đầu trong một lò sát sinh hiện đại, nó bị thúc đi vào một mê cung ngoằn ngoèo. Những khúc cong hẹp và những góc ngoặt gấp khúc khiến cho con vật chỉ nhìn được một quãng ngắn phía trước, nhờ đó nó sẽ không thể nhận ra cho tới vài bước cuối cùng, nơi hành trình kết thúc, khi mê cung đột ngột hẹp lại và một cái vòng kim loại sập quanh cổ nó. Nhưng trong khi ba chúng tôi hối hả theo sau Sharon vào sâu trong trung tâm của Đồng Ma, tôi cảm thấy chắc chắn mình biết điều gì sắp tới, chỉ không biết là khi nào và như thế nào. Theo mỗi bước chân, từng ngã rẽ, chúng tôi như bị thắt chặt vào trong một cái nút mà tôi sợ chúng tôi sẽ chẳng bao giờ gỡ ra được.
Thứ không khí nồng nặc xú uế không thay đổi, lối thoát duy nhất của nó là một kẽ nứt lồi lõm hướng lên trời ở tít cao trên đầu chúng tôi. Những bức tường gồ ra nghiêng ngả nằm sát nhau tới mức có những chỗ chúng tôi phải xoay người lách vai đi, những chỗ co hẹp trở nên trơn nhẵn, đen bóng vì cọ xát với quần áo của những người đã đi trước đó. Ở đây chẳng có gì tự nhiên, không gì màu xanh, không gì mang lại sự sống ngoại trừ lũ sâu bọ trườn qua chạy lại và những bóng ma với ánh mắt vằn máu đang rình mò sau những khung cửa và những nắp cống trên đường, cũng là những kẻ hẳn sẽ nhảy xổ vào chúng tôi nếu không có người dẫn đường cao lớn khoác áo choàng đen kia. Chúng tôi đang đuổi theo Tử thần vào tận đáy sâu của Địa ngục.
Chúng tôi rẽ rồi lại rẽ. Lối đi nào cũng giống như lối đi trước. Không có biển báo, không có cột mốc. Hoặc là Sharon đang định hướng bằng một trí nhớ vô tiền khoáng hậu, hoặc ông ta đang hoàn toàn đi bừa, cố gắng đánh lạc hướng bất cứ tên cướp Rạch nào có thể truy đuổi chúng tôi.
"Ông có thực sự biết chúng ta đang đi đâu không vậy?" Emma hỏi ông ta.
"Tất nhiên là tôi biết." Sharon cáu bẳn, hùng hục rẽ ngoắt vào một góc quẹo mà không thèm nhìn lại sau. Rồi ông ta dừng bước, quay ngoắt lại và bước qua một khung cửa bị lún một nửa xuống dưới mức đường nền. Phía trong là một gian hầm ẩm ướt, chỉ cao mét rưỡi, được soi rọi bởi chút ánh sáng nhợt nhạt xám xịt. Chúng tôi cúi khom người chạy qua một hành lang dưới lòng đất, lờ đi những cái xương súc vật dưới chân, trần hầm cọ vào đầu chúng tôi, băng ngang qua những thứ tôi cố gắng không nhìn - một bóng người đang ngồi co ro trong góc, những người đang ngủ rùng mình ớn lạnh trên những ổ rơm thảm hại, một cậu bé rách rưới nằm trên sàn với một cái bát ăn xin đeo trên một cánh tay. Ở cuối, hành lang này mở rộng ra thành một căn phòng, và trong ánh sáng của vài ô cửa sổ cáu bẩn có hai người thợ giặt khốn khổ đang quỳ gối, vò đồ giặt trong một bể nước tanh ngòm của Rạch. Sau đó chúng tôi leo lên thêm nhiều bậc thang nữa rôi, ơn Chúa, chui ra một khoảng sân sau có tường bao, là sân chúng ở đằng sau của vài ngôi nhà. Trong một vài thực tế khác, nơi này rất có thể sẽ sở hữu một vạt cỏ vui mắt hay một vọng lâu nhỏ, nhưng đây là Đồng Ma, và cái sân này là một bãi rác và chuồng lợn. Từng đống rác đầy ruồi bay vù vũc bị ném ra từ các cửa sổ chồng chấp nhấp nhô ấp sát vào các bờ tường, và ở chính giữa, được cắm siêu vẹo xuống bùn, là một bãi nhốt rào gỗ, trong đó có một cậu bé gầy giơ xương đang canh một con lợn thậm chí còn gầy hơn nữa - chỉ có đúng một con. Cạnh một bức tường gạch bùn một người phụ nữ đang ngồi hút máu và đọc báo trong khi một cô gái trẻ đứng sau lưng bà ta, bắt chấy trên đầu bà này. Người phụ nữ và cô gái chẳng hề để ý khi chúng tôi đi ngang qua, Nhưng cậu bé thì giơ những cái răng của cây chĩa về phía chúng tôi. Khi đã rõ là chúng tôi chẳng có mưu đồ gì với con lợn của cậu ta, cậu ta mệt mỏi ngồi xổm xuống.
Emma dừng lại giữa sân để nhìn những hàng dây phơi quần áo tranh giữa các máng nước trên các nóc nhà. Cô lại chỉ tay vào những món quần áo bết máu đang mặc vốn khiến chúng tôi trông như những kẻ can dự vào một vụ giết người, và đề xuất chúng tôi nên thay đồ. Sharon đáp là ở đây người ta chẳng lạ gì những kẻ sát nhân, và giục cô đi tiếp, những cô nán lại, cự nự rằng một gã xác sống ở dưới tàu điện ngầm đã nhìn thấy những món quần áo bết máu của chúng tôi và gọi bộ đàm báo cho đồng bọn; chỗ quần áo làm chúng tôi quá dễ bị nhận ra giữa đám đông. Quả thực, tôi nghĩ chủ yếu là vì cô cảm thấy không thoải mái khi mặc cái áo giờ đây đã cứng đơ vì máuTôi nghĩ chủ yếu là vì cô cảm thấy không thoải mái khi mặc cái áo giờ đây đã cứng đơ vì máu của một người khác. Tôi cũng thế - và nếu tìm lại được các bạn mình, tôi hẳn không muốn họ thấy chúng tôi trong bộ dạng này.
Sharon miễn cưỡng đồng ý. Lúc trước ông ta đã dẫn chúng tôi về phía một hàng rào ở rìa khoảng sân, nhưng lúc này lại vòng lại và đưa chúng tôi vào một trong ngôi nhà. chúng tôi leo lên hai, ba, rồi bốn đợt cầu thang, cho tới khi đến Addison cũng phải thở phì phò, rồi theo sau Sharon qua một cánh cửa mở vào một căn phòng nhỏ bẩn thỉu. Một vết toác trên trần đã làm mưa giội vào và làm chiếu nghỉ cầu cầu thang oằn lên quăn queo như những gợn sóng nước trong một cái ao. Những vết mốc đen chạy ngoằn ngoèo trên các bức tường. Trên cái bán cây cảnh một cửa sổ ám khói, hai người phụ nữ và một cô gái đang mồ hôi nhễ nhại sau những chiếc máy khâu đạp chân.
"Chúng tôi cần ít quần áo." Sharon nói với mấy người phụ nữ bằng giọng nam trầm oang oang làm những bức tường mỏng manh rung lên.
Khuôn mặt xanh xao của họ ngước lên nhìn. Một trăm mấy người phụ nữ nhặt lấy một cây kim khâu và cầm lên như một món vũ khí. "Làm ơn." Cô ta nói.
Sharon đưa tay lên kéo mũ trùm đầu của ông ta ra sau một chút, chỉ để mấy người thợ may có thể thấy mặt ông ta. Họ há hốc miệng, rên lên rồi gục xuống mặt bàn, ngất xỉu.
"Có cần phải làm thế không?" Tôi hỏi.
" Không hẳn." Sharon nói, kéo mũ trùm lại như cũ. " Nhưng làm thế nhanh hơn."
Mấy người thợ may đang may những chiếc áo sơ mi và váy đơn giản từ những mảnh vải đầu thừa đuôi thẹo. Những mảnh vải xơ tướp họ dùng làm nguyên liệu làm chất đống quanh sàn, còn thành phẩm, với nhiều đường may và nếp đã cứu hơn cả con quái vật của Frankenstein, được treo thành một hàng bên ngoài cửa sổ. Trong khi Emma kéo chúng vào, tôi quét mắt nhìn quanh căn phòng. Nơi này rõ ràng không chỉ là chỗ làm việc: những người phụ nữ cũng sống ở đây. Có một cái giường được đóng chắc phá từ gỗ tạp bỏ đi. Tôi ghé mắt nhìn vào một cái nồi hầm sứt mẻ treo trong bếp lò và thấy một món súp chống đối đang nấu dở, với da cá và những lá bắp cải héo. Những nỗ lực trang trí nửa vời của họ - một cành hoa khô, một cái móng ngựa được đóng đinh trên mặt lò sưởi, một bức chân dung Nữ hoàng Victoria được đóng khung - trông còn thảm hơn là không có gì trang trí.
Có thể thấy rõ sự tuyệt vọng ở đây đè nặng mọi thứ, kể cả không khí. Tôi chưa bao giờ phải đối diện với nỗi thống khổ rành rành thế này. Có thể nào lại có những người đặc biệt thực sự sống một cuộc đời tàn tạ như thế? Trong lúc Sharon ôm một chồng một áo sơ mi lôi vào qua cửa sổ, tôi hỏi ông ta. Ông ta có vẻ gần như bị xúc phạm bởi ý nghĩ này. "Những người đặc biệt không bao giờ cho phép mình bị hạ thấp đến vậy. Đây chỉ là những cư dân bình thường của khu ổ chuột, bị mắc kẹt trong sự lặp lại vô tận của ngày tạo nên Vòng Thời Gian này. Những người bình thường cư trú ở các khu rìa bẩn thỉu của Đồng Ma - nhưng trung tâm của nơi này thuộc về chúng tôi."
Họ là những người bình thường. Không chỉ thế, mà là những người bình thường bị kẹp trong Vòng Thời Gian, giống như những người ở Cairnholm mà những đứa trẻ tàn nhẫn hơn vẫn hành hạ trong những lần chơi tấn công làng. Cũng là một phần của bối cảnh như biển hay các vách đá, tôi tự nhủ. Nhưng chẳng hiểu sao, khi nhìn vào khuôn mặt bơ phờ của người phụ nữ nằm vùi trong giẻ rách, tôi vẫn không cảm thấy bớt khổ sở hơn chút nào về việc lấy cắp của họ.
"Tớ tin chắc chúng ta sẽ không nhận ra những người đặc biệt khi chúng ta thấy họ." Emma nói, chọn đồ trong một đống áo bẩn.
"Luôn là vậy." Addison nói. "Tế nhị chưa bao giờ là điểm mạnh của những sinh vật đặc biệt như chúng ta."
Tôi chui ra khỏi chiếc áo sơ mi đẫm máu của mình, đổi nó lấy giải pháp thay thế ít bẩn thỉu nhất tôi có thể tìm thấy, thứ áo bạn hẳn sẽ được phát cho trong một trại tù: không có cổ áo và kẻ sọc, hai ống tay áo không dài bằng nhau, được may lại từ thứ vải còn cứng hơn giấy ráp. Nhưng nó vừa với tôi, và kèm thêm một chiếc áo khoác đen đơn giản tôi tìm thấy vắt trên lưng tựa của một cái ghế, giờ trong tôi giống như một người có thể tin được là xuất xứ từ nơi này.
Chúng tôi quay lưng lại trong khi Emma thay sang một chiếc váy nom như bao tải rủ xuống lùng thùng quanh đôi bàn chân cô. "Mặc cái này thì không chạy được." Cô cằn nhằn. Cầm lấy một cây kéo từ trên bàn của mấy người thợ may, cô bắt đầu chỉnh sửa nó với tất cả chị tìm ẩn cùng một danh đồ tể, cách và xé cho tới khi đã cắt rời phần chân váy bên dưới tới ngang đầu gối.
"Rồi." Cô chiêm ngưỡng thành quả thủ công của mình trong một tấm gương. "Hơi tả tơi một chút, nhưng..."
Không hề nghĩ, tôi nói. "Horace có thể làm cho cậu một cái khá hơn. " Chẳng hiểu sao, tôi đã quên rằng các bạn tôi không phải đơn giản là đang đợi chúng tôi trong căn phòng bên cạnh. " Ý tớ là... Nếu chúng ta gặp lại họ..."
"Đừng." Emma nói. Trong khoảnh khắc, trông cô thật buồn, hoàn toàn đắm mình trong ý nghĩ đó - thế rồi cô quay đi, để cái kéo xuống, rồi quả quyết bước về phía cửa ra vào. Khi ngoảnh lại nhìn chúng tôi, vẻ mặt cô đã trở nên cứng rắn. "Đi nào. Chúng ta lãng phí thời gian ở đây đủ rồi."
Cô có thứ phản anh đáng kinh ngạc biến nỗi buồn thành giận dữ và giận dữ thành hành động, đồng nghĩa với việc không có gì có thể khiến cố ủ rũ lâu. Thế rồi Addison và tôi - và Sharon, người tôi dám ngờ cho tới tận lúc này vẫn chưa hoàn toàn hình dung ra tông ta đang làm ăn với ai - theo cô ra khỏi căn phòng và xuống cầu thang.
* * *
Toàn bộ Đồng Ma - hay ít nhất là khu trung tâm đặc biệt của nó - chỉ có mười hay hai mươi khối nhà vuông vắn. Sau khi đi từ chỗ căn phòng xưởng may xuống, chúng tôi cạy hờ một tấm ván khỏi một bức chắn và lách người chui vào một lối đi ngột ngạt. Nó dẫn tới một lối đi khác đỡ ngột ngạt hơn chút ít, rồi nói đi này lại dẫn tới một lối đi rộng hơn chút nữa, rồi từ đó lại tới một lối đi đủ rộng để Emma và tôi có thể sánh vai cùng bước đi. Chúng cứ thế rộng dần ra, như những động mạch giãn ra sau một cơn đau tim, cho tới khi chúng tôi tới một nơi xứng đáng được gọi là đường phố, ở giữa là lòng đường lát gạch đỏ và hai bên lề mà vỉa hè lát đá.
"Lùi lại." Emma thì thầm. Chúng tôi thu mình nép vào một góc tường và hé mắt nhìn và quan sát như những người lính biệt kích, đầu kề sát nhau.
"Các vị nghĩ mình đang làm gì hả?" Sharon nói. Ông ta vẫn đang ở trên phố và có vẻ lo lắng về chuyện bị chúng tôi gây phiền phức hơn là bị giết.
"Tìm hiểu những điểm có thể bị phục kích và đường tẩu thoát." Emma nói.
"Không ai phục kích ai cả." Sharon đáp. "Đám cướp chỉ hoạt động ở những vùng vắng vẻ không người. Chúng sẽ không truy đuổi chúng ta ở đây - đây là Phố Mập Mờ."
Quả thực có một tấm biển tên phố như vậy - tấm biển đầu tiên tôi thấy tại Đồng Ma. Phố Mập Mờ, tấm biển viết tay bằng kiểu chữ rối rắm. Không hoan nghênh cướp bóc.
"Không hoan nghênh?" Tôi nói. " Thế còn giết người thì sao? Bị trừng mắt nhìn à?"
" Tôi tin là việc giết người ' được khoan dung trong chừng mực nhất định'."
"Liệu có gì là bất hợp pháp ở đây không?" Addison hỏi.
"Hình phạt cho việc trà muộn sách cho thư viện khá khắc nghiệt. Chậm một ngày phạt mười roi, mà đấy mới là sách bìa mềm thôi."
"Có cái thư viện nào sao?"
"Hai. Mặc dù một thư viện không cho mượn sách vì tất cả các cuốn sách đều bọc bằng da người và rất giá trị."
Chúng tôi thập thò ló ra từ sau bức tường và đưa mắt nhìn quanh, ít nhiều bối rối. Ở khu vực đồng không mông quạnh, tôi đã lường trước đường trước cái chết dễ dàng tập ở mỗi bước đi, nhưng Phố Mập Mờ, xét toàn bộ vẻ bề ngoài, có vẻ là một ốc đảo bình yên trật tự. Dọc hai bên con phố là những cửa hàng nhỏ ngăn nắp, và những cửa hàng này có biển hiệu, khung kính trưng bày và tầng trên là các căn hộ. Không có một mái nhà bị thủng hay một tấm cửa kính bị vỡ nào trong tầm mắt. Cũng có người đi lại trên phố, và họ nhận nha thả bước một mình hoặc theo từng đôi, thỉnh thoảng dừng để rẽ vào cửa hàng hay nhìn vào một khung kính trưng bày. Trang phục của họ không phải là giẻ rách. Khuôn mặt họ sạch sẽ. Có thể không phải mọi thứ ở đây đều mới tinh và sáng long lanh, nhưng bề mặt dãi dầu sương gió và những mảnh sơn bong tróc đem đến cho nơi này có vẻ như tất cả đều được làm bằng tay, với các rìa cạnh sờn mòn trông cổ kính là lạ, thậm chí là duyên dáng. Mẹ tôi, nếu bà có dịp trông thấy Phố Mập Mờ ở một trong những cuốn tạp chí lữ hành vẫn thường được lật qua nhưng chẳng bao giờ được đọc làm đầy trên bàn cà phê nhà tôi, hẳn đã suýt xoa tấm tắc về sự dễ thương của nó rồi phàn nàn về chuyện bà và bố tôi chưa bao giờ thực hiện một kỳ nghỉ được thụ tại châu Âu - Ôi, Frank, mình đi đi.
Emma dường như lộ rõ vẻ thất vọng. "Tôi đã trông đợi từ chỉ ảm đạm hơn nhiều."
" Tớ cũng thế." Tôi nói. " những sao huyệt của bọn sát nhân và các đấu trường đẫm máu đâu rồi?"
"Tôi không biết các vị nghĩ cư dân quanh đây làm thứ nghề gì." Sharon nói. "Nhưng tôi chưa bao giờ nghe nói tới sào huyệt của bọn sát nhân nào cả. Còn về đấu trường đẫm máu, thì chỉ có một thôi - Đấu trường Derek, dưới phố Ri Rỉ. Derek là một tay tử tế. Nợ tôi năm bảng..."
"Còn lũ xác sống thì sao?" Emma hỏi. "Còn những người bạn bị bắt cóc của chúng tôi?"
"Hạ giọng xuống khẽ thôi." Sharon suỵt. "Ngay khi tôi nói xong việc của tôi, chúng ta sẽ tìm một người có thể giúp các vị. Từ giờ tới lúc đó, đừng có nhắc lại mấy lời này với bất cứ ai."
Emma nhìn thẳng vào mặt Sharon. "Vậy đừng để tôi nhắc lại điều này. Mặc dù chúng tôi đánh giá cao sự giúp đỡ và hiểu biết của ông, nhưng tính mạng các bạn của chúng tôi đã bị ấn định một kỳ hạn. Tôi sẽ không nói lảnh nói tránh, lãng phí thời gian chỉ để tránh làm vài kẻ nào đó xù lông lên."
Sharon nhìn xuống cô, im lặng một hồi. Rồi ông ta nói. "Tất cả chúng ta đều có một kỳ hạn. Nếu tôi là cô, tôi sẽ không vội vàng đến thế để tìm xem nó là gì đâu."
* * *
Chúng tôi lên đường đi tìm luật sư của Sharon. Chẳng mấy chốc ông ta đã trở nên thất vọng. " Tôi dám thề là văn phòng của ông ta ở trên phố này." Ông ta nói trong khi quay gót lại. "Tuy nhiên đã nhiều năm không gặp ông ta. Có lẽ ông ta đã chuyển đi."
Sharon quyết định đi tìm một mình và bảo chúng tôi ở yên một chỗ. "Tôi sẽ quay lại sau vài phút. Đừng nói chuyện với ai hết."
Ông ta sải bước rời đi, bỏ chúng tôi lại. Chúng tôi lúng túng co cụm lại trên vỉa hè, không dám chắc mình phải làm gì. Người ta nhìn chằm chằm khi đi ngang qua chúng tôi.
" Thực ra ông ta đã xỏ mũi chúng ta phải không?" Emma nói. "Ông ta làm cho nơi này nghe như thể là hang ổ của tội phạm, Nhưng với từ trong đó cũng chẳng khác gì bất cứ Vòng Thời Gian nào khác. Trên thực tế, những người sống ở đây trông còn bình thường hơn bất cứ người đặc biệt nào tớ từng thấy. Cứ như thế họ bị hút hết những tính cách và trưng ra khỏi mình vậy. Nói thẳng là nhạt nhẽo."
"Cô chắc đang đùa." Addison nói. " Tôi chưa bao giờ thấy nơi nào xấu xa hay kinh tởm hơn."
Cả hai chúng tôi cùng nhìn nó đầy ngạc nhiên.
" Thế là sao?" Emma nói. " Ở đây chỉ toàn những cửa hàng nhỏ."
"Phải. Nhưng cứ xem bọn họ bán cái gì."
Cho tới lúc này chúng tôi mới để ý. Ngay sau lưng chúng tôi là một khung kính trưng bày, và đứng bên trong là một người đàn ông mặc tươm tất với đôi mắt phiền muộn và bộ râu dài thượt. Khi thấy mình đã thu hút được sự chú ý của chúng tôi, ông ta khẽ gật đầu, giờ một cái đồng hồ bỏ túi lên, rồi ấn vào một cái nút bên cạnh sườn nó. Khoảnh khắc ông ta bấm cái nút, người đàn ông cứng đơ lại, và hình ảnh ông ta dường như nhòe đi. Vài giây sau, ông ta dịch chuyển mà không hề cử động - biến mất rồi lại xuất hiện trở lại tức thì ở góc đối diện của khung kính trưng bày.
"Ái chà." Tôi thốt lên. "Quả là một trò ảo thuật!"
Ông ta làm lại lần thứ hai, dịch chuyển tức thời trở lại góc ban đầu. Trong khi tôi đứng đờ ra như bị thôi miên, Emma và Addison đi tiếp tới khung kính của cửa hàng kế tiếp. Tôi gia nhập với họ và thấy một màn trình diễn tương tự, chỉ có điều đứng sau khung kính là một người phụ nữ mặc váy đen, một chuỗi hạt cườm dài buông lủng lẳng xuống từ một bàn tay.
Khi thấy chúng tôi đang nhìn, người phụ nữ liền nhắm mắt lại và duỗi dài hai cánh tay ra như một con người mộng du. Bà ta bắt đầu chậm rãi lần các hạt cườm qua các ngón tay, lần từng hạt một. Đôi mắt tôi bị hút vào những hạt cườm tới mức tôi phải mất vài giây mới nhận ra điều đang xảy ra với khuôn mặt người phụ nữ: nó đang thay đổi, rất kín đáo, theo mỗi hạt cườm bà ta lần qua. Đến một hạt, tôi thấy làn da xanh tái của bà ta ửng hồng lên. Đến hạt tiếp theo, đôi môi bà ta mỏng bớt. Rồi tóc bà ta đỏ thêm, dù rất nhẹ. Hiệu ứng cộng gộp lại sau khi vài chục hạt cườm đã được lần qua là khuôn mặt người phụ nữ trở nên hoàn toàn khác, biến hóa từ một bà lão tóc đen với khuôn mặt tròn trịa thì một phụ nữ trẻ tóc đỏ với cái mũi sắc sảo. Quá trình này khiến người ta vừa bị mê hoặc vừa thấy bất an.
Khi màn trình diễn kết thúc, tôi quay sang Addison. "Tôi không hiểu." Tôi nói. " Họ đang bán cái gì vậy?"
Trước khi con chó kịp trả lời, một cậu bé chưa đến mười ba tuổi hối hả lách tới chỗ chúng tôi và ấn một cặp thẻ vào bàn tay tôi. "Một được hai, chỉ hôm nay thôi!" Cậu ta bi bô. "Đề nghị hợp lý thì không bị từ chối!"
Tôi xoay hai tấm thẻ trên tay lại. Một tấm có ảnh người đàn ông với cái đồng hồ bấm giờ, vào mặt sau ghi J. Edward Bragg, người hai vị trí. Tấm thẻ kia là ảnh chụp người phụ nữ cầm chuỗi hạt cườm đang nhập thần, và có ghi G. Funke, người phụ nữ với nghìn khuôn mặt.
"Đi đi, chúng tôi không mua." Emma nói, cậu nhóc quắc mắt lên với cô rồi hối hả bỏ đi.
"Giờ cậu đã thấy họ buôn bán gì chưa?" Addison hỏi.
Tôi đưa mắt về phía cuối phố. Hình như trong tất cả khung kính trưng bày của các cửa hàng dọc theo Phố Mập Mờ đều có những người giống người đàn ông cầm đồng hồ bấm giờ vào người phụ nữ mang chuỗi hạt - những người đặc biệt sẵn sàng thể hiện một màn biểu diễn, chỉ cần bạn liếc mắt về phía họ.
Tôi đánh bạn đoán thử. " Họ đang bán... chính bản thân mình."
" Như một bóng đèn mờ tịt sáng bừng lên ấy nhỉ." Addison nói.
" Nhưng như thế là xấu à?" Tôi nói, cố đoán lần nữa.
"Phải." Addison gắt. "Chuyện này là trái luật trong thế giới đặc biệt, và vì những lý do chính đáng."
"Năng lực đặc biệt của mỗi người là một món quà thiêng liêng." Emma nói. "Đem nó ra bán làm mất giá trị của điều đặc biệt ở chúng ta."
Nghe như thể cô đang máy móc nhắc lại những lời vô vị đã được nhồi nhét ngay từ khi còn nhỏ.
"Hừm." Tôi nói. "Được thôi
"Cậu vẫn chưa bị thuyết phục." Addison nói.
" Tôi không nghĩ chuyện đó có thể gây hại gì. Nếu tôi cần sự phục vụ của một người vô hình, và người vô hình đó lại cần tiền, tahi sao chúng ta không nên trao đổi?"
"Nhưng cậu có ý thức đạo đức mạnh, và điều đó khiến cậu khác biệt với chín mươi chín phần trăm nhân loại." Emma nói. "Sẽ thế nào nếu một kẻ xấu - hay thậm chí là một kẻ vô đạo đức - muốn mua sự phục vụ của một người đặc biệt vô hình?"
"Người đặc biệt vô hình nên từ chối."
" Nhưng chuyện này không phải luôn trắng đen rõ ràng như thế." Emma nói. " và bán mình sẽ làm xói mòn quy chuẩn đạo đức của anh. Chẳng mấy chốc, anh sẽ lún sâu vào phía sai lầm của vùng sáng đó mà không hề biết, làm những điều anh sẽ không bao giờ làm nếu không phải thì được trả tiền. Và nếu ai đó đâm vào cánh đố tuyệt vọng, họ có thể bán mình cho bất cứ ai, không cần biết ý định của người kia là gì."
"Cho một gã xác sống chẳng hạn." Addison nói thêm, giọng nhấn mạnh.
"Ừ, phải, sẽ thì tồi tệ quá." Tôi nói. "Nhưng không có thực sự nghĩ một người đặc biệt có thể làm thế không?"
"Đừng có ngớ ngẩn!" Addison nói. "Nhìn vào tình trạng của nơi này xem. Nhiều khả năng nó là Vòng Thời Gian duy nhất ở châu Âu chưa bị đám xác sống tàn phá! Và theo cậu vì sao thế? Vì tôi tin chắc sẽ vô cùng đắc dụng khi có tả một cộng đồng những kẻ phản bội và do thám hoàn toàn sẵn sàng đợi làm theo yêu cầu của chúng."
"Có lẽ ông nên nhỏ giọng xuống." Tôi nói.
"Có lý lắm." Emma nói. "Hẳn chúng đã tung những kẻ do thám là người đặc biệt xâm nhập vào các Vòng Thời Gian của chúng ta. Nếu không, làm sao chúng lại biết được nhiều đến thế? Các lối vào Vòng, hệ thống phòng ngự, những điểm yếu... chỉ có thể là do sự giúp đỡ của những kẻ ở nơi này." Cô ném một cái nhìn phẫn nộ ra xung quanh, vẻ mặt người vừa uống phải sữa bị vón cục.
"Đề nghị hợp lý thì không bị từ chối, quả vậy." Addison gằn giọng. "Những kẻ phản bội, tất cả chúng. Đáng bị treo cổ!"
" Có chuyện gì thế? Ngày hôm nay tệ lắm à?"
Chúng tôi quay lại thì thấy một phụ nữ đứng sau lưng. (Cô ta đứng đó bao lâu rồi? Cô ta đã nghe thấy những gì?) Người phụ nữ ăn diện theo phong cách công sở thập niên 1950 - váy ngắn tới đầu gối và đôi giày đen đế chừng ba phân - và đang uể oải phì phèo một điếu thuốc lá. Mái tóc cô ta được cuộn lại búi cao trên đầu, còn khẩu âm thì bèn bẹt và đặc chất Mỹ như vùng đồng bằng Trung Tây vậy.
"Tôi là Loraine." Cô ta nói. "Còn các em là người mới đến thành phố nhỉ?"
" Chúng tôi đang đợi một người." Emma nói. "Chúng tôi... đang đi nghỉ."
"Đừng nói thêm gì nữa." Lorraine nói. " Tôi cũng đang đi nghỉ. Đã đi nghỉ trong năm mươi năm vừa qua." Cô ta bật cười, phô ra những chiếc răng bị dính son môi. "Nếu tôi có thể giúp các em bất cứ điều gì thì cứ cho tôi biết. Lorraine đưa ra những lựa chọn tốt nhất trên Phố Mập Mờ, và thực tế là đúng thế đấy."
"Không, xin cảm ơn." Tôi nói.
"Đừng lo, chàng trai yêu quý. Họ không cắn đâu."
" Chúng tôi không có hứng."
Lorraine nhún vai. " Tôi chỉ muốn tỏ ra thân thiện thôi. Chỉ là vì các em nom có vẻ hơi không quen đường."
Cô ta bắt đầu rời đi, không có một điều cô ta vừa nói đã thu hút sự quan tâm của Emma.
"Lựa chọn cái gì cơ?"
Lorraine quay lại và bừng nở một nụ cười ngọt xớt. "Những người già, những đứa trẻ. Đủ loại tài năng. Một vài khách hàng của tôi chỉ muốn một màn trình diễn, và thế cũng tốt, nhưng những người khác lại có yêu cầu riêng biệt. Chúng tôi đảm bảo vui lòng khách đến, vừa lòng khách đi."
"Cậu đây đã nói không rồi, cảm ơn cô." Addison cộc cằn nói, và đang chực đuổi người phụ nữ đi thì Emma bước tới trước con chó và nói. " Tôi muốn xem."
"Cậu muốn gì cơ?" Tôi nói.
" Tớ muốn xem." Emma nói, giọng đã có chút bực dọc. "Cho tôi xem đi."
"Chỉ những yêu cầu nghiêm túc thôi." Lorraine nói.
"Ồ, tôi rất nghiêm túc."
Tôi không biết Emma định làm gì, nhưng tôi có đủ niềm tin vào cô để chấp nhận làm theo.
"Có chuyện gì với bọn họ vậy?" Lorraine nói, đưa ánh mắt dò hỏi về phía Addison và tôi. " Họ luôn cọc cằn thế sao?"
"Phải. Nhưng họ không có vấn đề gì đâu."
Lorraine nheo mắt nhìn chúng tôi như thể đang hình dung xem đã sẽ phải làm gì để tống khứ chúng tôi bằng vũ lực khỏi chỗ cô ta nếu cần.
" Cậu có thể làm gì nào?" Cô ta nói với tôi. "Gì cũng được?"
Emma hắng giọng, rồi đưa mắt nhìn tôi chăm chăm. Tôi biết ngay điều cô muốn nhắn nhủ: Nói dối!
"Tôi cần nâng được bút chì và các đồ vật bay lên." Tôi nói. " Nhưng giờ tôi thậm chí không thể giữ chúng đứng thẳng lên được. Tôi nghĩ tôi... bị mất năng lực, hay gì đó."
"Bhững người giỏi nhất vẫn thường bị vậy." Cô ta nhìn sang Addison. "Còn anh bạn?"
Addison đảo mắt chán nản. "Tôi là một con chó biết nói, được chưa?"
"Và đó là tất cả những gì anh bạn làm được hả, nói?"
"Đôi khi có vẻ là thế." Tôi không đừng được lên tiếng.
" Tôi không biết mình cảm thấy bị ai trong hay vị xúc phạm nhiều hơn đây." Addison nói.
Lorraine bập hơi thuốc lá cuối rồi ném điếu thuốc đi. "Được rồi, mấy cưng. Theo tôi."
Cô ta bắt đầu rời đi. Chúng tôi nán lại đằng sau một lát và thì thầm bàn bạc.
"Thế còn Sharon thì sao?" Tôi nói. "Ông ấy bảo chúng ta đợi ở đây."
"Chuyện này chỉ mất một phút thôi." Emma nói. "Và tớ có linh cảm là cô ta biết rõ hơn Sharon nơi lũ xác sống đang ẩn nấp."
"Và cô nghĩ cô ta sẽ cứ thế tự động cung cấp những thông tin đó à?" Addison hỏi.
"Để xem." Emma nói, đoạn quay đi theo Lorraine.
* * *
Chỗ của Lorraine không có cửa sổ hay bất cứ biển hiệu nào, chỉ có một cửa ra vào trống trơn với một cái chuông bạc và một sợi xích để kéo. Lorraine rung chuông. Chúng tôi đợi trong khi một loạt then cài được kéo mở ra ở bên trong, rồi cánh cửa hé ra một chút. Một con mắt lóe lên nhìn chúng tôi trong bóng tối.
"Thịt tươi à?" Một giọng đàn ông cất lên.
"Khách hàng." Lorraine đáp. "Cho chúng tôi vào."
Con mắt biến mất và cánh cửa mở hẳn ra. Chúng tôi bước vào một tiền sảnh kiểu cách, người gác cổng đứng đó để chờ giám sát chúng tôi vào. Ông ta mặc một chiếc áo khoác nặng trịch có cổ cao và đội mũ phớt mềm vành rộng, cái mũ được kéo sụp xuống thấp tới mức tất cả những gì chúng tôi có thể thấy trên khuôn mặt ông ta là đôi mắt nhỏ tí và chóp mũi. Ông ta đứng chắn đường, nhìn chằm chằm xuống chúng tôi.
"Thế nào?" Lorraine nói.
Người đàn ông dường như cho rằng chúng tôi không phải là một mối đe dọa. "Được." Ông ta nói, bước sang bên. Ông ta đóng và khóa cửa lại sau lưng chúng tôi, rồi đi theo sau trong khi Lorraine dẫn chúng tôi đi xuống một hành lang dài.
Chúng tôi đi vào một căn phòng khách nhỏ chập chờn trong ánh đèn dầu. Đó là một nơi nhếch nhác nhưng lại có ngụy tạo vẻ vương giả: các bức tường được trang trí bằng những hình hoa văn uốn lượn mạ vàng và những tấm rèm nhung, phần trần vòm vẽ hình các vị thần Hy Lạp với làn da rám nắng mặc áo tunic, lối vào phòng có những cây cột đá cẩm thạch trang trí hai bên.
Lorraine gật đầu với người gác cửa. "Cảm ơn, Carlos."
Carlos lướt đi ra cuối phòng. Lorraine bước tới một bức tường che rèm rồi kéo một sợi dây, và tấm mềm trượt sang bên để lộ một tấm kính rộng chắc chắn. Chúng tôi bước tới nhìn, và qua tấm kính đó thấy một căn phòng khác. Nó rất rộng với căn phòng chúng tôi đang đứng, nhưng nhỏ hơn, và trong đó có những người đang ngồi thơ thẩn trên ghế tựa hay sofa, một số đầu sách, trong khi những người khác ngủ.
Tôi đếm được tám người. Một vài người lớn tuổi hơn, tóc ở thái dương đã hoa râm. Hai người, một cậu bé và một cô bé còn chưa tới mười tuổi. Tôi nhận ra tất cả họ đều là tù nhân.
Addison định hỏi gì đó, nhưng Lorraine nóng lòng ra hiệu. "Có gì hỏi để sau, làm ơn." Cô ta bước tới chỗ tấm kính, cầm lên một cái ống được nối xuyên qua bức tường bên dưới tấm kính, rồi nói vào một đầu ống. "Số mười ba."
Ở bên kia tấm kính, cậu bé nhỏ tuổi nhất đứng dậy kéo lê chân tới trước. Tay chân cậu ta đều bị xích, và cậu ta là người đặc biệt duy nhất mặc đồ trông giống hệt tù nhân: quần áo và mũ kẻ sọc, đèo câu số mười ba rõ rành rành. Cho dù không thể quá mười tuổi, lông tóc cậu ta lại như một người đàn ông trưởng thành: chòm râu rậm hình tam giác và đôi lông mày như những con sâu ngài rừng, đôi mắt bên dưới lạnh lùng và dò xét.
" Tại sao cậu ấy lại bị xích như thế?" Tôi hỏi. "Cậu ta nguy hiểm sao?"
"Cậu sẽ thấy." Lorraine nói.
Cậu bé nhắm mắt lại. Có vẻ như cậu ta đang tập trung. Một lát sau, tóc bắt đầu thò ra từ rìa mũ cậu ta đội, bò lan xuống trán. Chòm râu dê của cậu ta cũng dài ra, xoắn kết thành một khối, rồi dựng đứng lên và lắc lư như một con rắn bị thôi miên.
"Thề có những con diệc của trời." Addison nói. "Thật lạ lùng quá sức."
"Giờ hãy theo dõi thật kỹ." Lorraine nói và cười hết cỡ.
Số mười ba giơ hai bàn tay bị còng của cậu ta lên. Đầu chót nhọn của chòm râu d đang bị thôi miên của cậu ta nhắm tới chỗ ổ khóa còng, rồi vặn vẹo chui vào đó. Cậu bé mở mắt ra và nhìn chằm chằm vô cảm về phía trước. Sau chừng mười giây, chòm rau gì vặn xoắc cứng lại và bắt đầu rung lên, tạo ra một nốt nhạc cao đến nỗi chúng tôi có thể nghe thấy qua lớp kính.
Ổ khóa mở ra và còng xích rơi khỏi tay cậu bé.
Cậu ta hơi cúi người xuống. Tôi cố kìm nén sự thôi thúc muốn vỗ tay hoan hô.
"Cậu ta có thể mở bất cứ ổ khóa nào trên thế giới." Lorraine nói với chủ tự hào kín đáo.
Cậu bé quay về với cái ghế và tờ tạp chí của mình.
Lorraine đưa bàn tay bịt lên cái ống. "Cậu ta là có một không hai, và những người còn lại cũng thế. Một là người đọc ý nghĩ, rất lão luyện. Một người khác có thể với qua những bức tường cao tới tận vai cô ấy. Thoáng nghe gì chưa thấy nhưng nó rất hữu dụng đấy, tin tôi đi. Cô bé ở đây có thể bay Nếu được cung cấp đủ sô đa nho."
"Có đúng thế không?" Addison cộc lốc hỏi.
"Cô bé sẽ rất vui được trình diễn." Lorraine đáp, và nói vào cái ống để gọi cô bé ra trước khung kính.
"Không cần." Emma nói qua hai hàm răng nghiến chặt.
"Đó là việc của họ." Lorraine nói. "Số năm, tới trước."
Cô bé bước tới một cái bàn đầy chai, chọn một chai đựng đầy thứ chất lỏng màu đỏ tím, và uống một hơi dài. Khi đã uống cạn, cô bé đặt chai xuống, nấc một cái thật kiểu cách, rồi đi tới đứng cạnh một cái ghế có lưng dựa. Một lát sau, cô gái lại nấc và hai bàn chân cô bắt đầu nhắc lên khỏi sàn, xoay lên trên trong khi đầu cô bé vẫn giữ thẳng như cũ.
Đến lần nấc thứ ba, hai bàn chân cô bé đã lớn lên chín mươi độ và cô nằm thẳng nhưng trong không khí, với điểm tựa duy nhất là đỉnh lưng ghế phía dưới cổ.
Tôi nghĩ Lorraine trông đợi phản ứng mạnh hơn từ chúng tôi, song - cho dù bị gây ấn tượng - chúng tôi vẫn quan sát trong im lặng. "Một đám cứng cựa." Cô ta nói và cho cô bé quay về chỗ.
"Bây giờ." Lorraine nói, treo cái ống liên lạc nên rồi quay lại đối diện với chúng tôi. "Nếu không ai trong họ là lựa chọn phù hợp của các vị, tôi có thỏa thuận cho thuê với các chuồng nuôi khác. Lựa chọn của các vị Không chỉ bị giới hạn ở những gì các vị thấy ở đây."
"Các chuồng nuôi." Emma nói. Giọng cô bình thản, nhưng tôi có thể đoan chắc ruột gan cô đang sôi lên. "Vậy cô thừa nhận mình đối xử với họ như với con vật."
Lorraine quan sát Emma một hồi. Đôi mắt cô ta lướt tới người đàn ông mặc áo khoác đang đứng canh đằng sau. "Tất nhiên là không." Cô ta nói. " Đây là những tài sản có hiệu năng cao. Họ được ăn uống đầy đủ, được nghỉ ngơi tốt, được huấn luyện để làm việc dưới áp lực, và sạch sẽ như tuyết vừa rơi xuống. Phần lớn chưa bao giờ động tới dù chỉ một giọt mật thần thánh - vào trong phòng làm việc của chúng tôi có giấy tờ chứng minh cho điều đó. Không thì các vị chỉ cần hỏi họ là biết. Số mười ba và số sáu!" Cô ta lớn tiếng gọi vào cái ông nói. "Tới nói cho những người này biết các người thích ở đây như thế nào nào."
Cậu bé và một cô gái đứng dậy để bước tới khung kính. Cậu bé cầm lấy ông nói. "Chúng tôi rất thích ở đây." Cậu ta nói như một người máy. "Mẹ đối xử với chúng tôi tốt lắm."
Cậu bé đưa ống cho cô gái. "Chúng tôi thích làm việc của mình. Chúng tôi..." Cô này ngừng lại, cố nhớ ra những gì đã học mà quên mất. "Chúng tôi thích làm việc của mình." Cô gái ấp úng.
Lorraine bực dọc cho cả hai người lui về. "Và các vị thấy rồi đấy. Bây giờ, Tôi có thể để các vị thử đánh giá thêm một hay hai người nữa, nhưng nhiều hơn thế thì tôi sẽ cần một hình thức ứng trước nào đó."
" Tôi muốn xem những tờ giấy đó." Emma nói, liếc mắt lại nhìn người đàn ông mặc áo khoác. "Những giấy tờ trong phòng làm việc của cô." Hai bàn tay cô, đang siết chặt lại hai bên sườn, đỏ dần lên. Tôi có thể thấy chúng tôi cần rồi đi trước khi mọi thứ trở nên tồi tệ. Cho dù người phụ nữ kia có thông tin gì, thứ đó cũng không đáng để đánh nhau, Còn về chuyện giải cứu tất cả những đứa trẻ
kia... vậy đấy, nghe có vẻ vô tâm, nhưng chúng tôi có những đứa trẻ của riêng mình cần giải cứu trước đã."
" Thực ra thì chuyện đó không cần thiết." Tôi nói, rồi ghé sát lại Emma và thì thầm. "Chúng ta sẽ trở lại để giúp họ. Chúng ta có việc phải ưu tiên."
"Các giấy tờ." Emma nói, tảng lờ tôi.
" Không vấn đề gì." Lorraine đáp. "Vào phòng tôi và cùng trao đổi thẳng thắn nào."
Thế rồi Emma rời đi và không có cách nào ngăn cản lại mà không gây nghi ngờ.
Phòng làm việc của Lorraine gồm một cái bàn làm việc và một cái ghế kê chật ních trong một buồng nhỏ. Cô ta vừa kịp đóng cửa ra vào lại sau lưng chúng tôi là Emma xông tới dộng cô ta ép sát vào cửa. Lorraine bật rủa và la lối gọi Carlos nhưng rồi im bặt khi Emma giờ lên trước mặt cô ta một bàn tay đỏ rực nóng dẫy như dây ruột gà có một cái lò. Trên áo Lorraine, chỗ Emma đưa tay đẩy, hai dấu bàn tay đen kịt đang bốc khói.
Có tiếng đấm lên cửa và tiếng gầm gừ vọng vào từ phía bên kia.
"Bảo hắn là cô ổn cả." Emma nói, giọng cô thật khẽ và tắc lẹm.
" Tôi ổn cả." Lorraine nói, giọng cứng đờ.
Cánh cửa lại rung lên sau lưng cô ta.
"Nói lại với hắn."
Lorraine, lần này với giọng thuyết phục hơn: " Biến đi! Tôi đang bận công chuyện!"
Thêm một tiếng gầm gừ, rồi tiếng bước chân xa dần.
"Các người đang cực kỳ ngu ngốc đấy." Lorraine nói. "Chưa bao giờ có ai ăn cắp của tôi mà sống nổi đâu."
"Chúng tôi không muốn tiền." Emma nói. "Cô sẽ trả lời một số câu hỏi."
"Về cái gì?"
"Những người ngoài kia. Cô nghĩ là cô sở hữu họ sao?"
Trán Lorraine cau lại. "Chuyện quái gì đây?"
"Những người đó. Những đứa trẻ đó. Cô đã mua họ - cô nghĩ là cô sở hữu họ sao?"
" Tôi chưa bao giờ mua bất cứ ai cả."
"Cô đã mua ho và giờ cô đang bán họ. Cô là một kẻ buôn bán nô lệ."
" Mọi thứ không diễn ra như thế. Bọn họ tự nguyện đến với tôi. Tôi là đại diện cho họ."
"Cô là kẻ cò mồi cho họ." Emma gắt lên.
"Không có tôi thì họ chết đói rồi. Hoặc đã bị bắt đi."
"Bị ai bắt đi?"
"Cô biết là ai mà."
" Tôi muốn nghe cô nói ra điều đ"
Người phụ nữ phá lên cười.
"Đó không phải là một ý kiến hay đâu."
"Thật ư?" Tôi vừa nói vừa bước tới một bước. " Sao lại không?"
"Tai vách mạch rừng, và chúng không thích bị nói đến."
"Tôi đã giết xác sống." Tôi nói. "Tôi không sợ chúng."
" Vậy thì cậu là một thằng ngốc."
"Tôi cắn cô ta nhé?" Addison nói. " Tôi thực sự thích thế. Chỉ một cái thôi."
"Chuyện gì xảy ra khi chúng bắt người?" Tôi hỏi, tảng lờ nó.
"Không ai biết cả." Người phụ nữ nói. "Tôi đã cố gắng tìm hiểu, nhưng..."
" Tôi dám cược là cô đã rất cố gắng." Emma nói.
"Thỉnh thoảng chúng tới đây." Lorraine nói. "Để mua hàng."
"Mua hàng." Addison nói. "Thật là một cách nói hay ho."
"Để dùng người của tôi." Người phụ nữ nhìn quanh. Giọng nói của cô ta hạ xuống chỉ còn là tiếng thì thầm. "Tôi ghét chuyện đó. Các vị không bao giờ biết chúng sẽ muốn bao nhiêu hai trong bao lâu. Nhưng cần giao cho chúng thứ chúng yêu cầu. Tôi đã phàn nàn, nhưng... người ta không được phàn nàn."
"Dám cược là cô chẳng hề phàn nàn về những gì chúng trả." Emma khinh bỉ nói.
"Chừng đó khó có thể coi là đủ cho những gì chúng bắt tôi trải qua. Tôi cố giấu những đứa trẻ đi khi tôi nghe thấy chúng đang tới. Chúng mang những đứa trẻ quay lại trong tình trạng điên cuồng hung hãn, trí nhớ bị xóa sạch. Tôi hỏi. "Các em đi đâu vậy? Người ta bắt các em làm gì?" Nhưng những đứa trẻ chả nhớ mảy may." Cô ta lắc đầu. "Nhưng chúng lại bị những cơn ác mộng. Những cơn ác mộng khủng khiếp. Thật khó mang chúng ra bán sau đó."
"Tôi đáng lẽ phải bán cô." Emma nói, tái nhợt, run bần bật. "Cho dù chắc sẽ chẳng có ai chả lấy nửa xu."
Tôi đút tay nắm tay vào túi để ngăn mình vung nắm đấm về phía Lorraine. Còn có nhiều thứ cần moi từ cô ta. " Thế còn những người đặc biệt bị chúng bắt về từ các Vòng Thời Gian khác thì sao?" Tôi hỏi.
"Chúng đưa hỏi đi qua bằng xe tải. Trước đây chỉ họa hoằn mới có. Nhưng gần đây thì liên tục."
" Hôm nay có chiếc xe tải nào mới đi qua không?" Tôi hỏi.
"Chừng vài giờ trước." Cô ta nói. "Chúng bố trí lính gác mang súng khắp nơi, chặn cả phố. Làm một màn rõ làm ruộng."
"Thường thì chúng không làm thế sao?"
"Không thường xuyên. Hẳn là chúng cảm thấy an toàn tại đây. Lần chuyển hàng này chắc phải quan trọng lắm."
Chính là họ. Tôi nghĩ. Một cơn phấn khích lan khắp người tôi - nhưng lập tức bị dập tắt bởi những lời Addison ném về phía Lorraine. " Tôi tin chắc là chúng cảm thấy tuyệt đối an toàn tại đây." Nó gầm gừ nhe răng ra. "Giữa những kẻ phản bội từ đầu đến chân đến này kia mà."
Tôi tóm lấy vòng cổ của nó và giữ nó lại. "Bình tĩnh!"
Addison lồng lên chống lại tôi, và trong một thoáng Tôi đã nghĩ nó có thể đớp vào bàn tay tôi, nhưng rồi nó dịu xuống.
" Chúng tôi làm những gì phải làm để sống sót." Lorraine nói.
"Cả chúng tôi cũng thế." Emma nói. "Bây giờ nói cho chúng tôi biết những chiếc xe tải đó chạy đi đâu, và nếu cô nói dối, hay những gì cô nói hóa ra là một cái bẫy, tôi sẽ quay lại và đun chảy hai lỗ mũi của cô cho tắt tịt lại." Cô dâu một ngón tay cháy rực ra ngay trước chóp mũi Lorraine. "Đồng ý chứ?"
Tôi gần như có thể hình dung ra cảnh Emma làm chuyện đó. Cô đang chạm vào một cái giếng sâu của lòng căm thù, thứ tôi chưa bao giờ thấy cô bộc lộ hoàn toàn ra trước đây, và cho dù rất hữu ích cho những tình huống như lúc này, nó cũng có phần đáng sợ. Tôi không thích phải nghĩ tới những gì không dám làm khi có động cơ chính đáng.
" Bọn họ đi tới lãnh địa của họ Đồng Ma." Lorraine nous, quay mặt tránh khỏi ngón tay bỏng rực của Emma. "Bên kia cầu."
"Cầu nào?" Emma hỏi, gí ngón tay lại gần hơn.
"Ở đầu trên Phố Khói. Tuy nhiên, đừng mất công tìm cách vượt qua cầu, trừ phi các vị thích cuối cùng đầu mình ngụ trên một cái cọc."
Tôi đoán đó là tất cả những gì chúng tôi có thể moi được từ Lorraine. Giờ chúng tôi cần phải nghĩ xem nên làm gì với cô ta. Addison muốn cắn cô ta. Emma muốn dùng muốn tay sáng trắng vạch một chữ N trên trán cô ta, đánh dấu cô ta cả đời là một kẻ buôn nô lệ. Tôi thuyết phục họ từ bỏ ý định làm cả hai việc đó, thay vì thế chúng tôi bịt miệng cô ta lại bằng một vài dây kéo rèm và trói cô ta vào một chân bàn làm việc. Chúng tôi sắp sửa bỏ cô ta lại như thế thì tôi chợt nghĩ, còn một điều cuối cùng tôi muốn biết.
" Chuyện gì đã xảy ra với họ, những người đặc biệt mà chúng bắt cóc ấy?"
"Ừmm!"
Tôi gỡ nùi bịt miệng cho cô ta.
"Không ai thoát ra được để kể lại." Cô ta nói. "Nhưng có những tin đồn."
"Đồn thế nào?"
"Có thứ gì đó còn kinh khủng hơn cả cái chết." Cô ta dành cho chúng tôi một nụ cười thớ lợ. " Tôi đoán là các vị sẽ phải tìm ra thôi, phải không nào?"
* * *
Ngay sau khi chúng tôi mở cửa phòng làm việc, người đàn ông mặc áo khoác lao qua phòng khách xông lại chỗ chúng tôi, bàn tay cầm thứ gì đó nặng trịnh vung lên. Nhưng y chưa kịp tới chỗ chúng tôi, một tiếng cảnh báo ú ớ vọng ra từ phòng làm việc khiến y dừng lại, đổi hướng chạy xem tình hình của Lorraine. khi y lao qua ngưỡng cửa vào trong, Emma đóng sầm cửa lại sau lưng y rồi nung chảy tay cầm thành một khối méo mó vô dụng.
Việc này cho chúng tôi thêm một hay hai phút.
Addison và tôi lao về phía lối ra. Đến nửa đường, tôi nhận ra Emma đã không bám theo. Cô đang đập thình thịch nên tấm kính chắn khu vực giam mấy người đặc biệt.
" Chúng tôi có thể giúp các bạn thoát thân! Hãy chỉ cho tôi cửa ở đâu!"
họ lờ đờ quay lại nhìn chằm chằm, uể oải nhúc nhắc trên ghế hay trường kỷ của mình.
"Ném thứ gì đó để đập vỡ kính đi!" Emma nói. "Nhanh lên!"
Không ai động đậy. Họ có vẻ bối rối. Có lẽ họ không tin việc giải cứu thực sự khả thi - hoặc có lẽ họ không muốn được giải cứu.
"Emma, chúng ta không thể đợi được." Tôi nói, nắm lấy cánh tay của cô.
Cô không chịu bỏ cuộc. "Làm ơn!" Cô hét lớn qua ống nói. "Ít nhất hãy để những đứa trẻ ra!"
Những tiếng la hét khản cổ vọng ra từ bên trong phòng làm việc. Cánh cửa rung lên trên bàn lề. Tuyệt vọng, Emma dùng nắm tay đấm thình hình lên tấm kính.
"Có chuyện gì với họ vậy?"
Những cái nhìn chằm chặp kế tiếp nhau. Cậu bé và cô bé bắt đầu khóc
Addison lấy răng ngậm lấy gấu váy Emma. "Chúng ta phải đi!"
Emma buông ống nói xuống và cay đắng quay đi.
Chúng tôi chạy tới, hất mở tung cửa rồi ào ra ngoài vỉa hè. Một màn tối dày đặc màu vàng đã tràn vào, trùm kín một lớp sương mờ lên mọi vật và che kín một bên đường phố khỏi phía bên kia. Trong khí hối hả chạy tới cuối khối nhà, chúng tôi có thể nghe thấy Lorraine đang tru tréo đằng sau lưng mình mà không thể thấy cô ta; chúng tôi rẽ vào một góc phố rồi một góc khác cho tới khi chúng tôi có vẻ đã cắt đuôi được cô ta. Trên một con phố vắng tanh, chúng tôi dừng lại trước mặt tiền của một cửa hàng được trên ván kín để thở lấy hơi.
"Cái đó gọi là hiệu ứng Stockholm." Tôi nói. "Khi người ta bắt đầu có cảm tình với những kẻ bắt giữ họ."
" Tôi nghĩ chỉ đơn giản là họ sợ." Addison nói. "Họ có thể chạy đi đâu chứ? Toàn bộ nơi này là một nhà tù."
" Cả hai người đều nhầm." Emma nói. "Họ bị đánh thuốc."
"Nghe cậu nói có vẻ rất chắc chắn." Tôi nói.
Cô gạt những sợi tóc đã rơi xõa xuống trán ra sao. "Khi tôi còn làm việc ở gánh xiếc sau khi chạy trốn khỏi nhà, một người phụ nữ đã tiếp cận thứ sau một lần trình diễn nuốt lửa của tớ. Bà ta nói biết tớ là ai - và biết những người khác cũng giống như tớ - và tớ có thể kiếm nhiều tiền hơn nhiều nếu tớ làm việc cho bà ta." Emma nhìn chăm chăm ra phố, hai má cô đỏ ửng sau cuộc chạy gấp. "Tớ đã nói với bà ta là tớ không muốn đi. Bà ta vẫn cứ nài nỉ. Cuối cùng, khi rời đi, bà ta rất tức giận. Tối đó, tớ thức dậy ở đằng sau một thùng xe ngựa, miệng bị bịt, hai bàn tay bị trói. Tớ không thể nhúc nhích, không thể suy nghĩ tỉnh táo. Chính cô Peregrine đã cứu tớ. Nếu cô ấy không tìm thấy tớ đi bọn chúng dừng lại để đóng móng ngựa ngày hôm sau." Emma hất hàm ra sau lưng chúng tôi, chúng tôi vừa từ đó chạy tới - " Có lẽ tôi cũng đã thành ra như họ."
"Cậu chưa bao giờ kể với tớ chuyện đó." Tôi khẽ nói.
"Đó không phải là chuyện tớ thích nói đến."
" Tôi rất tiếc vì chuyện đó đã xảy ra với cô." Addison nói. "Người phụ nữ ở chỗ đó - có phải cô ta là người đã bắt cóc cô không?"
Emma ngẫm nghĩ giây lát.
" Chuyện đó đã xảy ra quá lâu rồi. Tôi đã quên phần tồi tệ nhất của nó, kể cả khuôn mặt kẻ bắt cóc tôi. Nhưng tôi biết người này. Nếu hai người để tôi một mình với người phụ nữ đó, tôi không chắc tôi có thể ngăn mình lấy mạng cô ta hay không."
"Tất cả chúng ta đều có những con quỷ cần trừ diệt." Tôi nói.
Tôi tựa người vào một khung cửa được che ván kín, cơn mệt mỏi kiệt quệ đột nhiên bao trùm khắp người. Chúng tôi chưa được ngủ bao lâu rồi? Đã bao nhiêu giờ tôi qua kể từ khi Caul lộ diện? Cứ như đã nhiều ngày trôi qua, Mặc dù không thể quá mười hay mười hai giờ. Mỗi khoảnh khắc kể từ lúc đó là một cuộc chiến, một cơn ác mộng của vật lộn và kinh hoàng không hồi kết. Tôi có thể cảm thấy cơ thể mình đau nhức đến sắp gục ngã. Hoảng sợ là điều duy nhất giữ cho tôi đứng thẳng, và khi nó bắt đầu mờ nhạt đi, tôi cũng muốn lả đi theo.
Chỉ trong một phần nhỏ nhất của một giây, tôi cho phép mắt mình nhắm lại. Thậm chí trong khoảng gián đoạn ngắn ngủi trong bóng tối ấy, những nỗi kinh hoàng cung chờ đợi tôi. Một bóng ma của cái chết vĩnh cửu bò rạp xuống ăn thi thể ông nội tôi, mắt nó nhểu ra từng giọt dầu. Cũng chính đôi mắt đó bị cắt lưỡi kéo làm vườn cắm ngập vào, trắn trối chìm dần xuống một nấm mồ lầy lội. Mặt nó méo mó trong đau đớn, nó ngã lộn ngược xuống một khe vực, chìm nghỉm, gào thét. Tôi đã giết con quỷ của mình rồi, song chiến thắng chỉ là thoáng qua, những con quỷ khác đã nhanh chóng xuất hiện để thay thế nó.
Tôi vụt mở mắt khi nghe thấy tiếng bước chân sau lưng mình, ở phía bên kia của khung cửa bị che ván. Tôi bật tránh ra và quay lại. cho dù cửa hàng có vẻ bỏ hoang, nhưng đang có ai đó ở bên trong, và những người đó đang đi ra.
Thế rồi nó đấy: sự hoảng hốt. Tôi lại bừng tỉnh, hai người kia cũng đã nghe thấy tiếng động. Hành động theo bản năng tập thể, chúng tôi thụp xuống nấp sau một đống củi gần đó. Qua các súc củi, tôi ghé mắt nhìn về phía mặt tiền cửa hàng, đọc tấm biển đã mờ treo phía trên cửa ra vào.
Munday, Dyson và Strype, luật sư. Bị người ta căm ghét và kinh sợ từ năm 1666.
Một cái then trượt trên chốt cái và cánh cửa ra vào từ từ mở ra. Một cái mũ trùm đầu đen quen thuộc xuất hiện: Sharon. Ông ta nhìn quanh, cho rằng xung quanh đều an toàn, ông ta lách ra và khóa cửa lại sau lưng mình. Trong khi ông ta hối hả đi về phía Phố Mập Mờ, chúng tôi thì thầm bàn nhau xem liệu có nên bám theo hay không. Liệu chúng tôi có cần ông ta nữa không? Có thể tin ông ta được không? Có thể và có thể. Ông ta đã làm gì bên trong mặt tiền của hàng đóng kín mít đó? Có phải đó là luật sư ông ta nói cần đi gặp hay không? Tại sao phải lén lút vậy?
Quá nhiều câu hỏi, quá nhiều điều không chắc chắn về ông ta. Chúng tôi quyết định chúng tôi có thể tự xoay xở được. Chúng tôi vẫn nấp yên và theo dõi khi ông ta mờ dần trong đám màn tối rồi biến mất.
* * *
Chúng tôi lên đường đi tìm Phố Khói và cây cầu của lũ xác sống. Không muốn mạo hiểm bước vào một cuộc chạm trán không lường trước nữa, chúng tôi quyết định tìm kiếm mà không hỏi đường. Chuyện này trở nên dễ hơn khi chúng tôi đã khám phá ra những tấm biển trên phố của Đồng Ma, thường được ẩn giấu ở những nơi ít gây chú ý nhất - đằng sau các băng ghế công cộng ở ngang tầm đầu gối, treo toòng teng từ đỉnh cột đèn xuống, khắc lên những tấm đá lót đường đã mòn dưới chân - nhưng ngay cả với sự trợ giúp của chúng, chúng tôi vẫn rẽ nhầm hướng nhiều ngang với số lần rẽ đúng. Có vẻ như Đồng Ma đã được thiết kế để khiến cho những ai bị mắc kẹt bên trong nó hóa điên. Có những con phố kết thúc bằng bữa tường lù lù chắn ngang đường để rồi lại bắt đầu ở một nơi khác. Có những con phố uốn ngoặt gấp tới mức gần như thành hình xoáy trôn ốc. Có những con phố không tên - hai hay ba phố. Không con phố nào ngăn nắp hay được giữ gìn tư thế như Phố Mập Mờ, nơi rõ ràng đã có một nỗ lực đặc biệt nhằm tạo ra một môi trường thoải mái cho những người khác trên thị trường mua bán người đặc biệt - Giờ đây sau khi tôi đã thấy qua cửa hàng của Lorraine và nghe được câu chuyện của Emma, ý tưởng đó khiến tôi cảm thấy lợm giọng.
Trong lúc chúng tôi lang thang, tôi bắt đầu nắm bắt được bố cục có một không hai của Đồng Ma, nhận ra các khối nhà bằng các đặc điểm của chúng nhiều hơn bằng tên. Mỗi con phố đều có đặc trưng riêng, những cửa hàng nằm dọc phố tập trung lại theo chủng loại. Phố Sầu Thảm có hai nhà đòn, một hiệu gọi hồn và một cửa hàng mộc chỉ chuyên về "gỗ quan tài tái sử dụng", một đội những người khóc mướn chuyên nghiệp vốn là một nhóm tứ ca nhà thờ vào các dịp cuối tuần, và một kế toán thuế. Phố Ri Rỉ lại vui mắt lạ lùng, với những chậu hoa treo xuống từ các bậu cửa sổ và những ngôi nhà sơn màu sáng; thậm chí cả lò sát sinh tọa lạc cũng có màu xanh mời gọi của trứng chim cổ đỏ, và tôi phải cưỡng lại cái thôi thúc kỳ quặc là vào trong yêu cầu một chuyến tham quan. Phố Dừa Cạn, ngược lại, là một nơi bẩn thỉu kinh khủng. Có một đường cống thoát lộ thiên chạy dọc tâm phố, một cộng đồng ruồi đông nghịt hung hãn, và hai bên vỉa hè chất đống rau củ thối ủng, tài sản của một ông hàng rau củ bán đại hạ giá, biển hiệu của ông ta tuyên bố ông ta có thể làm những món hàng này tuơi trở lại chỉ bằng một cái hôn.
Đại Lộ Còm Nhom chỉ dài có mười lăm mét và chỉ có một ngành kinh doanh: hai người đàn ông bán đồ ăn vặt đựng trong một cái sọt đặt trên xe trượt. Những đứa trẻ xúm xít đông nghịt xung quanh, ồn ào xin ăn, và Addison chạy tới ngửi hít quanh chân chúng tìm mảnh rơi mảnh vãi.tôi đang định gọi với theo nó thì một trong mấy người đàn ông la to. "Thịt mèo! Thịt mèo luộc đây!" Con chó lại cum cúp trại trở lại, đuôi cụp vào giữa hai chân sau, rên rỉ. " Tôi sẽ không bao giờ ăn nữa, không bao giờ, không bao giờ nữa..."
Chúng tôi tới gần Phố Khói từ Mờ Ảo Thượng. Chúng tôi càng lại gần thì càng thấy khối nhà này có vẻ tàn tạ, với các mặt tiền cửa hàng bị bỏ hoang, các vỉa hè trống trơn, mặt đường đen kịt vì những luồng tro thổi quanh chân chúng tôi, như thể chính con phố nhiễm phải một sự chết chóc nào đó đang từ từ lan tràn. Đến cuối, con phố ngoặt gấp sang phải, và ở ngay trước chỗ ngoặt là một ngôi nhà gỗ cũ kỹ với một người đàn ông cũng già cả không kém canh chừng ngoài hiên. Ông ta quét tro đi bằng một cây chổi rơm lởm chởm, nhưng tro tích lại thành đống nhanh đến mức không ta khó có thể trông mong hót đi được.
Tôi hỏi ông lão vì sao lại mất công như vậy. Ông lão đột ngột ngước lên nhì