Phần thứ nhất - III & IV
Trình, Khoa và Trâm đã ra ngồi uống cà-phê ở ngoài hiên. Trâm trỏ vào buồng giấy gọi chồng:
- Mời cậu ra xơi, chẳng nguội mất cả rồi.
Tiếng Bỉnh đáp lại:
- Mợ mời hai chú xơi trước đi. Tôi còn bận xem nốt tập công văn cho xong đã.
- Vậy chốc cậu ra pha “tách” khác, nhé? Hay đem vào trong ấy cho cậu uống?
- Được, chốc pha chén khác.
Trâm mỉm cười bảo hai em chồng:
- Càng hay! Chúng mình càng được uống nhiều.
Vừa nói nàng vừa bỏ cái lọc xuống khay để chiết thêm cà-phê sang cốc của Trình và Khoa.
Tiếng Bỉnh Hỏi:
- Mợ! Đã lấy xì-gà rồi đấy chứ?
Trình vội đáp:
- Thưa anh, đã có rồi, chúng em đương hút. Ngon lắm?
Trâm giữ kẽ không hỏi chuyận “cô Ba” nữa. Nàng vẫn thường khoe khoang rằng mình ít lời, không hay lôi thôi với người này người nọ. Vì thế, nàng đã xoay sang câu chuyện làm ăn, hỏi thăm về mùa màng, về khí hậu ở nhà quê, về sức khỏe từng người, từ hai “thím” đến cháu Bạc, cháu Nam, cháu Phiên, cháu Liên. Đạc là con trai của Khoa. Còn Nam, Phiên và Liên là con Trình, hai trai, một gái.
- Thưa chị, cháu Nam đỗ sơ học yếu lược rồi đấy ạ.
- Tôi đã biết... Anh có nói chuyện.
- Vâng, ngày cháu thi đỗ, em có đánh dây thép cho anh.
- Nhà tôi bảo muốn để cháu lên Hà Nội học với cháu San.
- Thưa chị, năm nay cháu San chưa thi bằng tốt nghiệp?
- Sang năm cháu mới thi chứ...Nhưng các chú đi đường xa thế chắc mệt lắm. Xin mời hai chú đi nghỉ thôi.
- Được, chị cứ mặc chúng em... Còn sớm.
Trâm toan đứng dậy vào nhà trong, thì Bỉnh đã bước ra hiên, tay cầm tờ giấy gấp tư, cười cười nói nói:
- Hà hà! Lạ quá, hai chú ạ. Vừa nhắc đến cô ta thì có tin của cô ta tới nơi.
Bỉnh đưa thư cho Trình nói tiếp:
- Tôi thấy lẫn trong tập công văn cái thư này nhận được không biết từ bao giờ.
Trâm ngơ ngác hỏi chồng:
- Thư nào thế? Thư của ai thế?
- Của troisième ấy mà.
Bốn người vội vàng theo nhau vào phòng. Rồi Khoa giựt lấy bức thư ở trong tay Trình, cầm đọc:
Anh Huyện,
Tôi có mấy lời lên hỏi thăm anh chị và các cháu mạnh khỏe thì tôi mừng lắm. Ở nhà, tôi và em Cúc, nhờ giời vẫn được như thường. Anh Trình, chị Trình, anh Khoa, chị Khoa và các cháu bên ấy nhờ ơn Phật tổ phù hộ cũng đều được bình an cả...
Khoa ngừng đọc, bảo Bỉnh:
- Vì hôm cô ta viết thư này, chúng em còn ở nhà.
Trình nói:
- Bây giờ cô ta mộ đạo lắm. Động một tí là giở Phật tổ ra.
Trâm chêm một câu bình phẩm chua chát:
- Hạng người ấy, còn giời phật nào chứng cho! Cứ ở ác rồi cúng lễ, cầu khấn, nay chùa này, mai chùa kia thì khi xuống âm phủ bọn họ dễ chả ai phải vào địa ngục, mà địa ngục chỉ riêng dành cho bọn nghèo đói không có tiền sắm lễ.
Khoa cười:
- Chuyện! Phú quý mới sinh lễ nghĩa được chứ!
Bỉnh cũng cười:
- Nhưng làm quái gì có địa ngục ở âm phủ!
Khoa đọc tiếp:
Anh chị ạ, từ ngày thầy qua đời, cảnh gia đình nhà ta buồn tẻ quá, lắm lúc tôi chỉ muốn khóc. Tôi nghĩ bao nhiêu, tôi lại thương thầy bấy nhiêu. Phải không anh chị, thầy hiền lành, nhân đức như ông bụt, chả làm hại ai bao giờ, sao nay linh hồn thầy lại không được vui vẻ mà nhìn cảnh gia đình xum họp, mà được thấy các anh các chị với tôi với em Cúc hòa thuận, yêu mến nhau. Thầy thiêng lắm đấy anh ạ. Thầy thường hiện lên luôn. Trong giấc chiêm bao tôi thấy thầy buồn lắm...
Khoa lại ngừng đọc, hỏi Bỉnh:
- Anh có chiêm bao gặp thầy bao giờ không?
Bỉnh ngẫm nghĩ một lát rồi đáp:
- Không.
- Em cũng vậy.
Trâm thì thầm:
- Tôi thì tôi gặp thầy luôn. Trông thầy y như lúc còn sống.
Trình mỉm cười:
- Em không gặp luôn, nhưng có hai lần em chiêm bao thấy thầy về. Thầy không nói gì hết, thầy chỉ yên lặng đứng nhìn thôi.
Khoa thở dài:
- Chóng nhỉ! Thế mà thầy mất đã được hơn bốn năm rồi đấy.
Chàng lại đọc:
Tôi đến chơi nhà bà tuần Bùi mà tôi thèm cái cảnh hòa hợp của người ta. Cụ tuần mất đi, các bà ở chung một nhà vui vẻ quá. Chắc anh chị cũng quen cụ tuần Bùi đấy, cậu Tư có nói chuyện đến anh và gửi lời hỏi thăm anh...
Trình ngắt lời em:
- Ô chào: thư từ lôi thôi quá. Vậy cô ta muốn cái gì? Muốn giở trò gì ra nữa? Hay là muốn bẫy anh em mình đây?
Trong khi ấy, Khoa vẫn đọc nhẩm. Chàng bỗng bật cười nói:
- Đây rồi, đến đoạn cốt tử rồi:
Tôi muốn lên chơi huyện để nói với anh chị hết cả những ngành ngọn, hết cả mọi điều và cảnh gia đình nhà ta, nhưng độ rầy tôi yếu lắm, mệt luôn đấy anh ạ, em Cúc cũng chả được khỏe. Vậy nếu anh bớt bận mà về chơi nhà quê được, hiện giờ tôi còn ở nhà quê ít lâu, để tôi nói câu chuyện, thì mới nói được rõ ràng, chứ không tiện viết trong thư.
Chuyện quan hệ lắm, anh ạ, anh cố bớt thì giờ mà về. Hay rằm tháng Bảy này nhân tiện tôi lập đàn cúng cho thầy ở chùa, và nếu anh bằng lòng thì tôi đốt mã nữa, anh cố mà về lấy hai hôm cho tôi được nói chuyện, nhiều chuyện lắm, anh ạ, mà tôi cần phải nói với anh. Thầy mất đi, anh là trưởng, trong nhà việc gì cũng phải hỏi anh, cũng phải bàn với anh, anh có ưng thì mới được...
Bỉnh phá lên cười:
- Mãi giờ cô ta mới nhận thấy điều ấy.
Khoa chêm:
- Cô ta lấy lòng anh đấy. Chắc sắp xảy ra chuyện chẳng lành đây.
Trâm vẻ mặt trầm trọng:
- Cậu phải cẩn thận, khéo không lại vào tròng thôi. Cậu nhẹ dạ, dễ tin lắm cơ.
Trình hỏi Khoa:
- Hết rồi?
Còn một câu nữa:
Thế nào anh cũng cố mà về nhé. Tôi xin đền anh tiền ét-xăng. Anh chả thiếu gì, nhưng tôi làm thế cho công bằng. Vả lại, tôi làm đại lý ét-xăng thì cũng chả thiệt gì. Vậy anh về nhé. Cả chị nữa, càng hay...
Khoa ngả đầu, nói:
- Hết ạ.
Trâm mặt hầm hầm:
- Cám ơn câu vuốt đuôi.
Bỉnh khôi hài để Khoa khỏi hiểu lầm:
- Mợ làm như mợ nói với chú Ba không bằng!
- Không, tôi nói câu vuốt đuôi của cô Ba viết trong thư đấy chứ? - Úi chào! “Cả chị nữa!”... Còn anh thì anh vâng lời cô chứ?
- Đã hẳn.
Không khí trong phòng trở nến lạnh lẽo. Tiếng vo vo của cây đèn măng-sông càng làm tăng yên lặng nặng nề. Ai nấy ngây ngất như nhịn thở để suy nghĩ. Bỗng Trình bàn:
- Hay ba anh em ta cùng về?
Khoa khen:
- Phải đấy!
Bỉnh cười:
- Mà về ngay để tránh cái đàn chay của cô ta.
Trâm vơ vẩn hỏi:
- Về à?... Nên bàn cho kỹ đã.
- Được rồi, mai bàn. Bây giờ thì hãy để hai chú đi nghỉ.
- Vâng, mời hai chú đi nghỉ. Màn đã buông rồi đấy ạ. Hai chú nằm nghỉ ở sập gụ cho mát, cũng được.
Khoa lơ đãng:
- Được ạ. Xin mời anh chị đi nghỉ! Cư để mặc chúng em.
Sau khi vợ chồng Bỉnh vào tự thất, Trình và Khoa đứng nhìn nhau hồi lâu, vẻ mặt bần thần. Trình bảo em:
- Thôi, đi ngủ.
Hai người thong thả thay quần áo.
Rồi Trình vặn tắt đèn măng-sông, bước lên giường nằm. Khoa uể oải hỏi:
- Anh không nằm sập?
- Được, chú nằm sập, tôi nằm giường cho dễ ngủ. Chẳng nằm bên nhau hay nói chuyện lắm.
Một giờ sau. Bỗng Trình cất tiếng hỏi:
- Khoa ngủ rồi?
- Chưa anh ạ... Lạ giường khó ngủ quá.
Sự thực, cũng như anh, Khoa đương băn khoăn, loay hoay nghĩ ngợi về bức thư của người đàn bà mà đã hơn hai năm nay chàng không gặp mặt, tuy thỉnh thoảng người ấy cũng có về làng để thu thóc thuế và đòi các công nợ.
- Anh có đoán về việc gì mà cô ta lại viết thư lên mời anh huyện không?
- Chừng cô ta nịnh anh huyện, muốn lấy lòng anh chứ gì.
Nửa giờ qua, Khoa lại hỏi:
- Anh ngủ rồi?
- Chưa, Khoa ạ.
- Hay cô ta lập mưu ly gián anh em ta đấy?
Trình cười:
- Ồ! Ly gián thế nào được! Anh em chúng mình thì Tư Đồ tái thế cũng không chia rẽ nổi. Nhưng ta ngủ thôi. Cấm không ai được nói nữa đấy nhé.
Quả từ đấy không ai nói nữa. Nhưng cũng không ai ngủ được.
IVHôm sau là Chủ nhật. Trình và Khoa cùng dậy rất sớm. Dậy sớm là một thói quen ở nhà quê, dù đêm trước người ta chỉ chợp mắt trong khoảng một, hai giờ đồng hồ.
Trình ngồi ngả lưng trến ghế bành, hai chân duỗi thẳng, ngáp luôn ba cái. Khoa tựa cửa sổ yên lặng nhìn ra cái vườn con ở đầu trái, mắt lơ đãng theo đôi bướm lam đuổi nhau bay chập chờn trên những khóm bồ tát hoa đỏ còn lấp lánh giọt sương mai, trên những bông cúc vạn thọ vàng, trồng trong miếng đất hình bầu dục vây cỏ và tóc tiên.
Trình lắng tai nghe tiếng hót của con chích chòe, và bảo em:
- Ở đây yên tĩnh như ở nhà quê, Khoa nhỉ?
Khoa quay lại cười, đáp:
- Thì đây khỏi là nhà quê!
Trình vừa nhớ lại cái huyện nhỏ mà ở đấy chàng đã sống gần bốn năm thơ ấu với Bỉnh và Khoa, với một người mẹ quá nuông chiều con. Chàng vụt có một ý nghĩ buồn rầu: “Không biết anh huyện có để bụng những sự ăn ở bất công của mẹ ta đối với anh ngày trước không?”
Chàng thấy hiện ra trong ký ức hình ảnh người đàn bà ốm yếu với cái giọng nói the thé, với hai hàm răng rít lại mỗi khi nhiếc mắng đầy tớ. Chàng rùng mình một cái và cất tiếng nói để xóa vội quãng thời xưa đương trở lại:
- Mấy giờ rồi, Khoa?
Khoa rút đồng hồ xem:
- Năm giờ băm nhăm.
- Mới thế thôi?
- Về mùa hè ngày dài, nên anh tưởng muộn rồi.
Trình đứng dậy dang hai cánh tay ra uốn mình vươn vai, rồi tò mò cúi soi vào nước mưa trong, đựng đầy cái chậu sứ men trắng, lòng vẽ cành hồng màu đỏ đặt trên chiếc giá gỗ ở một góc phòng.
- Rửa mặt rồi ra phố chơi đi.
- Vâng, phải đấy.
- Hôm nay Chủ nhật, chắc anh huyện ngủ trưa.
Như để đáp lại Trình, tiếng giầy kinh lệt sệt từ tư thất đi lên. Và Bỉnh vào phòng cười cười nói nói:
- Tôi nghĩ ra rồi, hai chú ạ. Cô ta muốn bàn việc gả chồng cho Cúc. Đích thế, hai chú ạ.
Khoa nghĩ thầm: “Thì ra đêm hôm qua anh huyện cũng loay hoay về bức thư”.
Trình hỏi:
- Anh có biết gả cho ai không?
- Nghe đâu một sinh viên cao đẳng, trường Thuốc hay trường Luật gì đấy...
Khoa tiếp, giọng qua quyết:
- Trường Luật.
- Chú biết à?
- Không, em đoán thế, đoán chắc thế, vì cô ta sính quan lắm, khi nào lại chịu kén rể đốc-tờ.
Cả ba người cùng cười. Bỉnh khen:
- Tâm lý lắm!
Khoa thêm:
- Cô ta chẳng sính quan mà mới ngoài hai mươi lại chịu đi lấy một ông lão gần sáu mươi.
Trình cười, đọc luôn câu ca dao:
- Giời mưa nước chảy qua sân,
Em lấy ông lão qua lần thì thôi.
Bao giờ ông lão chầu giời
Thì em lại lấy một người trai tơ.
- Bậy! Chú chỉ bậy!... Thôi, hai chú rửa mặt rồi ta ra tỉnh chơi.
- Ta không về à?
- Ừ nhỉ. Tôi quên bẵng đi đấy... Nhưng có nên về ngay không? Nhà tôi bảo hãy thong thả, vậy hai chú nghĩ sao?
- Cái đó tùy anh, tùy anh chị. Cô ta chỉ mời có anh chị.
Bỉnh ngẫm nghĩ, cho là Khoa nói kháy, nói mỉa rằng người dì ghẻ muốn ăn cánh riêng với mình. Sự thực, câu nói của Khoa rất tự nhiên và thẳng thắn, không có ý tứ gì xa xôi.
- Được rồi. Về! Ăn cháo xong rồi về.... Xem chuyện gì mà quan hệ đến thế.
Bỉnh cười ha hả, như thích chí lắm. Trình nói:
- Phải đấy anh ạ. Về ngay xem cô ta muốn giở trò trống gì.
- Nhưng ăn cháo đã!
Bỉnh xuống nhà. Trình và Khoa cùng rửa mặt. Bỗng Trình như nói một mình:
- Ừ, có lẽ thế đấy.
- Anh bảo gì?
- Có lẽ cô ta sắp sửa gả chồng cho con.
- Gả chồng cho con thì việc gì phải mời anh huyện về?
Trình vừa xát xà-phòng lên mặt vừa đáp:
- Thì cũng làm ra thế. Chả nhẽ gả bán một mình, anh em họ hàng chẳng có ai nhìn nhận đến!
Khoa bật cười:
- Ấy là còn đoán thế. Đã biết đâu rằng người ta gả chồng cho con!
Sau một lát im lăng, Khoa lại cười!
- Thì cứ mặc kệ có hơn không. Chúng mình làm như sợ hãi một tin quan trọng về cô ta.
Nhận thấy câu nói của mình hơi hỗn xược, Khoa chữa liền:
- Phải không, anh nhỉ, chúng mình sợ cóc gì cô ta!
Trình vắt khăn mặt lên thành dá.
- Cô ta sợ chúng mình thì có.
Để tỏ sự lo sợ của người đàn bà, chàng kể không biết lần thứ mấy những câu chuyện mà chàng coi như em chưa được nghe, những chuyện do thám trong nhà, những lời thuật lại của bọn “lắm mồm lắm miệng”, cả những câu khấn khứa của người đàn bà ở trước bàn thờ cha nữa. Chàng nói:
- Chú có nhớ câu cô ta khấn thầy ngày giỗ năm ia không?
- Có. Cô ta khấn: Lạy quan lớn...
Khoa phì cười tiếp:
- Quan lớn! Anh có biết tại sao cô ta cứ khấn thầy là quan lớn không?
- Thì cô ta quen mồm đi rồi chứ sao. Ngày sinh thời thầy, cô ta vẫn gọi thầy là quan lớn.
- Nhưng tại sao ngày sinh thời thầy, cô ta lại gọi thầy là quan lớn?
- Để tỏ rằng mình là bà lớn chứ gì!
- Vâng, chính thế... Ngày giỗ ấy, cô ta khấn: “Lạy quan lớn, quan lớn phù hộ cho nhà được vui vẻ, hòa thuận”.
- Cũng như lời trong bức thư gửi cho anh huyện.
- Vâng chính thế. Cô ta chỉ sợ chúng mình lôi thôi. Có biết đâu chúng mình khinh không thèm chấp, không thèm nghĩ tới.
Hai người vừa nói chuyện vừa mặc quần áo. Trình mặc ta, nên chỉ việc đóng cái áo trắng dài vào và chụp cái khăn lên đầu là xong. Còn Khoa, thay mặc tây nên đã vào phía sau màn. Chàng như nói một mình:
- Vẫn cái lối lấy lòng bằng tiền. “Tôi chịu tiền dầu xăng cho anh”!
Trình cười:
- Khoa làm như trước kia cô ta vẫn lấy lòng chúng mình bằng tiền!
- Em nói đối với người khác cơ chứ! Đấy anh coi, ở làng ta bây giờ, họ đi lại nịnh hót cô ta, một điều cụ lớn, hai điều cụ lớn. Mà cô ta có mất gì đâu! Chẳng qua cho vay thì bắt viết ruộng! Lãi thì nặng chẳng kém chỗ khác.
- Hơn cũng có ấy chứ lị!
Trình giọng khinh bỉ:
- Hừ! Tiền! Cô ta tưởng cứ giàu thì sung sướng được.
- Vâng, giàu thì sung sướng quái gì! Con đầy tớ của cô ta nó thường sang kháo chuyện với nhà em rằng đêm hôm động có tiếng kêu là cô ta run cầm cập, nói không ra hơi nữa. Mà hôm nào cũng cứ chập tối đã thét người nhà đóng khóa các cửa.
Cả hai cùng thích chí cười ha hả. Nhưng cả hai cùng không khỏi nghĩ đến cái đời vật chất sung sướng và đầy đủ. Đừng nói những ai giàu có hàng chục vạn vội, cứ nhìn ngay Bỉnh cũng nhận thấy rằng tiền của làm người ta dễ chịu, vui vẻ, bình tĩnh, mạnh khỏe nữa.
Nhất đối với Khoa, đã được ăn ở hai năm trong trường trung học Albert Sarraut, thì sống đầy đủ lại càng là một ước vọng, hầu như một điều cần thiết cho con người, nếu muốn sung sướng.
Chàng nhớ tới những tháng túng tiền tiêu vì chưa đòi được công nợ hay vì thóc ế và hạ không bán được, vợ chồng phải ép lòng cần kiệm: Gạo dùng ngày ba bữa tuy không hẩm nhưng cũ và hôi, còn thức ăn thì thường trên cái mâm đồng đánh sáng nhoáng chỉ lỏng chỏng một đĩa dưa một dĩa cà, một đĩa rau muống luộc và hai bát canh rau đay nấu cua đồng.
Ấy là nhà chàng còn khá đấy, chứ bên nhà Trình - hai anh em tuy ở chung, nhưng vẫn ăn riêng - thì những ngày túng thiếu người vợ lại hà tiện quá quắt, bữa nào cũng chỉ dọn một dĩa rau muống và một bát nước rau luộc, nổi lềnh bềnh mấy quả cà chua.
So sánh mâm cơm quê mùa với bàn tiệc chiều hôm trước? Ôi mỉa mai!
Giữa lúc ấy, người nhà lên mời sang phòng bên ăn sáng. Trình hỏi:
- Quan đã lên chưa?
- Bẩm đã.
- Vậy sang thôi Khoa. Còn về kia mà!
Khoa, giọng cố làm ra thản nhiên:
- Vừa lên đã lại về ngay!
- Rồi tiện ô-tô lại lên nữa cũng được, chứ sao!
- Thế sao tiện!
Bỉnh bước vào phòng, nói:
- Tiện lắm chứ: Các chú rõ khéo kiểu cách. Trong anh em ruột thịt mà cũng giữ gìn.
Khoa hơi ngượng, yên lặng mỉm cười.
- Mời hai chú xơi sáng rồi về cho sớm.
Ba người sang phòng ăn. Cái mặt bàn vuông giải khăn trắng xanh, gần kín những liễn cháo bốc khói nóng thơm, những đĩa thịt gà luộc, những đĩa chim rán vàng và các hộp cá, hộp gan đã mở nắp.
Trình cười bảo Trâm đương đứng bày thìa và đũa:
- Chị cho ăn thế này rồi về nhà mỗi khi ngồi vào mâm cơm rau lại phải nhớ đến những bữa tiệc của chị.
Chàng thốt ra câu ấy cốt để lấy lòng người chị dâu. Nhưng Khoa nhận thấy hết cả sự thực, sự thực chua sót, đau đớn. Bữa ăn sáng của nhà Trình và nhà chàng ư? Một nồi cháo hoa, ai ăn thì tự múc ra bát mà ăn, nhạt thì đã có muối, hay cà. Chàng vẫn tự an ủi rằng bữa sáng chỉ nên ăn một bát cháo cho được nhẹ bụng, và chàng viện cả lời dạy của bác sĩ Pauchet: “Sáng dậy không nên ăn gì, chỉ nên uống một cốc cà-phê loãng”. Nhưng nay ngắm bàn ăn của Bỉnh, chàng nghĩ thầm: “Cà-phê! Làm quái gì có cà-phê mà uống!”
- Kìa mời chú Ba. Chú chỉ ngồi ngắm thức ăn.
- Xin chị để mặc em. Em không biết làm khách đâu.
- Vậy mời hai chú xơi.
Vừa nói, nàng vừa gắp bỏ vào mỗi đĩa của hai em chồng một cái tỏi gà luộc. Trình hỏi cho có chuyện:
- Sao chị mua được bánh tây?
- A, tôi lấy sổ ở Hà Nội, hôm nào người ta cũng gửi xe hàng đem vào, cả thịt bò cũng vậy.
Khoa liếc nhìn anh chị, sự thèm muốn, sự ghen tị nữa thoáng hiện ra trong hai con mắt chớp mau. “Sung sướng thực! Sẵn tiền thì muốn có thức gì là có thức ấy liền. Ngày ngày, mua bánh tây ở tận Hà Nội... Xa gần ba chục cây số!” Câu bình phẩm của Trâm như tưới thêm dầu vào đống lửa ước vọng:
- Bánh tây thì các chú không mua được, chứ gà vịt chắc các chú chả thiếu. Ở nhà quê hẳn gà vịt sẵn, trứng sẵn...
Bỉnh lại tiếp luôn:
- Và khi nào cao hứng, muốn quay một con lợn sữa chén với rượu ngang thì cũng có ngay. Thần tiên lắm chứ!
Trình thực thà:
- Chúng em quen ăn rau mãi, dễ có ngày thành tiên thực đấy.
Nhưng Khoa im lặng ngồi ăn. Chàng vẫn có tính che đậy, và thường nói úp mở để Bỉnh và Trâm tưởng mình sống đầy đủ quanh năm.
Chẳng thế mà những lần anh chị về chơi, vào lúc nhà không sẵn tiền chàng lại bắt vợ phải ngầm đi gọi hàng sáo đến bán rẻ vài chục phương thóc để có thể thết anh chị được những bữa tiệc tuy chẳng long trọng bằng bữa tiệc hôm qua, nhưng cũng tươm tất, dễ trông.
Bỉnh vừa nhắc tới con lợn sữa cũng vì trong những bữa cơm ở nhà quê, chàng đã có lần được ăn món ấy.
Bữa điểm tâm kéo dài hơn nửa giờ. Ai nấy ăn no như ăn một bữa thường. Rồi trước chén trà mạn sen, câu chuyện gia đình bỏ dở chiều hôm trước lại nối. Trâm bắt đầu gợi ra, bảo chồng:
- Tôi thiết tưởng hơn hết là cậu nói thẳng vào mặt cô ta rằng cô ta giàu thì mặc kệ cô ta, cô ta đi đâu mà hống hách thì đi, không được về làng mà hống hách xằng.
Khoa hùn thêm vào:
- Chị thế mà bướng hơn anh!
Được thế, Trâm hăng hái nói tiếp:
- Phải không, hai chú? Cụ lớn, cụ bé gì cô ta. Ngày thầy lấy cô ta có cheo cưới gì đâu. Chẳng qua là nàng hầu gái theo.
Bỉnh mỉm cười:
- Thôi, tôi xin mợ! Bới đống phân ra làm gì cho thối hoăng lên. Cứ để vậy, đừng chọc vào là hơn.
Trâm đưa mắt nhìn Trình và Khoa:
- Đấy, hai chú coi, anh nhút nhát như thế đấy.
Một tia ngờ vừa lọt vào ý nghĩ Khoa. Chàng cho rằng anh nay làm quan sung sướng, sống biệt hẳn một nơi, rồi khi già về hưu tận nhà ở Hà Nội, như thế còn dính dáng gì đến ai mà cần. Còn Trình và chàng thì khác hẳn, luôn luôn bị một bọn dân làng xu phụ người đàn bà kia coi thường và có khi rói hỗn nữa để nịnh hót kẻ mà họ hòng nhờ vả.
Cảm thấy yên lặng đã kéo dài và khó chịu, Bỉnh đứng lên nói:
- Chúng ta sắp sửa về thôi.