← Quay lại trang sách

Phần thứ nhất - V & VI

Ô-tô ông huyện! Ô-tô ông huyện chưa về đến nhà, cả làng Giáp đã biết. Cái tin ấy đã theo tiếng còi điện mà lan rộng mãi ra, mà bay vào các xóm, các ngõ một cách rất mau chóng.

“A ha! Ô-tô ông huyện!”

Người ta nói ông huyện để khỏi lẫn với quan huyện cai trị mà người ta sợ hãi. Cũng có người phân biệt bằng cách xưng hô sang trọng hơn: “quan huyện nhà” hay thân mật hơn: “ông huyện Bỉnh”. Những người ấy phần nhiều đều là chú, bác, cô, cậu, thím dì, trong họ nội, họ ngoại xa gần của Bỉnh.

- Bà Hai, bà Ba ơi! Các ông ấy đã về đấy, các ông cùng về ô-tô với ông huyện.

Nghe tiếng réo ở cổng, vợ Trình ngơ ngác bảo vợ Khoa:

- Bậy! Mới đi hôm qua đã về sao được!

Vợ Khoa cười, đáp:

- Vâng, sớm lắm thì cũng một tuần lễ.

Rồi nàng quay bảo người ngồi cánh trên:

- Có ăn không thì bốc?

Vì lúc bấy giờ hai chị em dâu đương đánh chắn với ba người láng giềng: bác lý Nghiên, bác phó Tới và chị xa Phiệt. Ruộng phần nhiều cho cấy rễ, nên hai người đàn bà rất nhàn thường họp bàn chắn, tam cúc hay tổ tôm còm cho đỡ buồn, nhất những khi hai người đàn ông vắng nhà.

Cũng như chồng họ, hai người đàn bà luôn luôn vui vẻ hòa thuận với nhau. Trong họ ngoài làng người ta đều khen:

“Hai bà ấy coi nhau y như chị em ruột vậy!”

Song, trái với tình yêu mến thành thực, kín đáo và tự nhiên của Trình và Khoa, sự thân thiết của hai người đàn bà thường ngượng ngập, ầm ỹ và kiểu cách. Hình như họ phải cố gắng mới tỏ được với nhau những tính tình tốt đẹp.

Sự thực, trong thâm tâm họ vẫn ngấm ngầm âm ỉ sự tức tối và sự khinh nhờn, sinh ra bởi giai cấp khác nhau: hai tính tình ấy không bùng lên, không lộ ra cho mọi người trông thấy được là vì bị một tính tình khác mãnh liệt hơn lấn áp: sự thù ghét bà Ba. Hai người chồng đối với bà Ba chỉ lãnh đạm, - có lẽ phải cố làm ra thế để người làng khỏi chê rằng mình nhỏ nhen, tẹp nhẹp như đàn bà. Nhưng Tính và Chuyên, hai người vợ, thì thù ghét ra mặt, thù ghét bằng cách xử trí có khi tàn nhẫn, bằng lời nói có khi lỗ mãng trong những câu chuyện bắn tin.

Họ không thù ghét sao được! Tính trong sáu năm và Chuyên trong ba năm làm dâu, thời ông án còn tại chức, đã bị người đàn bà ấy dựa thế cha chồng hạch sách, hành hạ đủ điều. Ngày nay nghĩ đến hai tiếng “mẹ kế” mà người ấy thường nêu ra trong câu chuyện với bà con, hai chị em vẫn còn muốn lộn tiết văng tục ra. “Đấy bà coi, đối với tôi là mẹ kế chồng các mợ ấy, các mợ ấy còn xử thế đấy” “Thực tôi chỉ là mẹ kế các cậu ấy mà tôi ăn ở chẳng khác gì một người mẹ đẻ”. Đáp lại nhưng câu nói đổng, bao giờ, ở trong phòng bên, Tính cũng khúc khích cười bảo Chuyên: “Mẹ ranh!” Còn Chuyên thì tức uất, nghẹn ngào như sắp tắt thở.

Nàng chịu làm sao nổi cái cảnh làm dâu “quái gở” ấy! Thà rằng là mẹ chồng nàng cho cam! Chứ cái con người chưa tới bốn chục tuổi kia mà cũng đòi làm mẹ nàng ư! Mà cũng chảnh lỏn, cũng tai ngược, hách dịch với nàng sao! Nàng là con quan, con một quan phủ, con gái yêu một bậc mệnh phụ, chẳng lẽ lại cúi mình đi hầu hạ một người đàn bà ít tuổi và không rõ “sản xuất” ở nơi tối tăm hèn hạ nào!

Luôn luôn nàng bực tức nghĩ thế. Nhưng nếu đương vui vẻ trò chuyện ở trong buồng mà nghe tiếng dép lẹp kẹp của người đàn bà bước vào thì cũng như Tính, nàng thin thít im ngay, cái im lặng rụt rè và sợ hãi. Hơn thế, nếu người kia có thớ lợ bảo: “‘mợ Ba’ hay ‘chị Ba’ làm ơn têm cho me mấy miếng giầu” thì chẳng lần nào nàng dám lườm nguýt hoặc: nói lại một câu bóng gió mỉa mai. Họa chăng lúc người vợ lẽ ra nhà ngoài ngồi vắt vẻo trên sập đối diện với cha chồng, nàng mới dám bĩu dài môi dưới ra mà thì thầm: “Me gì, me tây ấy à?” Tính nghe thấy nhét khăn vào miệng, cười chảy nước mắt.

Tính dễ dãi hơn, và trước khi Chuyên về làm dâu, nàng không nhận thấy rõ rệt cái cảnh éo le đau đớn của mình. Chẳng qua có Chuyên xui xiểm, và vạch ra cho nàng, nàng mới biết đường mà kình địch lại người vợ lẽ, một lối kình địch nhút nhát trong xó tối.

Là vì nàng không sinh trưởng ở nơi quyền quý như Chuyên. Gia đình nàng chỉ là một gia đình cự phú xứ quê, đã mấy đời quen tòng phục các quan. Mỗi lần ông hàn sinh ra nàng đến chơi thăm bên thông gia là một lần ông ta làm cho Chuyên bực bội: Ông ta khúm núm trước mặt ông án và người đàn bà, một điều bẩm hai cụ lớn, hai điều bẩm hai cụ lớn, rồi xưng con xưng cái một cách rất tự nhiên, không chút ngượng ngùng. Chuyên cho đó là một sự nhục nhã, nhục nhã không những riêng đối với một mình Tính mà đối với chung tất cả mấy chị em dâu. Chuyên cự Tính chẳng thiếu lời, nhưng Tính chỉ thở dài đáp lại: “Thím bảo tôi biết làm thế nào? Ông cụ nhà tôi hiền lành quá, kia!” Chuyên cáu kỉnh gắt: “Chị coi cụ cử sinh ra chị Bỉnh, cụ hách biết bao! Chững chạc biết bao!”

Tuy nàng tức thì nàng nói thế để bỉ ông hàn mà thôi, chứ trong thâm tâm, nàng vẫn hiểu rõ rằng cụ cử Lương cũng như con gái cụ, ở vào một trường hợp khác hẳn. Đối với Trâm, vợ Bỉnh, không bao giờ người vợ lẽ dám xưng “me” và dám cư xử ra một bậc kế mẫu. Nàng cho rằng - và nàng chẳng hề giấu diếm ai điều ấy - Bỉnh là con bà cả thì địa vị của Bỉnh cũng như địa vị của mẹ Bỉnh đã rõ rệt lắm rồi. Còn như bà Hai mất đi đối với nàng cũng là vợ thứ, hơn kém gì nhau! Chẳng qua lấy trước là bà Hai, mà nàng lấy sau là bà Ba. Vậy con bà Hai tức cũng là con nàng và cái địa vị kế mẫu của nàng là riêng đối với bọn họ.

Bà Ba lý luận như thế cho suôi câu chuyện gia đình hơi rắc rối. Kỳ thực, sự đối đãi phân biệt của nàng chỉ rõ rệt từ khi nàng thấy Bỉnh thi đậu vào trường Đại học giữa lúc Trình và Khoa, vì lười biếng, chơi bời, bỏ học về ở nhà. Một đằng có thể xuất chính nay mai và sống riêng một đời tự lập cao sang. Một đằng ở nhà ăn bám cha và đương hy vọng được cha cấp vốn ra kinh doanh công kia việc nọ. Cái mầm khinh, trọng khác nhau mộc rễ mỗi ngày một sâu trong óc người đàn bà thông minh và khéo biết xoay liệu thời cơ.

Nhưng không phải vì thế mà bà Ba mất hẳn sức đàn áp đối với vợ chồng Bỉnh. Một lần vì một câu chuyện lôi thôi trong gia đình, Bỉnh viết thư về cho nàng, khuyên nàng nên “vừa vừa chứ”. Tức thì mấy hôm sau Bỉnh nhận được thư trả lời của cha, trong đó cha nhắn tin cho “tên Bỉnh” biết rằng “tên ấy” là một thằng khốn nạn. Lúc bấy giờ Bỉnh đang làm tham tá ở Ninh Bình. Chàng xin phép nghỉ hai ngày về thăm nhà. Trình và Khoa khóc mếu thuật lại cho chàng nghe mọi điều ức hiếp và lăng loàn của người dì ghẻ. Chàng đi thẳng xuống tư thất trỏ vào mặt người đàn bà mà mắng nhiếc. Hai bên đôi co nhau làm cho ông án đương ngủ trưa chợt thức giấc giữa những tiếng kêu trời của vợ lẽ.

Bị cha chửi, Bỉnh bỏ đi Ninh Bình. Và ngay hôm sau chàng nhận được mấy hàng vắn tắt sau này của cha: “Mày dám đánh vợ tao, vậy từ nay tao cấm cửa, không cho mày lai vãng tới nhà tao. Tao từ mày, không cha con gì nữa”.

Nhưng chỉ hai tuần sau Bỉnh đã được cha tha lỗi, gọi về chơi. Đó là công trình của người vợ lẽ. Bà Ba biết rằng gây thù, gây oán với “anh tham” không có lợi gì cho mình. Và từ đó nàng cũng đỡ ức chế vợ chồng Trình và vợ chồng Khoa...

Thế rồi trong cái gia đình buồn tẻ, hai lần có sự biến đổi: ông án về hưu trí và bảy năm sau ông qua đời. Trong bảy năm ở nhà quê, Trình và Khoa sống bình tĩnh và tự do hơn; vì ông án đã chia ruộng, chia của cho hai người, để ở riêng với vợ lẽ trong một dinh cơ khác xóm với chỗ ở của hai con.

Cái chết của ông án là một dịp thứ nhất để đôi bên trả thù nhau. Chuyên khóc: “Hờ cha ơi, cha đi đâu cha bỏ các con. Bao nhiêu đứa nấp dưới bóng cha mà được người ta kính trọng vì nể, nay cha trăm tuổi rồi thì bọn họ thực là khổ sở, khốn nạn”.

Người vợ lẽ mỉm cười khinh bỉ trong cái mấn sô, rồi khóc đáp lại liền: “Quan lớn ơi, quan lớn đi đâu quan lớn bỏ đàn con dại cho tôi. Quan lớn ơi quan lớn đi thì sướng lấy một mình, nhưng lũ con quan lớn bồ côi, nheo nhóc, quan lớn để lại cho tôi nuôi tôi dạy một mình, cực nhục lắm quan lớn ơi!”

Bỉnh thẳng thắn đến ghé tai dì ghẻ bảo nhỏ: “Cô khóc thế không được!” Người đàn bà lại nức nở:

- Hờ quan lớn ơi, cực nhục cho tôi chưa, quan lớn nằm xuống tôi đau đớn tôi khóc thì con quan lớn cấm tôi, không cho tôi khóc, hờ quan lớn ơi!

Thế là cuộc chiến tranh bắt đầu.

Và gay go tới tận ngày nay.

Nhưng ngày nay sao lại có bức thơ của người đàn bà gửi lên huyện cho Bỉnh, một bức thư lời lẽ rất ôn tồn êm thắm. Một bức thư hàng hay một bức thư khiêu chiến?

Trình và Khoa không khỏi băn khoăn về điều đó. Tuy không ai thú nhận với ai, cả hai cùng không dám bạo dạn nói thẳng ý nghĩ của mình với Bỉnh.

Ô-tô qua cổng vào sân. Tính và Chuyên xóa bàn chắn chạy ra chào và hoảng hốt hỏi chồng xem có việc gì cần mà về vội thế, nhất lại cùng về với anh huyện. Mãi lúc ấy Khoa mới buột miệng thổ lộ tâm sự của mình ra:

- Về để đối phó với “troisième”.

Và chàng giựt mình nghĩ thầm:

- Vậy ra khai chiến?

Tính sợ hãi:

- Đối phó việc gì thế?

Bỉnh mỉm cười:

- Đối phó một việc rất quan trọng: cô ta mời ba anh em sang dự tiệc.

Chuyên vội kêu:

- Ấy chết! Đừng nhận nhời!

Bỉnh vẫn mỉm cười.

- Chừng thím sợ cô ta đánh thuốc độc giết chết cả ba anh em?

Chuyên hơi ngượng, đáp:

- Đánh thuốc độc thì chả dám đâu. Nhưng sang ăn cơm nhà cô ta thì không tiện một tí nào.

Trình cười:

- Sao không tiện? Rồi các bà lại làm một bữa tiệc sang, sang hơn mời lại chứ sao!

Khoa nghĩ ngay tới thực hiện:

- Tiệc tùng gì chả biết, mợ hãy làm ngay một mâm cơm, chẳng đói lắm rồi. Dễ hơn mười một giờ rồi đấy.

- Ồ nhỉ!

Thế là hai người đàn bà mỗi người chạy đi một ngả, Chuyên ra chợ mua thức ăn, Tính xuống bếp giục đun nước làm gà, và vo gạo thổi cơm.

VI

Bên nhà bà Ba cũng huyên náo, nhộn nhịp vì cái tin Bỉnh về làng. Người đầu tiên trông thấy ô-tô của Bỉnh là Cúc.

Đứng cửa sổ trên gác nhìn ra chợ, Cúc thoáng nghe thấy tiếng còi điện. Một cái ô-tô về làng bao giờ cũng là một sự khác thường và gợi tính tò mò của mọi người. Cúc bảo mẹ:

- Mẹ ạ, có ô-tô về.

Bà Ba đương ngồi nói chuyện với sư cụ chùa làng, quay lại gắt:

- Cô lạ ô-tô lắm hay sao mà rối lên thế?

Nhà sư gặp được dịp tốt để nịnh một câu, cười nói:

- Bẩm cụ lớn với cô thì còn thiếu gì ô-tô!

Cúc đăm đăm nhìn rồi bỗng reo:

- Ô-tô anh huyện, me ạ.

Bà Ba đứng dậy xỏ chân vào dép đi ra cửa sổ:

- Xe anh huyện à?

Quả thực, ô-tô của Bỉnh lúc đó đương rẽ vào con đường chợ. Bà Ba hãnh diện bảo sư cụ:

- Bạch cụ, tôi viết giấy bảo anh ấy về đấy mà.

- Bẩm cụ lớn viết thư truyền quan huyện về chơi?

- Bạch cụ vâng, tôi viết thư hôm kia.

- Ô thế thì mau quá nhỉ! Bẩm cụ lớn thời buổi bây giờ việc gì cũng mau chóng... Bẩm cụ lớn thế bà lớn huyện có về không ạ?

- Chắc có. Nhưng một mình anh ấy về cũng đủ.

- Dạ. Chừng cụ lớn truyền quan lớn huyện về việc làm đàn hầu cụ lớn ông?

- Bạch cụ vâng. Với lại còn một việc nữa. Cái việc tôi đã nói vói cụ ấy mà.

- Dạ!

- Rồi cụ khuyên anh huyện nói hộ tôi một câu nhé?

- Dạ, xin vâng... Còn việc lập đàn, cụ lớn đã cho đặt mã rồi?

Cúc đứng cửa sổ kêu:

- Me ơi, xe anh huyện sắp qua nhà ta đấy, me ạ.

Bà Ba ra bao lơn cúi xuống đường gọi:

- Anh huyện!

Nhưng chiếc ô-tô êm lặng lướt qua, đi về phía nhà Trình và Khoa.

Bà Ba như nói một mình:

- Thế thì thôi! Chừng còn cho đánh ô-tô vào sân. Cẩn thận quá!

Sư cụ không bỏ một dịp nào có thể nịnh được: Cụ đương mong ngóng cái đàn chay của bà Ba vì ít ra cụ cũng kiếm được... cho chùa một món lời ngoài trăm bạc:

- Bẩm cụ lớn, chắc quan lớn huyện còn sắp quà các rồi cho người nhà bưng sang biếu cụ lớn.

Bà Ba giọng thân mật và để nói tuế tóa:

- Ồ giời! Sư cụ còn lạ gì tính các anh ấy nữa, có cho các anh ấy cái gì thì cho, chứ đừng hòng các anh ấy biếu chác!

Sư cụ lặng thinh, lúng túng, chưa biết nói sao để được lòng bà Ba thì bà ta đã xoay ngay câu chuyện về ngả khác:

- Bạch cụ, cụ cho sửa soạn để đón cụ hội trưởng chưa?

Nhà sư thừa hiểu là cụ hội trưởng hội Phật giáo, nhưng cũng hỏi lại cho được trọng thể:

- Bẩm cụ lớn, việc đón cụ lớn hội trưởng hội Phật giáo về diễn thuyết ở chùa ta?

- Vâng.

- Bẩm cụ lớn, đã sắp sẵn xong đâu đấy cả rồi. Bẩm, giá cụ lớn hội trưởng chịu đi võng trần từ chỗ đường cái rẽ vào làng thì đẹp quá! Nhưng cụ lớn hội trưởng lại muốn đi xe tô-vin thẳng vào tận cổng chùa.

- Tôi đã bảo chánh hội và lý trưởng sửa chữa con đường đất rồi.

Sư cụ cũng biết rằng ông huyện đã thừa lệnh tỉnh, sức cho lý trưởng phải bắt tuần tráng đắp rộng thêm con đường vào chùa để đón quan khách về dự lễ khánh thành chi hội Phật giáo làng Giáp. Nhưng cụ vờ mở to cặp mắt để tỏ sự kinh ngạc kính cẩn và nói:

- Dạ, thế thì phúc đức quá! Công đức cụ lớn thực cũng to bằng công đức tô tượng đúc chuông. Sửa đường rộng rãi, quang đãng thì thiện nam tín nữ các nơi mới kéo nhau đến nghe thuyết pháp đông được, rồi vì thế mà rạng rũa con người, mà cải tà quy chính. Phúc đức quá!

Bà Ba mỉm cười:

- Bạch cụ, tôi lại nghĩ ra một mưu này để kiếm thêm hội viên cho chi hội ta. Điều ấy tôi đã bàn với cụ Thiện và cụ Trường. Là chỉ cho những người có chân hội vào nghe giảng thuyết thôi. Còn ghế ngồi thì dành riêng cho từ chủ trì hội viên trở lên.

Nhà sư cười nịnh:

- Dạ, cụ lớn xếp đặt thực chu đáo quá!

- Cụ tính, đã mất công từ xa đến, ai không bỏ ra ba hào vào thường hội viên để được nghe giảng kinh. Còn ai chứ con mẹ hàn Liêu thì sống chết nó cũng cúng năm chục bạc để được một chân tán trợ hội viên mà lên ngồi chễm chện hàng ghế đầu.

Sư cụ vẫn cười:

- Dạ, có thế!

- Phải không cụ, tội gì lại không làm tiền cho hội?

- Dạ.

- Mình có làm tiền cho mình đâu!

- Dạ.

- Mình còn có thể quyên tiền nữa. Chà! Làng ta chán người giàu ra đấy.

- Dạ, giàu của lại giàu cả lòng từ thiện. Bẩm thực quý hóa quá!

- Cụ tính làm việc từ thiện như thế để được phúc cho mình, cho con cái mình, thì ai chả muốn.

- A di đà Phật! Phúc đức quá! Vậy nhất định mồng bốn này cụ lớn hội trưởng về?

- Bạch cụ, vâng.

- Bẩm cụ lớn hội trưởng nhất định đi xe tô-vin vào tận cổng chùa?

- Vâng.

- Giá cụ lớn hội trưởng dùng võng trần thì vẫn có thể thống hơn. Đi võng trần che bốn lọng trông đẹp biết bao!

Bà Ba ngẫm nghĩ rồi nói:

- Được, để tôi bàn với cụ Trường. Có thế nào sẽ viết thư trình lại cụ hội trưởng cũng kịp. Còn thứ tự lúc rước về chùa thì tôi định thế này: cụ hội trưởng đi đầu rồi đến cụ Trường, cụ, cụ Thiện, mỗi cụ một lọng, riêng một xe cao su.

- Bẩm cụ lớn thế thì long trọng lắm.

- À, bạch cụ, cụ hay cụ Trường thuyết pháp?

- Bẩm, để cụ Trường vì cụ tốt giọng.

- Tôi đã đổi hai chục bạc trinh. Tôi định hễ thuyết pháp xong là tôi phát chẩn.

- A di đà Phật! Phúc đức quá! Cụ lớn bố thí cho kẻ khó?

- Vâng.

- Bẩm cụ lớn chăm làm việc thiện lắm. Trong báo Đuốc Tuệ kỳ này thấy có đăng cụ lớn cúng vào hội trung ương năm mươi nhăm đồng.

- Thế à? Thế mà tôi không biết đấy.

Kỳ thực, bà Ba đã nhận được số báo Đuốc Tuệ ngoài bìa có đánh dấu và ghi bằng nét chì xanh số trang đăng giòng tên bà với số tiền cúng năm mươi nhăm đồng cũng gạch chì xanh. Bà chưa kịp đem báo khoe với cụ Giáp, cụ Trường, cụ Thiện thì nay chính cụ Giáp lại nhắc đến, khiến bà sung sướng và cảm động.

- Bẩm cụ lớn, chúng tôi thấy cụ Trường nói chuyện, cụ Trường đọc quốc ngữ thông lắm rồi ạ. Cụ học thế cũng phải. Chẳng nhẽ cụ hội trưởng một chi hội Phật giáo mà lại không đọc nổi sách quốc ngữ.

Nhà sư cười có vẻ hóm hỉnh, hỏi lại:

- Bẩm cụ lớn nghĩ có phải không ạ?

- Vâng, với lại quốc ngữ học cũng dễ. Bạch cụ tôi cúng năm mươi nhăm đồng là vì... tại sao lại cứ phải cúng đúng năm mươi đồng như mọi người khác?

- Dạ.

Giữa lúc ấy Cúc ở ngoài bao lơn đi vào, nói:

- Me ạ, chị phó Tạc chị ấy đến đây.

- Đâu?

- Bẩm, con thấy chị ấy đội một mâm nhãn. Bà Ba như quên có nhà sư ngồi bên, cất tiếng quát lớn, chừng để ra oai:

- Con phó Tạc đấy phải không? Bà truyền đời cho mày biết, chuyến này mà không trả nợ bà thì bà cắm nhà, thì bà cắm ruộng.

Một người đàn bà sống, áo, khăn cùng một màu nâu bẩn bạc thếch mà người ta không đoán được rằng đã đeo vào cái thân thể gầy gò già cỗi từ bao giờ. Cái dúm giẻ ấy cúi đặt mâm nhãn xuống sàn gác rồi ngồi phệt theo xuống mà vừa lạy vừa nói:

- Con cắn rơm cắn rác con xin cụ lớn, cụ lớn sinh phúc cho con, quả thực tình cảnh vợ chồng con chưa sao lo kịp...

Bà Ba thét:

- Chị séo ngay, tôi không sinh phúc sinh đức gì cả. Tôi thương chị nhiều lắm rồi. Chị xem có bao giờ tôi cho vay chục bốn, chục năm như thế đâu! Ít nhất là chục sáu. Tôi thấy vợ chồng chị đông con cái, tôi thương.

Chị phó soắn ngay lấy câu ấy:

- Vâng, bẩm cụ lớn, cụ lớn thương chúng con lắm, thương chúng cón nhiều lắm. Nhưng lần này cụ lớn đã thương thì cụ lớn thương cho trót. Chúng con mới bỏ mất đứa cháu, tốn bao nhiêu tiền thuốc tiền thang mà nó chết vẫn hoàn chết.

- Ối chào! Chị kể lể lôi thôi lắm.

- Lạy cụ lớn, cụ lớn thương chúng con một chuyến nữa, một chuyến này nữa thôi.

Bà Ba cười:

- Tôi thương chị để tôi chết đói nhé! Tôi chết đói thì có ai thương tôi không? Thôi đi! Đi ngay!

Chị phó Tạc vẫn cố kêu van:

- Lạy cụ lớn...

Nhưng bà Ba quả quyết không cho nói:

- Tôi không nghe nữa mà. Đi đi!

Rồi gọi:

- San, Tửu! Lôi chị ấy ra, giả nhãn chị ấy! Tao đương bận đây.

Tức thì người đàn bà bị đứa đày tớ gái lực lưỡng ẩy xuống thang gác. Tiếng quả nhãn rụng rơi lác đác và lăn long lóc từng bực. Bà Ba vẫn chưa hết tức, còn quát theo:

- Quân láo à! Khất lần mãi à? Được! Rồi bà cho mày biết tay.

Bà mỉm cười im lặng nghĩ thầm: “Thế nào mai nó chả đến xin viết gộp vốn lãi. Được rồi! Bằng già mẫu ruộng đấy. Chứ ngữ ấy cũng khó lòng mà giả được! Ở nhà quê không khôn khéo, không chặt chẽ thì không xong với những quân khốn nạn!”

Bà quay lại và như vừa chợt trông thấy cụ Giáp ngồi trong ghế bành, vẻ mặt trầm ngâm suy nghĩ, mắt lơ đãng nhìn qua cửa sổ xuống cái ao bèo hình chữ nhật. Bà ngập ngừng bảo nhà sư:

- Bạch cụ, họ tệ lắm cơ ạ. Họ chỉ òn thế thôi chứ vụ chiêm năm nay được mùa, họ đã đến nỗi gì.

- Dạ, quả có thế ạ.

- Bạch cụ, gặt được thóc nó để nó bán, chứ nó không chịu trả nợ. Nếu không có năm chục thùng thóc của tôi cho vay thì vợ chồng con cái nhà nó đã chết nhăn răng ra rồi còn đâu đến ngày nay.

- A di đà Phật! Cụ lớn phúc đức lắm, cụ lớn đã cứu sống bao nhiêu người. Nhưng việc gì cũng phải có giới hạn chứ!

Đó chỉ là một câu nịnh hót không ngụ một ý nghĩa mỉa mai, nhưng bà Ba tự nhiên thấy ngượng, cất tiếng gọi để đánh trống lảng:

- Cô Cúc ơi!

Cúc chạy vào, tay cầm chiếc nhẫn vàng chạm.

- Sao nước lâu thế, con?

Nhà sư đứng dậy, kính cẩn nói:

- Bẩm cụ lớn xá cho.

- Ấy, mời cụ ngồi chơi uống chén chè mạn sen đã.

Cụ Giáp lại hắng dặng ngồi xuồng. Cúc, giọng nũng nịu, nói với mẹ:

- Cái nhẫn này cổ lắm mà thô lắm me ạ, me đánh lại cho con.

Bà Ba đăm đăm nhìn con, ngẫm nghĩ. Rồi như chợt nhớ ra, bà bảo nhà sư:

- Hôm đúc tượng đức thánh Mẫu cụ nhắc tôi để tôi cúng chiếc nhẫn này vào lò đồng.

Cúc vội kêu:

- Con chịu thôi!

Bà Ba gắt:

- Con bé mới dại chứ! Chả phúc nào bằng đâu, con ạ, Con cứ cúng vào rồi me đánh cho con chiếc khác.

Sư cụ xuýt xoa khen:

- Dạ phúc đức quá!

- A, cụ định hôm nào khánh thành đền Mẫu!

- Bẩm cụ lớn tôi muốn để đến tháng Tám mát giời. Nhưng cũng còn tùy cụ lớn.

- Cụ để đến tháng Tám cũng phải.

Cái đền Mẫu ấy cụ Giáp dựng lên bằng những món tiền quyên của thiện nam tín nữ, trong số đó có hai trăm bạc của bà Ba. Năm trước cụ vừa ngỏ ý lập đền, các bà “từ thiện” quen thuộc đã tranh nhau cúng tiền, cúng gỗ, cúng gạch. Ở trong làng và khắp mấy tổng lân cận, ai ai cũng mến phục cụ Giáp. Họ mến phục cụ không phải vì cụ thông thạo kinh kệ, biết rộng về đạo Phật - xuất thân đi ở chăn trâu cho nhà chùa, cụ còn biết rộng sao được! - nhưng vì cụ cao tay và giỏi các phép ngoại. Những bùa của cụ đã nổi tiếng khắp vùng là linh thiêng. Ai có người nhà bất hạnh chết vào giờ trùng, ngày trùng, chỉ việc đến xin cụ một đạo bùa về yểm là gia đình sẽ chắc chắn được yên lành. Ai có cái mụn nhọt, cái ổ gà đau đớn ở nách, cái đinh râu nguy hiểm ở cằm, ở mọi đến nhờ cụ khoán cho sẽ khỏi tức khắc. Rồi nhiều ít, muốn cúng bao nhiêu tùy tâm, cụ không nài. Nhưng thường thường người ta cúng rất hậu, để trả ơn cụ một cách xứng đáng cũng có, nhưng nhất là để tránh sự báo thù ghê gớm của cụ.

Thực ra, sư cụ chưa “phản” ai bao giờ, nhưng người ta vẫn sợ bóng sợ vía cụ và huyên truyền những bí thuật của cụ, khiến người nghe phải rùng rợn, dựng ngược tóc gáy. Còn điều gì người ta dám ngờ khi người ta đã khiếp sợ! Bởi vậy, cụ vừa kể những điều mà đức thánh Mẫu về báo cho cụ biết trong giấc mộng, mọi người xuýt xoa tin ngay. Và bởi vậy, ngôi đền Mẫu sặc sỡ đủ các màu, lấp lánh những mảnh sứ, chói lọi những cột son, những cửa võng vàng, chỉ trong vòng có gần một năm đã hoàn thành.

- Bẩm cụ lớn hôm khánh thành chúng tôi định mở cờ người cho vui.

- Tùy cụ. Rước cụ xơi nước.

- Không dám, xin rước cụ lớn.

Uống cạn chén chè mạn, nhà sư đứng dậy cáo từ. Bà Ba tiễn ra tận cổng.

Lúc trở vào, nghe có tiếng chó kêu trong bếp, bà vội đi xuống và thấy thằng San đương cầm một cành tre tươi nhỏ vụt túi bụi vào mình con Cún buộc ở cột. Con chó co thẳng xích để cố tránh những roi đòn, và ăng ẳng kêu om lên như để van lơn hay cầu cứu. Bà Ba thét mắng:

- Sao mày đánh nó thằng kia?

San bỏ con vật quay lại:

- Bẩm hỗn lắm, con ngồi chặt thịt gà, nó cướp ngay mất một miếng.

- Thế thì đã sao! Mày ác lắm, tàn nhẫn lắm. Mày phải biết nó cũng biết đau như mày, cũng có linh hồn như mày, kiếp trước nó cũng làm người như mày. Mày xử với nó như thế à? Mày hành hạ nó thế à? Chẳng sợ xuống âm phủ, bị cưa đầu, cắt lưỡi, bị vứt vào vạc dầu, rồi kiếp sau lên làm chó thay nó! Người ta phải có lòng nhân từ, mày hiểu chưa, nhân từ đối với người, đối với súc vật, đối với cả cỏ cây, vì cỏ cây cũng có linh hồn, kinh Phật dạy thế.

Bà Ba đến tháo xích cho con vật, rồi vuốt ve nó, nói nựng:

- Thôi con, con đừng chấp nó. Nó ngu lắm, nó không hiểu nghĩa lý gì hết. Con cứ chịu nhẫn nhục rồi kiếp sau con sẽ lên làm người, con ạ.

Làm xong một việc từ thiện đối với con vật khốn nạn, bà Ba thong thả, buồn rầu lên gác, lòng rạo rực nỗi đau thương.