← Quay lại trang sách

Phần thứ hai - VII & VIII

Xong việc cưới con gái, bà Ba coi như hoàn thành một công cuộc to tát, khó khăn, phi thường. Bà đã để hết tâm lực vào đó trong gần hai năm trời.

Thấy bà quá chăm chú săn sóc tới việc gia thất của con gái, Tính nông nổi đoán rằng bà sợ Cúc ế chồng. Nhưng sự phỏng đoán ấy thực chẳng căn cứ vào đâu, và không hợp lý một chút nào. Cúc mới mười bảy tuổi mà lại rất có duyên tuy không đẹp lắm thì thiếu gì kẻ cầu cạnh. Ấy là chưa kể cái tài sản kếch-sù của bà mẹ.

Nhưng sự thực, bà Ba vẫn lo lắng, lo lắng vẩn vơ. Tính đa nghi lại ngoắt nghéo, bà không thể nghĩ đến và tin ở sự bằng phẳng, thẳng thắn của cuộc đời lẫn người đời. Ai cũng có thể là kẻ thù của bà. Ai cũng có thể phản bà được. Vì thế lúc nào bà cũng phòng bị, e ngại.

Và vì thế, từ năm Cúc mười lăm, nghĩa là, theo ý bà, đã đến tuổi hiểu ái tình, bà không một lúc nào xao nhãng trông coi, giữ gìn con. Một dạo, ở làng Giáp, một việc đã làm cho bà mất ăn mất ngủ.

Nghỉ hè năm ấy, Can, em trai Chuyên, về làng Giáp ở chơi nhà anh rể ít lâu. Can theo học lớp nhất trường trung học Albert Sarraut, người rất tráng kiện vả xinh đẹp. Một hôm gặp bà Ba và Cúc trên đường làng, Can cất mũ chào. Cúc mỉm cười lấy dáng chào lại.

Buổi chiều, ngẫu nhiên Cúc đến thăm hai chị dâu. Thế là bà Ba lo sợ cuống quít. Bà cho rằng Chuyên đưa em về để định làm hại bà, để lập tâm phá hoại danh tiết con bà. Bà không ngờ vực nữa, bà tin chắc như thế. Trong óc bà hiện ra một thiên giai ngẫu với hết cả các thứ cạm bẫy của ái tình. Ngay hôm sau bà đem con đi Hà Nội, vội vàng, hấp tấp như đi trốn, như đi lánh nạn.

Mai nay Cúc yên bề gia thất rồi, bà mới vững dạ. Và về làng Giáp bà sung sướng, huênh hoang kể cho hết mọi người nghe những sự rực rỡ, long trọng, cao quý trong cái đám cưới của con bà, tuy nhiều người làng Giáp đã được bà mời lên Hà Nội dự tiệc, và đã được mục kích những sự rực rỡ, long trọng, cao quý ấy.

- Thực tôi chưa thấy đám cưới nào có nhiều ô-tô các quan khách như đám cưới này.

Bà quay ra hỏi bà lý Thuận:

- Đố chị biết bao nhiêu ô-tô?

- Bẩm mười hai cái.

Bà Ba gắt:

- Ồ! Đấy là xe nhà giai. Người ta hỏi ô-tô các quan cơ mà.

Bà lý Thuận đếm nhầm rồi đáp:

- Bẩm dễ đến hai chục.

- Hơn chứ! Ngoài ba chục. Xe cụ thượng Hoàng này, xe cụ thượng Nguyễn này, xe cụ thượng Lê này... gần đủ các quan đầu tỉnh.

Kể thì số người dự tiệc cũng khá đông thực, phần là bạn cũ ông án, phần là bạn của Bỉnh mà bà Ba đã khéo léo mua chuộc mấy tháng trước ngày cưới con.

Vợ chồng Trình và Khoa, hai ba lần bà khẩn khoản mời, nhưng bọn họ đều từ chối, khiến bà lấy làm căm tức lắm, nhất bà lại nghe thấy những cho quen biết nhao nhao lên hỏi: “Ông Hai, ông Ba đâu ạ?” Câu trả lời, bà đã sắp sẵn từ trước nên bà thản nhiên đáp ngay: “Anh Hai anh Ba cháu cùng ốm, mắc bệnh sốt rét cách nhật, anh Ba hơi đỡ thì anh Hai lại lây...” Và trong lòng bà thì thầm: “Rủa cho chúng nó ốm, cho chúng nó chết tiệt đi! Mình chiều chúng nó như chiều vong trong... bao nhiêu tháng giời chỉ cốt ngày cưới con mình chúng nó đến để mình che mắt thế gian...”

Che mắt thế gian, đó là điều bà Ba luôn luôn nghĩ tới, nhưng chẳng bao giờ bà che kín được hẳn. Cái mà bà muốn che đậy nhất là cái biển lận của bà. Bà giàu, bà muốn ai ai cũng biết. Bà kiệt, bà muốn ai ai cũng không hay. Nhược điểm ấy bà đã biểu lộ ra một cách rõ rệt trong đám cưới Cúc, và bắt đầu ngay từ hôm bà thách cưới với bà mối.

- Thách cưới!

Bà cười, bảo bà Hai. Rồi bà này chưa kịp trả lời, bà đã tiếp luôn:

- Chẳng thách gì hết, tôi cho không con đấy.

Bà mối tất phải mừng thầm. Nhưng bà Ba lại nói:

- Nghĩa là toi không thách tiền thách bạc gì hết.

Bà Hai tưởng nên nịnh một câu:

- Dạ, cụ thì còn thiếu gì tiền bạc nửa!

- Không phải thế, nhưng trong việc cưới xin mà nói đến tiền, nghe nó đê tiện lắm, phải không thưa cụ?

- Dạ, có thế.

- Nào có phải tôi bán con tôi đâu.

- Dạ.

- Nhưng dẫu sao... cũng phải cho... nó không lụi xụi...

- Vâng, lụi xụi thì coi sao được.

- Vì sẽ có đông các quan đến, người ta cười cho thì còn ra làm sao. Vậy... tôi cần hai mươi cái ô-tô.

Bà mối nhắc lại như để nhớ:

- Hai mươi cái ô-tô.

- Vâng, thế là ít đấy. Nhưng không sao, ô-tô các quan đi ăn cưới cũng đã đông lắm rồi. Có lẽ tất cả đến ba chục hay hơn thế.

Bà Ba vẫn lấy làm thích mắt được ngắm đoàn ô-tô thực dài đi riễu phố. Và bà thường theo số ô-tô nhiều hay ít mà đánh giá từng đám cưới.

Bà mối tưởng bà thách có thế, đương toan nhắc đến món hồi môn thì bà lại tiếp:

- Còn các đồ tư trang thì nhà giai sắm cho thế nào cô dâu sẽ dùng như thế. Nhưng tưởng cũng chẳng nên luộm thuộm mà người ta cười... Với lại mình sắm ra thì là của mình, của con mình, còn đấy chứ mất đi đâu, phải không, thưa cụ?

- Dạ.

- Cho con trước thì khỏi phải cho con sau.

Bà Hai víu ngay lấy câu ấy:

- Vâng, chính thế. Như cụ chẳng hạn, nhà cửa ruộng vườn của cụ sau này là của con gái cả, cho bây giờ cũng như sau này để lại cho. Trước sau cũng thế.

- Vâng, thì tôi vẫn nói với cụ thế.

Bà Hai chẳng nhớ bà Ba đã nói thế nào, nhưng cũng tiếp luôn:

- Vâng, thưa cụ, tôi vẫn nhớ, cụ có bảo thế. Vậy hôm cưới cụ cho...

Lần thứ hai, bà Ba ngắt lời:

- À, cụ biết giờ đón dâu rồi đấy chứ? Mười giờ, mười giờ sáng. Như thế được sớm sủa mà tiện. Vả ngày mồng mười cũng chỉ được có giờ ấy là tốt.

Sự thực, giờ ấy tốt nhất cho bà là vì bà sẽ đỡ được một bữa cỗ nấu. Sợ bà Hai nghĩ đến điều đó, bà nói chặn trước:

- Tôi rất ghét những bữa cỗ đón dâu. Chả ai ăn, chỉ bày ra để khoe khoang. Vì thế, tôi chỉ đặt tiệt trà. Nói là tiệc trà, nhưng chính là tiệc sâm-banh... Thế còn long trọng hơn cỗ bàn, mà văn minh biết bao.

Lảng được món hồi môn, bà Ba quay về món tư trang:

- Vậy cụ nhớ nói với cụ huyện may cho cô dâu... Thôi tùy cụ, cụ sắm nhiều thì con dâu cụ sang, cụ sắm ít thì con dâu mặc ít; còn vòng, nhẫn kim cương và các đồ tư trang khác cũng tùy cụ huyện cho thế nào thì được thế. Các đồ tư trang chỉ tốn cho cụ độ nghìn bạc là cùng... Thế nào xong thôi ấy mà.

Bà hai nghĩ thầm: “Rồi bà ấy khắc hiểu, mình ép nài quá bất tiện. Nhà con một thì người ta còn cho ai, mà sợ, vì hôm nọ bà ta đã nói với mình một lần nữa rằng câu chuyện cậu Khoa ăn thừa tự chỉ là một câu chuyện bịa đặt” Bà liền đứng dậy xin về để nói cho bà huyện rõ.

Nhưng hôm cưới, bà Hai lại khôn khéo nhắc tới món hồi môn. Bà ta đã dặn dò Phan từ trước nên lúc cùng cô dâu xin vào làm lễ, bà Ba từ chối thế nào chàng cũng nhất định không chịu lùi. Ở ngoài, bà Hai nói chêm:

- Lễ đi để cụ lớn mừng cho.

Rồi bà làm như nói một mình:

- Thế nào cụ lớn chả mừng cho vài cái nhà.

Nhưng bà Hai đáo để thì bà Ba cũng chẳng vừa. Bà đã lập mưu sẵn, để khỏi phải cho một tí gì.

Chỉ nghĩ đến phải cho, bà đã lo sợ, rùng rợn cả người. Bà Hai và nhiều người bảo bà: “Của mình là của con, giữ làm gì, cho trước có rảnh rang hơn không, mà lại được tiếng”. Những người ấy bà Ba liệt vào hạng không hiểu “cho” là cái gì: “Họ không làm ra tiền thì họ có gì mà cho. Nói thì dễ dàng lắm, ai chả nói được. Nhưng mà cho? Khó lắm!” Bà tốn bao nhiêu công lao, mưu kế trong bao nhiêu năm trời mới có được cái tài sản ngày nay. Cái tài sản to tát ấy bỗng đem cho đi. dù là cho con nữa, vô lý quá. Khi bà chết rồi, tha hồ người ta muốn làm gì thì làm, bán đi, tiêu đi, cho đi, mặc kệ.

Nhưng nay bà còn sờ sờ ra đấy, lại đem của mồ hôi nước mắt mà cho chúng nó để chúng nó bán ư? Để chúng nó phá ư? Không, không thể được.

Bà Ba nhất định giữ cho bằng được cái tài sản mà bà quý hơn tính mệnh: “Thà chết đi còn hơn là ngồi đấy mà dương mắt nhìn người ta bóc lột!” Bởi vậy, bà đã thức trong nhiều đêm để tìm cách ra thoát một bước khó khăn. Khó khăn, vì nói trắng ra với bà mối rằng mình không cho con rể gì hết thì việc nhân duyên của con gái chắc sẽ không thành, mà hứa một lời rành rọt thì rồi thế nào cũng phải giữ lời hứa: Bà khôn khéo chơi cái nước đôi, không chối hẳn rằng không cho, cũng không hứa rõ là cho, nhưng vẫn nói úp mở để bên nhà trai hy vọng.

Song cái món mừng chủ rể, bà thấy khó tránh quá: “Một là mừng một vài cái nhà, hai là bỏ hẳn cái món mừng ấy đi, chứ cho mấy trăm bạc chẳng bõ làm trò cười cho bên nhà giai”. Bà quả quyết không mừng gì hết, và bà nhờ bà phán Cả giúp một tay, vì thường thấy bà này nói xấu bà huyện mà bà ta cho là một nhà đào mỏ chuyên môn. Quả nhiên bà Cả nhận lời.

Mưu mẹo? Nói ngay là một tấn kịch mà kẻ giàn cảnh khéo léo chính là bà Ba.

Chú rể và cô dâu vừa bước vào chiếu để làm lễ, bà Ba liền chu chéo lên khóc và kể lể:

- Có phải là tôi không muốn nhận lạy của con tôi đâu... Nhưng tôi lại nhớ tới quan lớn tôi... Ông án ơi, đó, con ông đã thành gia thất, rồi đó... Ông chả sống mà nhìn thấy con ông và con rể ông... Cực nhục cho tôi chưa?... Tôi sung sướng lấy một mình...

Bà Hai đương định chen vào một câu nói tuế tóa thì bà phán Cả bước lại gần, đỡ lấy chị, và thì thầm: “Thôi chị, chả nên thế, ngày vui mừng của con”. Nhưng bà Ba vẫn nức lên:

- Con tôi nó vui sướng... chỉ mình tôi là khổ... Nó có chồng nó rồi... nó cần gì đến tôi.

Ba Hai toan nói, nhưng bà Cả vẫn giơ tay lên gạt:

- Bà án tôi vẫn thế đấy, dễ cảm động lắm; để yên một lát, bà án tôi sẽ trấn tĩnh ngay.

Một lát sau, quả thực bà Ba đã trấn tĩnh, vui cười như không từng xảy ra việc gì. Nhưng cái món hồi môn không ai nhắc đến nữa cho tới lúc đón cô dâu lên ô-tô. Chú rể tự an ủi nghĩ thầm: “Đi đâu mất mà sợ!” Bà mối cũng nghĩ thầm: “Bà huyện bà ấy cứ nóng con giàu ngay. Thì cái kho báu đã về tay con bà ấy rồi đấy, việc gì mà phải hấp tấp”.

Sự thực, cái kho báu vẫn y nguyên ở trong tay cố chủ. Bà Ba vui thích, hí hửng như được của, như bỗng rưng đào được chum vàng. Bà vừa tỉnh một giấc mộng dữ dội. Một tí nữa bà mất nhà. Bà không ngờ thoát khói cái cạm bẫy ấy một cách dế dàng như thế.

Bà sung sướng quá trở nên rộng rãi. Hôm nhị hỉ, bà thết tiệc rất trọng thể. Rồi bà đem cho chú rể hết cả các đồ ngọc quý giá nằm ngủ trong chiếc tủ kính kiểu Nhật bản mà từ khi ông án qua đời bà không mở ra xem lại một lần nào. Bà cho không tiếc: Bà không thích ngọc, bà chỉ thích có ba thứ: tiền, nhà và ruộng. Vả lại, các đồ châu bảo kia đều của ông án, bà chỉ có thể chuộng những vật chính tay bà sắm, chính tay bà tậu mà thôi.

Phan cảm động, vì chàng yên trí rằng mẹ vợ phải yêu mình lắm mới cho mình những vật đắt tiền, những kỷ niệm của chồng khi xưa. Sợ con rể không biết giá ngọc, bà Ba trỏ một cái khay và bốn chiếc chén bằng thạch tinh, bảo chàng:

- Bộ này thầy mua những hơn ba trăm bạc...

Rồi bà trỏ luôn những đĩa, bát, lọ, thống sứ cổ bảo Phan:

- Cậu muốn lấy thứ gì tùy ý. Bây giờ cái gì ở trong nhà me cũng là của cậu.

Phan nịnh khéo một câu:

- Dễ con phải thuê một cái camion để chở các thức me cho.

Bà Ba và Cúc cười sung sướng.

VIII

Từ đấy trở đi, câu chuyện “đào mỏ” của Phan dần dần lưu truyền trong khắp các xóm làng Giáp. Người ta bàn tán, khen chê, phàn nàn, nhưng hơn hết người ta vui thích.

Cái sào huyệt truyền bá tin tức cố nhiên là nhà Trình và Khoa, hay đúng hơn nhà Tính và Chuyên, vì bao chuyện lượm lạt được đều nhờ ở tài hai người đàn bà ấy.

Bây giờ họ không thù ghét nhau nữa, hay đúng hơn, họ bẵng quên lòng thù ghét, để lưu tâm cả vào việc đào mỏ của mẹ con chàng rể nhà bà Ba. Họ đem kể cho nhau nghe những điều mà một người biết, rồi họ cùng cười khoan khoái, sung sướng.

Việc thừa tự, họ không nghĩ đến nữa. Một đôi khi họ có nhắc tới nó thì cũng để làm tăng cười chứ không ai còn tưởng đem nó ra làm đầu đề câu chuyện châm chọc lẫn nhau như trước kia.

Trước kia, ngay sau hôm bà Ba nhờ Khoa, sang xem hộ bản giao kèo cho thuê nhà, hai gia đình đã suýt lại to chuyện với nhau. Hai người đàn ông phải giở hết tài khôn khéo, phải đem hết tính nhẫn nại ra mới cứu vãn nổi hòa bình.

Chính hôm ấy, - một sự không may - Khoa đến nhà một người bà con ở xóm ngoài có chút việc riêng, mãi tối mới về. Trong khi chàng vắng mặt, Tính săn đón hỏi thăm Chuyên xem chàng đi đâu. Chuyên thật thà đáp không biết vì nàng không biết thực. Nhưng Tính không tin, mỉm cười nói khích bác. Chuyên chẳng chịu nhịn, trả lời lại, thế là đôi bên cùng lồng lên. Và ngay bữa ăn chiều, Chuyên không sang bếp chung thổi nấu. Lúc Khoa về, chàng viện đủ mọi sự thiêng liêng ra thề rằng không hề có đặt chân tới nhà bà Ba, nhưng Tính nhất định không tin chỉ cười mát.

Cách đó ít lâu, nghe theo chồng, hai người đàn bà làm lành với nhau để rồi gặp câu chuyện bất bình lại giận dữ, khích bác, thù ghét nhau như thường.

Nhưng một hôm bà Ba lủi thủi một mình về làng Giáp. Lần đầu người ta không thấy Cúc đi kèm bà ta. Và cũng lần đầu, vì buồn phiền, không duyên cớ bà ta sang chơi nhà Trình và Khoa. Hai người đàn ông tỏ ý thương hại cái cảnh cô độc của bà ta, nhất lại thấy bà ta như già thêm mấy tuổi, mặt dăn deo, má hốc hác, mắt mờ xạm.

Tính và Chuyên thì không bao giờ vui bằng, vui đến nỗi như trở nên thân mật với kẻ thù xưa. Họ soắn xuýt ân cần trò chuyện, mục đích chỉ để dò la tìm biết những điều bí ẩn, những điều mà họ chắc tự nhiên bà Ba không dám thổ lộ ra.

Sau khi bà Ba về nhà, Chuyên quên hẳn chuyện xích mích, vịn tay vào vai Tính gập người lại mà cười. Nàng đoán thấy nhiều điều hay hay và nàng sung sướng, vì biết chắc rằng bà Ba đương khổ sở.

Rồi trong mấy hôm liền, hai người đàn bà lần đến chơi bà lý Thuận, anh cả Thiện, làm thân với họ nữa. Lại bỏ tiền ra mua chuộc cái Tỉu, đứa đầy tớ gái theo hầu Cúc và vừa bị bà huyện đuổi về. Làm bao nhiêu công việc nhỏ nhặt và khó khăn ấy để dò chuyện nhà bà Ba.

Quả họ thành công, vì ai mà không thích thuật lại những điều mình biết cho những người không biết nghe, nhất khi những người này lại cầu cạnh, ân cần muốn nghe.

Chắp nối các mẩu lại, hai người đàn bà, nhất là Chuyên, - vì Chuyên rất có tài thêu dệt - dựng thành một câu chuyện có đầu, có đuôi, có cả những đoạn thắt, mở như một thiên tiểu thuyết vậy.

Câu chuyện đại khái thế này:

- Anh chàng rể tấp tểnh hy vọng được mẹ vợ mừng cho vài cái nhà và được vợ mang theo về ít ra cũng một vài vạn bạc tiền hồi môn. Chàng hí hửng nghĩ đến nhiều món tiêu to tát, mà món học phí bên Pháp là một - học phí nghĩa là kể cả tiền ăn chơi.

Đến lúc nghe theo bà mối và quả quyết cùng cô dâu vào lạy mẹ vợ hai lạy, Phán đã yên trí rằng sắp sửa được làm chủ nhân một cái tài sản kếch sù. Lần đầu chàng thất vọng. Chàng cho hai cái lạy của chàng hoàn toàn vô ích..

Nhưng Phan không tuyệt vọng, nhất hôm nhị hỉ chàng lại thấy mẹ vợ xử hẳn ra một người rộng rãi, thân yêu đối với con và rể. Và chàng nghĩ thầm: “Thôi, chẳng trước thì sau, vội gì!”

Vì thế, không những Phan tạm không lưu tâm đến những tòa nhà của bà Ba và món tiền hồi môn của Cúc, chàng còn tránh không một lần nhắc nhỏm hay nói xa xôi để hỏi dò ý tứ vợ.

Và vì thế, Cúc bồng bột sung sướng trong tháng trăng mặt. Nàng cảm động biết bao, khi thấy mỗi lần nàng gợi đến chuyện tiền nong, tài sản của nhà mình, Phan lại nồng nàn hôn nàng và ghé tai nàng âu yếm nói: “Của cải quý sao bằng em. Em là tất cả kho báu của anh rồi!”

Cúc tin lời chồng và càng sung sướng, vì trước kia nghe người ta thì thào bên tai những chuyện mai mỉa về nhà Phan, nàng vẫn áy náy không yên, tuy không bao giờ hé môi than phiền một lời với mẹ. Việc gả chồng, nàng cho là hoàn toàn thuộc quyền mẹ. Mới lớn lên nàng còn ngây thơ, đã biết gì. Nghe nói đến chuyện chồng con nàng đã xấu hổ rồi, còn dám đâu bàn tán, kén chọn.

Nay Cúc thấy những điều lo sợ của mình vô căn cứ: Phan không phải là một tay đào mỏ như người ta huyên truyền. Trái lại, chàng chỉ là một người ngay thẳng, không biết lừa dối ai, một thiếu niên đa cảm đặt tình yêu lên trên hết mọi sự ở đời. Kỳ thực, Cúc chỉ nhận xét đời bằng khối óc lãng mạn, bằng tâm hồn lãng mạn. Thiếu nữ nào mà không lãng mạn, dù thuở nhỏ đã sống những ngày vô vị và nhận được một nền giáo dục tầm thường, như Cúc chẳng nữa.

Nhưng trong thời Cúc đang mê man với ái tình mới mẻ, một hôm bà huyện bảo nàng!

- Có cái nhà đằng kia vừa làm xong mà người ta cần tiền nên phải bán, rẻ lắm, mợ cử nên mua đi.

Cúc khép nép thưa:

- Bẩm mẹ, con có tiền đâu mà mua.

Bà huyện giọng âu yếm:

- Vốn riêng thì mợ để làm gì?

- Bẩm mẹ con không có vốn riêng.

Bà huyện cười:

- Thôi, cô đừng nói òn! Cái nhà này mẹ thấy nên tậu lắm mẹ mới mách...

Cúc vẻ mặt sợ hãi:

- Bẩm mẹ, con quả thực không có vốn riêng.

Bà huyện yên lặng ngồi nhai trầu. Thỉnh thoảng bà vừa liếc nhìn Cúc vừa đưa chiếc khăn đỏ lên lau mép.

Bẵng đi ba hôm, bà lại bảo Cúc:

- Có cái đồn điền ở mạn Thái Nguyên bán rẻ lắm, rộng tới gần bảy trăm mẫu mà giá chỉ độ hơn một vạn thôi, thiết tưởng mợ cử nên về xin tiền cụ mà tậu.

Cúc dạ lí nhí trong miệng, rồi hỏi ý kiến chồng mà nàng cho là một ngươi không thiết của. Nhưng nàng kinh ngạc biết bao, khi Phan ngẫm nghĩ rồi trả lời nàng:

- Mẹ nói cũng phải. Cái đồn điền ấy mà không mua thì thực bỏ mất một dịp tốt. Em thử về hôi me bên nhà xem.

Thấy Cúc trù trừ, ngần ngại, Phan tiếp luôn:

- Giá mẹ sẵn tiền thì mẹ cũng tậu rồi đấy, nhưng hiện mẹ không sẵn. Vậy em cứ về bên nhà bẩm me tậu cho em rồi sau không thích thì để lại cho mẹ cũng được.

Chẳng đừng được, Cúc phải đem việc tậu ruộng nói vơi mẹ, tuy nàng biết trước rằng thế nào cũng không xong. Nàng còn lạ gì cái đức kiệt của mẹ. Lúc nàng tay không trở về nhà chồng, bà huyện vẫn niềm nở không hề tỏ vẻ tức giận hay nói một câu đay nghiến.

Nhưng mấy hôm sau, trong câu chuyện với con và dâu, bà đem việc nhà những ngươi quen biết ra thuật bằng một giọng rất tự nhiên, như không định ám chỉ ai: Đó toàn là những chuyện tiền hồi môn hàng vạn mà các nàng dâu đem theo về nhà chồng.

Cúc đã hơi hiểu ý mẹ chồng. Nhưng nàng biết làm sao! Đã nhiều lần nàng về nhà khóc lóc với mẹ, năn nỉ xin mẹ một cái nhà hay một ít vốn, để khỏi bị nhà chồng khinh bỉ. Nhưng bà Ba tìm đủ cách từ chối. Nào: “Cho cậu mợ để cậu mợ phá tán đi, tôi giữ chẳng qua cũng chỉ là giữ cho cậu mợ”. Nào: “Bây giờ còn ở nhà với cụ huyện, thì cậu mợ cần gì tiền”. Thấy Cúc kêu nài mãi, bà cáu tiết nói thẳng một điều mà bà vẫn nghiền nghĩ bấy nay:

- Về bảo cậu ấy cứ lo ra làm quan, lo ra Tri huyện đi đã, tốn bao nhiêu... rồi mẹ... giúp.

Chờ ba tháng vẫn không thấy nảy ra một tia hy vọng cỏn con, bà huyện chán nản và bắt đầu một chương trình hành hạ. Thoạt tiên bà bắt Cúc đuổi con Tĩu. Bao nhiêu công việc nặng nề Cúc phải cáng đáng lấy hết, làm cơm, khâu vá cả đi chợ. Chỉ có hai việc bổ củi và gánh nước là Cúc được phép sai đầy tớ, giúp mà thôi.

Cúc cũng không được màng tới điểm trang nữa. Bà huyện bảo nàng:

- Có chồng rồi, còn cần làm dáng với ai?

Cúc tự an ủi thầm rằng bị mẹ chồng ghét nhưng đã được chồng yêu và bênh vực kéo lại. Chẳng bao lâu, nàng ngờ vực nốt tình yêu của chồng, vì hễ nàng liều cãi lại bà huyện thì bao giờ Phan cũng về hùa với mẹ mà mắng át nàng đi.

Cứ tin lời Chuyên kể thì Phan đã có lần tát nẩy đom đóm mắt cô vợ bé bỏng. Nhưng Tính quả quyết rằng cái tát ấy của bà huyện, chứ không phải của Phan, vì dẫu sao Phan cũng không nỡ và không dám tát một người đàn bà.

Chuyên, giọng mỉa mai, cãi lại:

- Chà! Khi người ta chủ tâm đào mỏ vàng mà đào phải rặt một giống đá sỏi thì người ta khỏi sao không cáu tiết!

Trình cười và như phân trần:

- Đấy nhé! Con người ta đẻ ra mà người ta còn chẳng cho gì để đến nỗi bị nhà chồng đầy đọa, huống hồ là...

Chàng ngượng ngùng, không dám nói dứt câu. Khoa phá lên cười nói luôn:

- Huống hồ là chúng mình, phải không? Em nghĩ đến câu chuyện thừa tự của cô ta mà em vừa tức mình vừa tức cười.

Chuyên giọng tự đắc:

- Còn ai lạ tính nết cô ta!

Tính thở dài nhìn Chuyên:

- May mà hai anh em không ai nhận lời, chứ nếu nhận lời thì thật là một cái bẽ lớn. Cô ta chỉ cốt đem miếng thừa tự ra dứ.

Chuyên tiếp liền:

- Để con cô ta đi lấy chồng cho êm thắm.

Khoa thêm:

- Nhưng rút cục không êm thắm tí nào, thế mới chết chứ!

Mọi người cười reo, Trình kết luận:

- Chung quy chỉ sư cụ là đáng thương nhất: đi lại nịnh hót mãi mà vẫn chưa xơ múi gì!

Khoa nghĩ thầm:

- Kể đáng thương thì đáng thương tuốt, từ bà Ba, Cúc, Phan, bà huyện cho chí cả anh em mình.

HẾT