Phần thứ hai - V & VI
Một lái sau nghe tiếng léo xéo ở nhà dưới, bà Ba đã tưởng mẹ con chàng rể đến. Nhưng đó chỉ là bà Hai.
Bà Hai, một người bé nhỏ, hầu loắt choắt trong cái áo mền the lót nhiễu kỳ cầu may chẽn. Nét mặt đều đặn, chân tay xinh xắn, bà trẻ hơn tuổi nhiều. Bà cũng biết thế và vẫn lấy làm tự hào. Trong những bàn tổ tôm không mấy khi bà quên thuật một câu chuyện về tuổi bà, mà mỗi lần bà thay đổi đi đôi chút cho được tự nhiên. Chẳng hạn bà thượng nọ, bà án kia hỏi năm nay bà đã đến năm mươi chưa. Hay con mẹ phủ B. tưởng bà mới bốn nhăm là cùng. Rồi bà cười the thé tiếp liền:
- Thế mà năm tư rồi đấy, các cụ ạ. Già lắm rồi còn gì!
Sự thực, bà Hai chưa già, và cũng chưa muốn già. Lượt phấn dầy bà dùng để che lấp những nét dăn trên má đủ chứng tỏ điều ấy. Nhưng cũng không phải bà trang điểm để được người ta ngắm nghía. Không, đó chỉ là một thói quen của những bà đồng. Vì bà Hai là một đệ tử rất trung thành của các cửa đền, cửa phủ: Mỗi khi hầu bóng, trong khuôn chữ nhật chiếc gương dá cái mặt trắng bợt dưới những nếp khăn xanh khăn đỏ hiện ra dịu dàng, thân mật, khiến những lúc thường, bà Hai vẫn say đắm nhớ tưởng cái hào nháng trẻ trung tươi tắn ấy như người ta nhớ tưởng mặt tình nhân vậy: Đó là cái cớ xui giục bà chăm chú vào việc phấn sáp điểm tô.
Sau cái thú ngồi đồng, phải kể cái thú tổ tôm của bà Hai, tổ tôm góp từ một cho đến năm đồng. Chỉ nhìn bà căng thẳng cặp môi mỏng ra để đọc câu “máu mê cây bài lá bạc” hay ngắm đôi mắt một mí của bà cười nheo ra hai bên thái dương khi bà trông thấy “chân thứ năm” tới họp, người ta đủ rõ bà thích tổ tôm đến bực nào.
Cây bài không hẳn đã giới thiệu bà với số đông các bà quý phái và trưởng giả. Vả chính bà cũng sinh trưởng ở trong đám ấy. Bà là con một ông huyện, là vợ lẽ một ông phủ đã quá cố và là mẹ vợ một ông phán tòa sứ - bà chỉ có một con gái. Nhưng dẫu thế mặc lòng, tổ tôm vẫn giúp cho sự giao du của bà một ngày một thêm rộng. Và nhờ đó bà đã nghiễm nhiên trở nên một bà mối.
Làm cái việc “thay ông Tơ bà Nguyệt” ấy, bà thường nói, bà chỉ cốt giúp bà con, chứ chằng hòng kiếm chác, tuy bà cũng không từ chối những số tiền lớn mà người ta cho bà dựt tạm để bà không hoàn lại. Những món nợ ấy cả hai bên - người vay và người cho vay - đều ngầm hiểu rằng không bao giờ nên nhắc đến nữa.
Hôm nay nhân bà huyện nhờ bà đến bà Ba để nói nhiều câu chuyện có liên can tới việc cưới xin, bà không quên, lúc ra đi, những việc riêng của bà. Bà biết rằng bà Ba ưng Phan lắm, nhất từ hôm anh chàng ấy đậu xong cái bằng cử nhân luật. Vậy thì lúc này chính là lúc bà phải cần đến một món tiền để trả nợ ai đó, hay để lấy cái nhà nào đấy bằng một giá hời. Lúc này hay không lúc nào hết. Bà Ba giàu lắm, không ai còn lạ điều ấy. Nhưng cũng không ai lạ rằng bà ta chặt chẽ, keo bủn nữa. Cưới xong con bà ta rồi, bà ta sẽ không còn thấy chút liên lạc gì giữa bà ta với bà mối.
“Bấy giờ thì còn hòng gì?”
Bà Hai vừa đi vừa nghĩ thầm. Và, khi tới cổng nhà bà Ba, bà đã vội xếp đặt sẵn những mưu mà bà sẽ đem ra thi thố. Bà thành thực cho rằng “chú rể” nay đã lên giá, và nếu bà không làm cao thì bà thực ngốc, thực vô lý.
Vì thế bà vào ngay chuyện bằng một câu khoác lác:
- Thưa cụ, - đối với những chỗ thân, bà Hai thường không dùng tiếng cụ lớn - cậu cử cậu ấy thi như đùa mà cũng đỗ.
Bà Ba cười sung sướng, vẻ mặt hớn hở:
- Thưa cụ, cụ biết đâu rằng cậu ấy thi đùa?
- Thưa cụ, vì hôm nọ tôi đến chơi đằng nhà gặp cậu ấy ra đi, tôi hỏi: “Sắp thi rồi, cậu cử không ở nhà học, lại đi chơi à?” Cậu ấy bảo: “Cụ tính thi cử nhân thì hỉ mũi một cái cũng xong, cần gì phải học!”. Ấy thế mà thực học chơi học bời cũng đỗ được mà lại đỗ đầu nữa cơ chứ! Gớm thật! Chịu cậu ấy thông minh. Sức ấy rồi có thể đỗ tiến sĩ, thạc sĩ, trạng nguyên đấy, nếu sang Pháp mà học thêm được... Mới một tí tuổi đầu!
- Chỉ sợ cậu ấy không thích sang Pháp thôi.
Bà Ba khoe giàu một cách kín đáo, nhưng bà Hai cũng hiểu ngay.
- Nghe nói cưới xong, cụ cho cậu mợ sang Pháp, phải không ạ?
Bà Ba cười he hé:
- Tôi vẫn nghĩ thế. Nếu cậu cử muốn học nữa thì tôi cũng phải lo đủ tiền cho cậu ấy học chứ.
Bà Hai cười theo, giọng cười ầm ỹ để che sự nhạt nhẽo và giả dối.
- Cụ thì việc gì phải cố mới cho được cậu cử sang Pháp!
Rồi không một ý tưởng liên lạc, bà nhảy ngay sang câu chuyện hỏi vợ cho Phan - Cái lối nói chuyện đầu Ngô mình Sở ấy, bạn bè của bà thường cho là có tính cách đồng bóng, nhưng kỳ thực đó chỉ là một lối xã giao khôn khéo.
Bà kể câu chuyện ấy với bà Ba đã nhiều lần, thế mà nay bà vẫn thuật lại dài giòng với một giọng rất tự nhiên, coi như bà Ba chưa từng nghe bao giờ.
Đó là một thói quen của nghề nghiệp. Mỗi một đám bà làm mối, bà lại thêu dệt nên một câu chuyện văn hoa. Câu chuyện về Phan thì như thế này:
Cậu cử Phan khó tính lắm. Cậu thường ngỏ với cụ huyện rằng một là lấy được người vợ thực vừa ý, hai là suốt đời ở vậy. Còn cách kén chọn của cậu cử thì lạ lùng quá. Năm kia cụ thượng Bùi bắn tin muốn gả một cô con gái cho cậu. Cụ có hai cô, cô Ngọc mười chín, và cô Kim mười tám. Bà Hai đưa ảnh hai cô cho cậu Phan xem, nhưng cậu mỉm cười chê: “Các cô ấy mới quá, tân thời quá. Mà nghe đâu lại sính nhảy đầm lắm”. Thế là hỏng một đám.
Mấy tháng sau lại một đám khác, con gái một ông Hàn cự phú xứ quê. Cậu Phan xem ảnh chê đần. Bà huyện nói đùa: “Người ta đần nhưng người ta có mấy vạn hồi môn”. Mà sự thực, lời bà Hai, ông Hàn hứa cho con rể hai cái nhà ở Hà Nội và một trăm mẫu ruộng...
Đến đây, cũng như nhiều lần trước, bà Ba ngắt câu chuyện, bảo bà Hai:
- Người ta giàu thực! Cho những hai cái nhà với một trăm mẫu ruộng! Những hạng cóc vàng xứ quê, chị em mình ở thành phố bì sao được, phải không bà nhỉ?
Bà Hai mắt liếc, miệng chúm chím, cái điệu bộ của một bà đồng trong khi hầu giá, đương khoái trí vì một câu nịnh của bọn tín nữ:
- Rõ khéo, việc gì phải lôi người ta vào! Chúng mình thế quái nào được, cả cơ nghiệp nhà tôi không bằng cái... chuồng chim nhà bà nói chúng mình làm tôi thêm thẹn.
Rồi bà kể tiếp, câu chuyện bỏ dở:
- Lấy nhau thực tại duyên số cả, cụ ạ. Hôm tôi đưa cho cậu Phan xem ảnh của cô Cúc...
Bà Hai nhìn Cúc, mỉm cười gật luôn mấy cái se sẽ, và nói lẩm bẩm:
- Tốt đôi thực!
Câu khen ngợi làm bà Ba cảm động ngồi lặng ngắm con. Cúc bẽn lẽn cúi đầu rồi chạy vào gác trong. Bà Ba vội gọi:
- Cúc!
Cúc đứng lại, quái cổ hỏi, giọng hơi gắt:
- Me bảo gì ạ?
Bà Ba ngượng với khách vì cái cử chỉ vô lễ của con mình, nên nói tuế tóa:
- Thôi, mời cô cứ vào trong ấy, tôi không cần nhờ cô việc gì ở ngoài này hết.
Cúc là con nuông của bà. Ngay từ thủa nhỏ được thả lỏng, không bị bắt ne bắt nét dạy vào khuôn vào dịp, thành thử nàng không có cái thông minh lanh lẹn, hóm hỉnh, hay nghịch ngợm của bọn cắp sách đi nhà trường, mà cũng không có cả cái ngoan ngoãn nết na tuy đần độn của phần đông các thiếu nữ vô học.
Bà Hai thừa biết chỗ nhược điểm ấy của cô con gái mà hiện giờ bà cần phải trông thấy hoàn toàn. Bà nhìn theo nàng và như nói một mình:
- Thực là tốt đôi!
Rồi bà lại kể tiếp câu chuyện bịa đặt, thêu dệt bằng những lời văn hoa lòe loẹt. Không thấy bà Hai nhắc tới một câu mà nhiều lần trước bà ta đã thuật rất rành mạch và lần này có lẽ bà ta nhãng quên đi, bà Ba liền hỏi:
- Sao cụ bảo cậu Phan nói nếu không lấy được Cúc thì thề không lấy ai?
- Vâng, chính thế. Cậu ấy khen nhà cụ là một nhà đại gia. Cậu ấy đáo để lắm cơ đấy, cụ ạ. Kén vợ đã đành, nhưng còn kén cả nơi môn đăng hộ đối...
Bà Hai ngừng lại, suy nghĩ, rồi thốt nhiên hỏi:
- Thưa cụ, dễ cụ có đến mười cái nhà ở Hà Nội đấy nhỉ?
Bà Ba giọng nói nhún:
- Có đâu!... Sáu cái thôi... Mà chỉ có hai cái là mỗi tháng cho thuê được hơn trăm bạc một cái. Còn bốn cái kia tiền thuê có ra gì đâu, chỉ từ bốn đến sáu chục...
Bà Hai cười, ngắt lời:
- Thì hãy thế! Dễ chỉ những tiền thuê nhà ở Hà Nội, mỗi tháng cụ cũng đã thu tới năm trăm rồi. Gấp rưỡi lương quan Tổng đốc còn gì!... A, cụ huyện định sang Giêng xin đón mợ cử đấy, xin thưa để cụ rõ, và xin cụ cho biết cụ cho dẫn những gì?
- Thôi bây giờ văn minh, thế nào xong thôi, cụ ạ, giản dị là hơn hết, chứ kể ra thì nhà tôi quen khắp các quan ở Bắc kỳ, biết dẫn bao nhiêu cho đủ được.
Bà Hai lại cười he hé như lúc bóng cậu thích trí sắp ban thưởng cho bọn chân nhang, và giọng bà nửa đùa bỡn nửa trang nghiêm:
- Thế nào! Hôm cưới cụ định cho cậu cử mợ cử những gì?... Một cái ô-tô kính nhé? Hai cái nhà nhé?
Bà Ba mắt mở to đăm đăm nhìn bà Hai:
- Còn phải cho chác gì nữa! Thì của tôi là của cậu mợ ấy cả, chứ còn là của ai vào đấy mà phải bày vẽ...
Nhìn vẻ mặt tưng hửng của bà mối và hiểu rằng mình nói hớ, bà Ba liền chữa:
- Vâng, nếu cậu cử muốn tôi mừng thì rồi tôi mừng, mừng gì cũng được. Miễn là cậu cử ra làm quan thì mừng gì thì mừng... Cả cơ nghiệp đấy.
Bà Hai trầm ngâm hỏi:
- Thế sáu cái nhà ở Hà Nội, cu định cho cậu cử mợ cử những cái nào còn những cái nào cụ cho cậu Khoa?
Bà Ba ngơ ngác hỏi lại:
- Cho cậu Khoa? Sao lại cho cậu Khoa?
Bà Hai thản nhiên:
- Sao tôi nghe nói cụ cho cậu Khoa ăn thừa tự... cụ định gây dựng cho cậu Khoa?
Bà Ba cười:
- Nào đã có gì đâu!... Người ta cứ đồn ầm lên thế đấy thôi, cụ ạ... Chứ tôi nhờ giời cũng được một mụn con. Thời buổi này con gái cũng như con giai, với lại theo luật mới thì con gái cũng được giữ việc hương hỏa như con giai...
Bà Hai vui mừng:
- Vâng, cụ nghĩ thế rất phải.
Và bà cho rằng công việc bà mối đến đấy đã ổn lắm rồi, bây giờ bà nên kíp nghĩ đến quyền lợi của bà. Bà đứng dậy cáo ra về. Để được tự nhiên, bà định bụng tới phút cuối cùng mới nói câu chuyện riêng. Quả thực tới cổng, bà như chợt nhớ ra, bảo bà Ba:
- Cụ ạ, có món tơ của một chỗ quen thuộc họ đem cầm nhưng họ giấu tiếng... Tơ tốt, giá cầm lại hời, lãi phân rưỡi mà họ chỉ cầm lửa, độ một tháng trở lại. Tôi thu xếp nhặt nhạnh chỉ được hai nghìn, thiếu mất có năm trăm, giá cụ có cho giựt tạm thì hay quá.
Bà Ba giọng xuýt xoa:
- Thưa cụ, thế thì hời thật đấy. Rõ tiếc quá. Giá cụ hỏi hôm qua thì tôi sẵn. Năm trăm chứ một nghìn cũng đủ... vì món tiền bán thóc mới sáng nay tôi cho một cho quen thuộc vay mất rồi.
Bà Hai tươi cười đáp lại:
- Vâng, tôi cũng biết các cụ thì tiền nong xuất nhập luôn luôn mấy khi để nằm không. Thôi, tôi lên hỏi cụ bố hàng Đào vậy... À, cụ có biết cụ bố hàng Đào không nhỉ?
- Thưa cụ, cụ bố hàng Đào thì ai không biết?
Bà Hai mỉm cười nháy mắt, hạ giọng, bảo bà Ba:
- Ấy, cô Huyền con gái cụ bố cũng đã ngấp nghé cậu cử mãi đấy. Cô ả thì được cả nhan sắc lẫn học vấn, nhưng phải cái...
- Phải cái sao, thưa cụ?
Bà Ba vội hỏi. Bà Hai chậm rãi đáp:
- Phải cái hơi tự phụ... Mà bà mẹ thì chắt bóp quá.
Bà chép miệng nói tiếp:
- Nhưng thử cứ hỏi xem. Thôi, lạy cụ.
- Không dám, lạy cụ.
Bâ tưởng bà Hai đi hẳn, nhưng không, bà còn quay lại hỏi nữa:
- À, thưa cụ, về câu chuyện “thừa tự” tôi cứ nói với cụ huyện rằng cụ cũng chưa nhất định ra sao.
- Vâng... A, cụ nói... không có gì cả... Với lại... hay là cụ hãy ngồi chơi, tôi hỏi dì phán chán xem.
- Hỏi điều gì ạ?
- Hỏi xem có sẵn tiền, tôi giựt tạm giùm cụ.
Cố nhiên bà Ba giựt tạm được, vì món tiền giựt tạm ấy chỉ là tiền của bà. Nhưng từ năm trăm, nó đã rút xuống hai trăm. Hơn một điều là bà ngỏ ý cho bà Hai hiểu rằng hai trăm bạc ấy bà biếu hẳn. Bà nói:
- Cụ hay cầm tạm, khi nào sẵn tôi sẽ xin đưa nốt. Hai trăm bạc này cụ cứ giữ hộ, rồi bao giờ tiện vào Thanh có việc gì, cụ mua giúp cho ít quế tốt. Nghe nói cụ sành quế lắm.
Bà Hai cười, sung sướng:
- Vâng, thưa cụ, tôi mua quế thì khó lòng mà nhầm được.
- Thế thì cụ để tâm giúp cho nhưng xin cũng đừng vội.
Trước khi từ biệt, hai người còn vái chào nhau hai, ba lần nữa. Bà Ba tiếc của, buồn rầu bước lên gác, miệng lẩm bẩm nguyền rủa bà Hai.
VI
Từ buổi hội kiến ở nhà bà Ba, Tính và Chuyên, hai chị em dâu lại áy náy, khó chịu. Không hẳn là ngờ vực, ghen ghét như xưa, nhưng là một tính tình làm cho người ta tức tối, uất ức không duyên cớ. Hình như có cái gì đè nặng trĩu bên lòng, mà hai người cùng không bao giờ dám hé môi thổ lộ với ai, vì thế sự bực bội thầm kín càng tăng lên mãi.
Đã nhiều lần, Chuyên bỏ cơm vào buồng nằm. Đầu nàng nóng ran, tim nàng đập mạnh, khiến Khoa tưởng nàng ốm. Nhưng đó chỉ là biểu hiệu của sự căm giận cực điểm. Nàng giận ai? Nàng tự hỏi, và tìm mãi xem đáng giận người nào nhất, và vì sao mình lại giận. Nhưng nàng chỉ thấy những ý nghĩ, những cảm giác, những cảm tưởng của nàng lờ mờ chung quanh mấy nhân vật: bà Ba, sư Giáp, và Tính.
Đối với Tính, tuy ngoài mặt Chuyên tỏ tình niềm nở, thân mật nữa, nhưng trong thâm tâm, nàng vẫn đinh ninh rằng hai người khó lòng còn có thể trở lại hòa thuận như trước. Đôi bên đã nói nhau những câu thô lỗ, đã xử với nhau một cách tàn tệ, thì những ngôn ngữ, cử chỉ ấy đến ngày chết cũng không quên nhãng được.
Chuyên cho là thế, yên trí là thế. Tính cũng cho là thế và cũng yên trí là thế. Mà khi đàn bà họ đã yên trí một điều gì thì không ai còn có tài khiến được họ nghĩ khác. Khoa và Trình đều ngầm hiểu rằng tình thế vẫn khó khăn, vẫn gay go, ngay từ hôm sự hòa thận trở lại trong hai gia đình, sự hòa thuận mà hai người cùng mong lâu bền, nhưng cùng cảm thấy bấp bênh, mỏng mảnh. Họ cười bảo nhau: “Hai ngọn hỏa diệm sơn tạm im không phun lửa. Ta đừng vội mừng”.
Nhưng họ không thất vọng, cùng nhau quả quyết và khôn khéo cố gây lại cảnh bình tĩnh, êm ấm đã mất vì “bọn đàn bà”. Trong câu chuyện riêng họ thường dùng ba tiếng “bọn đàn bà” để tỏ hết lòng tức giận và khinh ghét của họ. Và có lần giữa một bàn tổ tôm, Khoa nửa đùa nửa thực đã ném ba tiếng ấy vào mặt Tính và Chuyên:
- Chà! Ai thèm chấp bọn đàn bà làm gì!
Tức thì hai chị em dâu nhao nhao lên phản đối:
- Bọn đàn bà làm sao?
Trình phải vui cười giảng giải, câu chuyện mới không thành ra to. Sự thực, Tính và Chuyên có lúc cũng nhận thấy những cái nhỏ nhen của mình và của tất cả “bọn đàn bà”. Nhưng họ không ưng để người khác, để một người đàn ông dù là chồng họ, chỉ trích, chế riễu. Lúc bấy giờ thì hai người đàn bà ghét nhau đến đâu cũng hợp sức lại để tự bênh vực lấy danh dự chung.
Thấy vợ và chị dâu thường lồng lộn lên vì câu trêu tức của mình, Khoa mỉm cười nghĩ thầm: “Nếu lúc nào họ cũng thực bụng vào cánh với nhau như lúc nào thì hai gia đình sẽ yên ổn biết bao!” Và chàng lập tâm giả tảng về hùa với Trình để cùng công kích hai người đàn bà: “Làm thế để họ thân nhau”.
Nhưng lần nào cũng vậy, sau sự sốt sắng bồng bột chốc lát, sự lạnh lùng cố hữu lại trở vào hai tâm hồn cứng cỏi kia ngay.
Một hôm Chuyên đỏ bừng mặt trả lời lại chồng:
- Đàn bà cũng năm bảy hạng, tôi không như ai đâu, cậu đừng vơ đũa cả nắm.
Khoa cho là một câu hồn nhiên, không ám chỉ ai. Nhưng Tính lại không cho là thế. Nàng nguýt dài quay đi, khiến Trình trông thấy, và sợ vợ cáu kỉnh đối đáp lại em dâu, chàng vội vui vẻ nói chữa:
- Vâng, chúng tôi nói là nói chung một số đông đàn bà, chứ hai bà thì cố nhiên không như bọn họ.
Rồi lảng sang chuyện khác ngay.
Từ hôm ấy, trong những bàn tổ tôm hay bàn chắn mà Trình và Khoa lập nên để gây tình hòa hợp, hai người đàn ông càng giữ gìn lời nói, nhất thiết không đá động tới bà Ba với việc “thừa tự” của bà ta. Hễ thấy Tính hoặc Chuyên nhắc đến tiếng “troisième” thì Trình hay Khoa đã gạt phắt:
- Thôi, tôi xin các bà, còn nói đến cô ta làm gì nữa!
Tức khắc hai người đàn bà im ngay.
Nhưng nếu có mặt bà lý Thuận hay anh cả Thiện thì không còn ai có thể giữ nổi Tính và Chuyên: Họ tranh nhau gợi chuyện và thuật những điều không hay về bà Ba. Vì họ cho rằng hai người kia đến chơi chỉ có một mục đích do thám, nên họ nói bắn tin cho về mà “tâu nịnh với bà khọm”.
Cả Thiện là một người trong họ ông án, được bà Ba giao cho trông nom những ruộng vườn ở làng Giáp. Chàng ta đã nổi tiếng khéo nói, và Chuyên cho rằng chỉ nhờ sự xu mị mà chàng ta được lĩnh chân quản lý của bà Ba.
Một hôm, nhác thấy Thiện đến cổng, Chuyên vội gọi người nhà đun nước rồi rất niềm nở mời chào:
- Bác lên gác chơi với nhà tôi.
Thế rồi dăm phút sau, Tính và nàng vờ thẳng thắn, vô tâm hỏi Thiện những câu rất hóm hỉnh.
- Bà Ba sắp cho cưới cô Cúc, phải không? Bà Ba đi đâu cũng khoe khoang chàng rể, phải không?
Thiện đáp qua quít cho xong và cố nói lảng sang chuyện khác.
Nhưng khi nào hai người đàn bà kia chịu để cho chàng lẩn thoát; họ kéo chàng cho bằng được vào trong câu chuyện bà Ba. Và nếu chàng không trả lời thì Chuyên sẽ kể một câu chuyện cho mà nghe, một câu chuyện về chú rể chẳng hạn.
Cứ theo chỗ biết của Chuyên thì chú rể không những là một anh đào mỏ, mà còn ở trong một gia đình chuyên môn đi đào mỏ nữa, vì hai người anh Phan đều sống về gia tài của vợ và của gái.
Khoa cau có cự vợ:
- Mợ lôi thôi lắm, đèn nhà ai nhà ấy rạng, có được không. Can chi lại cứ đi kháo chuyện nhà người ta!
Chuyên gắt lại:
- Thì việc gì đến cậu!
Rồi quay sang bảo Thiện:
- Tôi nói bác biết vậy thôi nhá. Đừng kể đi kể lại với bà Ba làm gì.
Câu chuyện lại nối. Chuyên thành thạo tả rõ từng người trong cái gia đình bà huyện. Bà này đáo để lắm, dạy khôn dạy khéo cho con biết đường mà đào mỏ, mà khảo của vợ. Cái mặt bà ta phèn phẹt, cặp môi bà ta mỏng dính, hai hàm răng khít lại nhau khi bà ta cười cũng như khi bà ta nói. Chuyên vẽ bà huyện như theo kiểu mẫu mà nàng đã ngắm nghía nhiều lần. Kỳ thực nàng chưa hề gặp mặt bà ta, chỉ tả theo những lời đã được nghe, và thêm thắt vào cho bức tranh của mình có vẻ hoạt động.
Kể đến người con trai cả, Chuyên chỉ nói qua là một anh chàng đào mỏ, vì về người này, nàng không biết chuyện mà cũng chẳng rõ đời sống ra sao. Nhưng đến người anh Hai của Phan thì Chuyên tả bằng những lời rành mạch, tỉ mỉ và cố nhiên chua chát. Đó là một anh đào mỏ “có bằng cấp” hẳn hòi, vì chàng đỗ kỹ sư. Và Chuyên thêm luôn “kỹ sư mỏ” tuy người kia chỉ có cái bằng kỹ sư hóa học tại một trường tư ở bên Pháp. Đem mảnh bằng cao cấp ấy về nước, chàng ta đi hỏi vợ đâu mà không đắt, vì thế năm nay mới ngoài ba mươi tuổi, chàng ta đã hai lần bỏ vợ, toàn con nhà giàu và sang nữa. Hiện nay chàng đương ở với một cô tình nhân cũng giàu lắm, vợ một người bạn của chàng.
Không bao giờ Chuyên vui vẻ bằng những lúc nàng thuật lại chuyện xấu của người khác, nhất của người mà nàng ghét sẵn. Má nàng hồng hào, mắt nàng long lanh và đưa đi đưa lại rất mau. Tính cũng vui sướng như em dâu, và tin rằng những lời vừa được nghe toàn là sự thực cả. Nàng không kịp để ý đến những chi tiết mà mỗi lần thuật lại, Chuyên đều thay đổi, thêm bớt chút đỉnh - câu chuyện nàng kể có tới hằng chục lần rồi. Nhưng Trình nhận thấy những chỗ mới bịa đặt. Và chàng mỉm cười nghĩ thầm: “Lâu dần có ngày thím ấy sẽ kể thành một câu chuyện khác hẳn”.
Cách đó nửa tháng, bà Ba bỗng đến chơi. Có lẽ Thiện đã mách bà những điều nói xấu của bọn Trình nên bà cần cải chính. Bà đã cho Tỉu báo trước rằng bà sắp sang chơi nên hai anh em sửa soạn tiếp bà ở phòng khách nhà Trình. Tính và Chuyên băn khoăn hỏi nhau:
- Không biết cô ta sang làm gì thế?
Thấy hai người đàn bà nhắc đi nhắc lại mãi câu ấy, Trình phát gắt:
- Thì sang làm gì rồi sẽ rõ, can chi phải lo sợ...
Chuyên quắt mắt cự lại:
- Ô hay! Anh ăn nói hay nhỉ. Việc gì tôi phải sợ ai?
Ngay lúc ấy có tiếng bà Ba và Cúc ở cổng. Chuyên bảo Tính cứ ngồi yên, không cần phải ra đón! Nàng tiếp:
- Làm bộ, lần nào cũng hắng dặng.
Tính nói trống không:
- Mà đi đâu cũng lôi con gái đi theo. Chưa thấy lần nào cô ta đi một mình.
Khoa vẫn nhanh nhảu và có tính hay nể, nhất đối với đàn bà, dù người già hay người trẻ - cái tính ấy đã làm cho chàng nhiều lần cãi nhau với vợ. Thấy bà Ba đi vào sân, chàng bước xuống thềm chào lí nhí:
- Cô.
Liếc qua mành mành vào trong nhà biết Tính và Chuyên có ngồi ở đấy, bà Ba liền đứng lại:
- Không dám, anh.
Cúc chắp tay vào ngực nghiêng đầu, cái lối chào mà nàng cho là rất Hà Nội:
- Lạy anh ạ.
- Không dám, cô.
Bà Ba đậm đà hỏi để bọn Tính sửa soạn ra chào:
- Lâu nay anh có được mạnh không?
- Cảm ơn cô.
- Anh Trình có nhà không anh?
- Có đấy... ạ.
Tiếng ạ, Khoa như ngần ngại, miễn cưỡng thêm vào, cho lời nói của mình đỡ cứng cỏi, đỡ cộc cằn hỗn xược.
- Còn hai chị đâu? Các bà ấy lại tổ tôm chứ gì! Lâu lắm không được đánh tổ tôm với hai chị, nhớ quá.
Đến đây, hai người đàn bà không thể gan hơn được nữa. Tính nhìn Chuyên. Chuyên quả quyết đứng dậy ra hiên. Tính cũng theo ra. Không để Chuyên nói trước mình, Tính vội vàng:
- Cô sang chơi!
Cho cách chào của Tính là vô lễ, Tính mà xưa kia, còn sinh thời ông án, bà vẫn coi thường và khinh bỉ nữa, bà Ba hất cằm hỏi Chuyên:
- Kìa chị Ba, sao bảo chị khó ở?
- Tôi cảm mất mấy hôm, nhưng đã khỏi.
Sự thực, Chuyên không ốm bao giờ. Chẳng qua bà Ba hỏi cho cô chuyện, và Chuyên đáp liều cho xong chuyện.
Mọi người vào phòng khách. Trình ở trên nhà thờ cũng vừa xuống. Bà Ba vào ngay chuyện:
- Tôi đến để nói cho các anh các chị biết rằng tôi định gả em Cúc cho cậu cử Phan, con cụ huyện.... hàng Bông. Người ta cũng là con nhà “trâm oanh”... Vậy trước khi nhận lời người ta, tôi đến hỏi ý kiến các anh, các chị.
Khoa mỉm cười nghĩ thầm: “Trâm oanh là cái quỷ gì/ Mà ngày nay làm quái gì còn có trâm với anh?”
Chuyên quay nhìn Tính, như để phân trần: “Ăn hỏi rồi, mới hỏi ý kiến, vô lý quá!” Và nàng thốt ra lời mai mỉa:
- Thường đã ăn hỏi rồi!
Bà Ba không chút ngượng ngập:
- Đành thế, vì tôi chắc tôi đã ưng thì các anh, các chị cũng ưng. Vả lại, nếu bây giờ các anh các chị không bằng lòng, cũng chưa muộn quá kia mà.
Câu nói đãi bôi của bà Ba làm cho mọi người cùng bất giác mỉm cười.
- Đấy, em các anh, các chị đấy. Quyền các anh, các chị...
Rồi cho bọn kia biết rằng bà không làm việc gì ngang trái, bà Ba thêm luôn:
- Anh huyện, chị huyện thì tôi đã hỏi ý kiến rồi. Anh huyện, chị huyện bằng lòng lắm, yêu em Phan lắm. Hôm đến chào anh huyện, anh ép em uống rượu say mềm cả người.
Vừa nói bà vừa liếc quanh một vòng để ngầm bảo:
“Tao chỉ cần anh huyện bằng lòng là được rồi. Còn chúng mày, tử tế thì tao bảo qua cho mà biết. Hạch sách gì?”
Một làn không khí lạnh lẽo như bao bọc lấy bốn người. Bà Ba lại thớ lợ liền:
- Các cháu đâu cả? Đi vắng lâu, nhớ các cháu quá. Già trẻ bao giờ cũng tương đắc.
Tính đáp nhạt nhẽo:
- Chúng nó đi học cả.
- Vậy em Cúc để hộp bánh lại cho các cháu nhé?
- Vâng.
Bà Ba đứng dậy:
- Thôi các anh các chị ở lại.
Trình tưởng nên mời một câu:
- Cô xơi nước đã.
- Cám ơn anh, tôi không khát.
Nhưng bà Ba cũng ngồi xuống nói, làm như đó là một câu chuyện mua vui:
- Buồn cười quá, các anh, các chị ạ. Có người mách với tôi rằng cậu kỹ sư, anh cậu cử, là người thế nọ thế kia. Tôi còn lạ gì cậu ta nữa... Hiền như bụt. Cậu ta đã hai đời vợ là vì lấy phải vợ không ra gì đấy thôi... Với lại, anh khác, em khác chứ, phải không hai chị?
Tính đưa mắt nhìn Chuyên. Chuyên bĩu môi quay đi: nàng biết rằng bà Ba ám chỉ mình.
Rồi bà ta đứng dậy, lần này dễ đi hẳn chứ không trùng trình nữa. Ra đến cổng, bà như chợt nhớ ra, nói to bảo Khoa:
- A, anh Ba, anh có bức thơ người ta đưa nhầm đến đằng tôi.
Cúc tiếp luôn:
- Vì phong bì người ta đề: chez Madame veuve án sát...
- Vậy chốc anh sang, tôi đưa cho. Với lại, tôi còn nhờ anh xem hộ cái giấy giao kèo cho thuê nhà viết bằng chữ tây kia.
Dứt lời, bà dắt tay Cúc đi thẳng.
Tính khó chịu nhìn Khoa. Và cái câu mà nàng đã nhiều lần muốn nói nhưng vẫn chưa nỡ, lần này nàng quả quyết ném ra, sau mấy tiếng cười khô khan mà nàng cố làm ra tự nhiên:
- Nghe đâu sư Giáp vẫn khuyên cô ta nên để chú ăn thừa tự đấy mà. Ngay hôm nọ, chú thím hẳn còn nhớ...
Câu nói vừa buột miệng, Tính hối hận ngay, và chữa:
- Vô lý quá!... Khi nào chúng mình lại chịu thế kia chứ.
Giữa lúc ấy bà Ba trở lại, trở lại một mình, lững thững đi vào trong sân. Gặp Trình, bà cười nói:
- Phải đấy, anh chị cho tôi uống nước đã. Có câu chuyện mà suýt nữa tôi quên.
Mọi người lại cùng vào ngồi ghế trường kỷ, trong phòng khách. Bà Ba bắt đầu:
- Xin nói để các anh, các chị biết: năm nay tôi không về nhà ăn tết được.
Kể thì thỉnh thoảng mới có năm bà Ba ở làng vào dịp tết.
- Vậy năm nay nhờ các anh, các chị cúng thầy cho.
Giọng bà ta trở nên thân mật, cảm động.
- Vì bên nhà giai họ nhất định xin cưới vào mồng tám tháng Giêng, người ta đã chọn được ngày lành tháng tốt, nên tôi cũng phải bằng lòng, chứ biết sao.
Ai nấy yên lặng ngồi nghe, vẻ mặt không biến đổi.
- Hôm ấy thế nào các anh các chị cũng lên Hà Nội mừng cho em nhé...
Đến đó nước mắt dễ dàng chảy ra. Và bà Ba sụt sùi nói tiếp:
- Nó đi lấy chồng rồi thì tôi trơ trọi một mình, các anh, các chị ạ. Tôi còn ở Hà Nội làm gì nữa... Thế nào tôi cũng về ở nhà... với các anh các chị, với các cháu tôi.
Nhận thấy vẻ lãnh đạm trên mặt Tính và Chuyên, bà Ba cười, đổi giọng ngay:
- À, mà các cháu đâu nhỉ?
Khoa đáp:
- Các cháu đùa nghịch cả ở bên chùa.
Bà Ba ngồi im một lát, rồi lại thở dài nói:
- Buồn! Tôi nghĩ mà tôi buồn, em nó đi lấy chồng rồi thì... chỉ còn các anh, các chị... Thế mà các anh, các chị chả thấu lòng cho tôi...
Ai cũng biết bà Ba muốn nhắc đến việc thừa tự, nhưng đều lặng thinh. Bà Ba cũng ngừng lại đăm đắm nhìn ngọn rặng cau trồng bên tường hoa. Bỗng bà như quên hết phiền muộn, đứng dậy. vui vẻ nói:
- Mai tôi lại phải đi Hà Nội sớm, các anh, các chị ạ. Thôi các anh, các chị ở lại nhé.
Không ai nghĩ đến giữ bà ta lại uống nước, nhưng cũng đều đứng dậy tiễn bà ta ra tới cổng. Hình như những nỗi đau đớn mà người đàn bà ấy vừa thổ lộ ra đã làm dịu lòng căm hờn của bọn cừu địch.
Trước khi từ biệt, bà Ba còn quay lại dặn Khoa:
- Anh nhớ sang nhà, tôi đưa cho bức thư. Với lại anh sang giúp tôi việc ấy...
Bà cười, nói tiếp:
- Sau khi em Cúc về nhà chồng, tôi sẽ phải nhờ đến các anh... các chị luôn... Các anh, các chị chả... nghe lời cũng chả được với tôi.
Rồi bà đi thẳng, để lại trong trí nghĩ bốn người một câu cuối cùng rất mờ nghĩa, mà họ đều đoán có dính dáng đến việc thừa tự.