← Quay lại trang sách

1. Đạo đức là gì?

Khi chúng ta xem xét các câu hỏi về đạo đức, ta sẽ sớm phát hiện ra bản thân định nghĩa của từ này vốn dĩ không gây tranh cãi là mấy, nhưng đạo đức của một hành động trong một trường hợp cụ thể thì còn nhiều điều đáng bàn cãi. Hãy bắt đầu với câu hỏi đơn giản: Chúng ta định nghĩa đạo đức như thế nào? Hầu hết mọi người sẽ đồng ý với định nghĩa sau:

“Đạo đức là tập hợp các giá trị và chuẩn mực nhằm xác định hoặc nên dùng để xác định hành vi hợp luân lý của con người.”

Tuy nhiên, khi bạn áp dụng điều này vào các tình huống hàng ngày, mọi thứ bắt đầu trở nên thú vị. Cuộc tranh luận gay gắt nổ ra về việc liệu điều này hay điều khác là “trái đạo đức”. Và bởi vì không ai có thể đi đến kết luận và đáp án vẫn bỏ ngỏ, người ta phải dành cả đời để tự mình đối mặt với những tình huống khó xử về đạo đức và phát triển hệ thống đạo đức độc đáo của riêng họ theo thời gian.

Ở đây, những người theo đạo có thể xen vào rằng Chúa nắm trong tay câu trả lời tối hậu cho tất cả các câu hỏi hóc búa về đạo đức của chúng ta. Nhưng ngay cả khi bạn chấp nhận điều này, vẫn có vô số câu hỏi mà Kinh Thánh không giải đáp, và các tín đồ - ngay cả những người thuộc các giáo phái giống hệt nhau - có cách tiếp cận rất khác nhau. Lấy hai ví dụ đại biểu là “sự vô đạo đức” trong chẩn đoán di truyền tiền cấy ghép và tình dục đồng giới. Mỗi linh mục hoặc mục sư giải thích thánh kinh theo những cách khác nhau, và các văn bản cổ lại không đưa ra được một câu trả lời rõ ràng cho các câu hỏi hiện đại này.

⚝ ✽ ⚝

Những kỹ thuật trong cuốn sách này có vô đạo đức không?

Hãy cùng xem xét ba tình huống hàng ngày sau đây, đồng thời xem xét kỹ động lực bên trong của những người có liên quan. Bạn làm gì về chúng?

1. Một người hút thuốc châm thuốc ở trạm xe buýt. Anh ấy biết rằng hút thuốc thụ động có hại cho sức khỏe của chúng ta. Anh thấy một vài người đang nhăn mặt, rõ ràng là những người không hút thuốc. Người hút thuốc của chúng ta tự nghĩ: “Nếu họ không thích khói thuốc, họ có thể sang đứng ở một nơi khác.” Người hút thuốc có đúng không?

2. Một sinh viên đang vật lộn với luận văn của cô ấy. Do mắc chứng trầm cảm, cô ấy hầu như không viết được trang nào. Cô ấy thuê một bên khác để viết luận án của mình với giá 3000 đô la. Cô ấy tự nghĩ: “Tôi biết điều đó là bất hợp pháp. Nhưng nó không phải là trái đạo đức. Tôi không làm tổn thương bất cứ ai bằng cách thuê một người viết hộ.” Cô ấy có đúng không?

3. Một người chồng đã dan díu với một người phụ nữ khác. Anh ấy biết sẽ làm tan nát trái tim vợ nếu cô ấy phát hiện ra và cuộc hôn nhân sẽ chấm dứt ngay lập tức (họ đã có với nhau một đứa con). Vì vậy, anh ấy nghĩ, “Cô ấy sẽ không bao giờ biết chuyện này. Nó vẫn ổn trong mười năm qua.” Hơn nữa, anh ấy tin rằng việc không nói với vợ là một quyết định đạo đức tích cực để cô và đứa trẻ không bị tổn thương về mặt tình cảm. Anh ấy có đúng không?

Nếu tôi đặt những trường hợp này cho khách hàng mà tôi huấn luyện, một điều thú vị sẽ xảy ra: mọi người đánh giá các tình huống khác nhau vì lý do cá nhân. Bởi vì mọi người đều đã phát triển các tiêu chuẩn đạo đức cho bản thân trong suốt cuộc đời. Và la bàn đạo đức của mọi người chỉ theo một hướng riêng.

Khi đưa ra phán đoán đạo đức về một tình huống cụ thể, sự tư lợi cũng đóng một vai trò quan trọng cùng với hệ thống đạo đức cá nhân của bạn. Người hút thuốc đánh giá ví dụ 1 khác với người không hút thuốc. Một người liên tục gian lận ở trường và trong các kỳ thi đại học sẽ đánh giá ví dụ 2 khác với người không bao giờ làm. Và người ngoại tình - mà theo một số nghiên cứu là khoảng 2/3 xã hội của chúng ta phạm phải (không có sự khác biệt đáng kể giữa nam và nữ) - đánh giá ví dụ 3 khác với 1/3, những người bạn đời chung thủy còn lại của thế giới.

Rõ ràng, không thể đánh giá đạo đức của một hành động từ quan điểm tương đối của người có liên quan. Vậy chúng ta nên nhìn nhận ra sao? Một cách logic, ý tưởng về đạo đức sẽ trở nên rỗng tuếch và tùy tiện nếu ai đó có thể định nghĩa nó theo ý họ muốn. Và hầu như tất cả mọi người (trừ những người theo thuyết tương đối về đạo đức) đều có thể thấy điều này. Vì vậy, chúng ta phải cố gắng tìm ra sự đồng thuận tối thiểu về “đạo đức” để duy trì ý nghĩa của thuật ngữ, và thiết lập nền tảng đạo đức chung cho xã hội.

⚝ ✽ ⚝

Định nghĩa tối thiểu về đạo đức

Vậy nên, sự đồng thuận tối thiểu này có thể trông như thế nào? Trong hầu hết các nền văn hóa, cái gọi là quy tắc vàng đóng vai trò này chính là: Kỷ sở bất dục, vật thi ư nhân. Những câu châm ngôn tương tự có thể bắt nguồn từ thế kỷ VII Trước Công Nguyên, xuất hiện trong các văn bản triết học từ Ai Cập cổ đại, Ấn Độ, Trung Quốc, Ba Tư và Hy Lạp cổ đại. Quy tắc vàng cũng xuất hiện dưới nhiều hình thức trong tất cả các tôn giáo lớn trên thế giới - Ấn Độ giáo, Phật giáo, Hồi giáo, Cơ đốc giáo và Do Thái giáo. Trong Kinh Thánh, nó được diễn giải như sau: “Hãy đối xử với người khác như cách bạn muốn người khác làm với mình.”

Một trong những nhà tư tưởng vĩ đại nhất của chúng ta, Immanuel Kant, đã tiến xa hơn một bước. Mệnh lệnh nhất quyết ( categorical imperative ) của ông đã biến nó thành những thuật ngữ phổ quát, giải quyết một số vấn đề triết học trong quá trình này. Ví dụ, quy tắc vàng đưa ra một hệ thống các mong muốn chủ quan. Nó cho rằng các cá nhân chỉ theo đuổi những kết quả tích cực cho bản thân, điều này không hẳn đúng. Một vấn đề khác với quy tắc vàng là nó xác định hành động của chúng ta theo nghĩa tiêu cực, mà không thiết lập bất kỳ nghĩa vụ tích cực nào đối với đồng loại. Mệnh lệnh nhất quyết viện dẫn lý trí thay vì nguyên tắc khoái cảm, bởi vì việc theo đuổi khoái cảm cũng không phổ biến. Schopenhauer thừa nhận rằng mệnh lệnh nhất quyết được cho là vẫn tiêu cực trong cách diễn đạt của nó, cho phép chúng ta thiết lập các nguyên tắc phổ quát dựa trên chủ nghĩa vị kỷ được ngụy trang dưới dạng lý trí, nhưng đó là một cuộc thảo luận triết học cho một cuốn sách khác. Quy tắc vàng được mọi người chấp nhận và đó là tất cả những gì quan trọng đối với chúng ta. Đây là phiên bản nguyên tắc vàng của Kant:

“ Hãy hành động như thể châm ngôn hành động của bạn thông qua ý chí của bạn để trở thành quy luật tự nhiên phổ quát .” [*]

Quy luật này cung cấp một bài kiểm tra khá đáng tin cậy về các nguyên tắc đạo đức của chúng ta. Ví dụ, nếu ai đó nói rằng việc băng qua đường ở đèn đỏ là điều có thể chấp nhận được về mặt đạo đức nếu bạn đang vội vàng - và bạn phổ biến quy tắc này - đồng nghĩa rằng, bạn đang tự đặt mình cùng mọi người lái xe và người đi bộ vào tình thế nguy hiểm. Nó không thể là một quy luật phổ quát.

Chúng ta biết tất cả những điều này theo bản năng mà không cần phải xem Kant. Xâm hại người khác là trái đạo đức. Vì vậy, bây giờ đã đến lúc chuyển nguyên tắc chung này sang vấn đề đang bàn: Việc thao túng hàng ngày có trái đạo đức không?