← Quay lại trang sách

Phần 2

Cửa xe mở ra. Một tiếng động quen thuộc làm mọi hành khách giật mình: tiếng bao gươm cà trên mặt đất. Rồi có một tiếng tên Đức la cái gì đó.

Xe đã ngưng hẳn rồi mà không ai xuống như sợ hễ ra khỏi xe là bị giết. Rồi người đánh xe hiện ra tay cầm một cây đèn thình lình rọi vào tới phía trong cùng, ánh sáng chiếu trên hai hàng đầu người lố nhố, ngơ ngác, miệng há hốc, mắt trợn trừng, vừa ngạc nhiên vừa hoảng hốt.

Đứng bên người đánh xe, trong ánh sáng, là một sĩ quan Đức, trẻ mà rất cao, tóc hung hung, bộ quân phục khít người như một thiếu nữ bận coóc-xê, chiếc nón lưỡi trai dẹp đánh xi bóng láng, chụp nghiêng trên đầu, có vẻ một anh bồi trong khách sạn Anh. Râu mép hắn dài quá mức, cứng, vuốt nhọn, và đâm ngang ra mỗi bên, ở đầu là một sợi nhỏ xíu, hung hăng, không rõ tới đâu là hết; bộ râu đó như đè nặng ở hai mép, kéo xệch hai bên má ra, làm cho môi có một nếp nhăn hạ xuống.

Hắn nói tiếng Pháp, mời hành khách xuống xe, giọng lơ lớ cứng ngắc:

- Xuộng xe cho, xuộng hệc.

Hai bà Phước tuân lệnh trước nhất, những thánh nữ đó vốn nhu mì, quen mọi sự khuất phục rồi. Rồi tới ông bà bá tước, vợ chồng nhà công nghiệp Loiseau ra sau, đẩy mụ vợ to lớn ra trước. Mới đặt chân xuống đất, vì khôn khéo hơn là vì lễ phép, hắn đã chào ngay “kính chào ông”. Viên sĩ quan Đức xấc láo như những kẻ có đủ quyền sinh sát, chỉ ngó hắn mà không thèm đáp.

Thùng Nước Lèo và Cornudet mặc dầu là ngồi gần cửa mà bước xuống sau cùng, nghiêm trang ngạo mạn trước mặt kẻ thù. Ả rán tự chủ và bình tĩnh; còn lão “dân chủ” thì bàn tay run run, bi thảm, hành hạ bộ râu dài, hung hung của mình. Họ muốn giữ vẻ đàng hoàng, vì biết rằng trong những cuộc gặp gỡ như vậy, mỗi người lãnh một chút trách nhiệm thay mặt cho xứ sở của mình, cả hai đều bất bình trước thái độ mềm mỏng của những bạn đồng hành, ả thì rán tỏ ra dũng cảm hơn những bà đứng bên, những bà trong giới lương thiện; còn lão nọ thì thấy rằng mình phải làm gương cho người, tiếp tục, bằng thái độ, cái sứ mệnh kháng chiến mà lão đã bắt đầu thi hành khi đào phá đường để cản địch.

Người ta vô nhà bếp rộng lớn của lữ quán và viên sĩ quan Đức bảo trình giấy phép của viên tướng tư lệnh, trong đó có ghi tên, tướng mạo vả nghề nghiệp của mỗi hành khách hắn ngó mỗi người rất lâu, so sánh xem có đúng với những lời ghi không.

Rồi thình lình hắn bảo: “Tược”, rồi biến mất.

⚝ ✽ ⚝

Lúc đó người ta mới khoan khoái. Lại đói nữa, bảo nấu xúp. Phải nửa giờ mới nấu xong, và trong khi hai người ở gái có vẻ lăng xăng về món xúp thì họ đi coi phòng. Các phòng đều ở trong một hành lang dài, phía cuối có một cái cửa ra vào lắp kính ghi số.

Sau cùng người ta mới ngồi vào bàn ăn thì chủ quán đích thân vô. Trước kia lão buôn ngựa, người mập, bị bệnh suyễn, thở phì phì, khàn tiếng, đờm khò khè trong họng. Ông thân lão truyền cho lão cái tên Follenvie.

Lão hỏi:

- Ai là cô Elisabeth Rousset?

Thùng Nước Lèo giật mình, quay lại:

- Tôi.

- Thưa cô, viên sĩ quan Phổ muốn nói chuyện với cô ngay bây giờ.

- Nói chuyện với tôi?

- Vâng nếu cô phải là cô Elisabeth Rousset.

Ả lo lắng, suy nghĩ một giây, rồi từ chối hẳn:

- Phải, nhưng tôi không đi.

Chung quanh ả có vẻ xôn xao, ai nấy bàn tán, hỏi nhau tại sao có lệnh đó. Ông bá tước lại gần:

- Bà lầm rồi, bà từ chối như vậy có thể gây ra những nỗi khó khăn ghê gớm chẳng riêng cho bà mà cho cả những bạn đồng hành của bà nữa. Không nên chống cự lại với những kẻ mạnh hơn mình. Bá cứ đi đi, chắc chắn không có gì nguy hiểm đâu, có lẽ chỉ là còn thiếu một nghi thức nào đó thôi.

Mọi người đều nói vào, người ta năn nỉ ả, hối thúc ả, thuyết giáo ả và sau cùng thuyết phục ả; vì ai nấy đều sợ ả mà bướng thì sinh ra nhiều sự rắc rối. Ả bảo :

- Vì các ông các bà mà tôi phải nghe lời đấy!

Bà bá tước nắm tay ả:

- Và chúng tôi cảm ơn bà.

Ả đi ra người ta đợi ả về rồi mới ăn.

Người ta buồn rầu vì tại sao viên sĩ quan Đức không gọi mình mà lại gọi cô ả dữ tợn, nóng nảy đó, và nghĩ thầm nếu tới phiên mình phải gọi thì sẽ trả lời những câu hèn hạ ra sao.

Nhưng độ mười phút, ả trở về, hổn hển, đỏ mặt lên, giận đến nghẹt thở. Ả lắp bắp:

- Quân chó má, quân chó má!

Mọi người vội vàng hỏi, nhưng ả làm thinh; vì ông bá tước hỏi gặn quá, ả đáp rất nghiêm trang:

- Không, chuyện đó không liên quan gì tới các ông các bà cả, tôi không thể nói được.

Người ta ngồi chung quanh một liễn xúp cao ngào ngạt mùi thơm bắp cải. Mặc dù có vụ kinh hãi đó, bữa cơm cũng vẫn vui. Rượu tần ngon, cặp Loiseau và hai bà Phước uống thứ đó cho rẻ tiền. Những người khác đòi rượu vang; Cornudet đòi rượu bia. Hắn có một lối đặc biệt để mở nút ve, làm cho rượu xùi bọt lên, rồi cầm nghiêng cái ly mà ngắm, soi lên ánh đèn để ngó kĩ màu rượu. Khi hắn uống, bộ râu dài, một màu với thứ rượu quí của hắn, run run lên như cảm động vì âu yếm; mắt hắn lác đi không rời ly rượu một chớp, và hắn có vẻ làm tròn cái nhiệm vụ độc nhứt, mà trời giao cho hắn đó. Trong đầu hắn, hắn đã hòa hợp, liên kết với nhau hai cái đam mê nó ám ảnh hắn suốt đời: rượu bia và Cách mạng; và nhất định là hắn không thể uống cái này mà không nghĩ cái kia.

Vợ chồng Follenvie ngồi ăn ở cuối bàn. Người chồng thì rên như một cái đầu máy bể, khò khè trong ngực, thành thử không vừa ăn vừa nói được; mụ vợ trái lại không lúc nào ngớt miệng. Mụ kể tất cả những cảm tưởng của mụ khi tụi Phổ tới; kể chúng làm cái gì, nói những gì; mụ rất ghét chúng trước hết vì tốn tiền cho mụ, sau nữa vì mụ có hai người con trai trong quân đội. Mụ nói nhiều nhất với bà bá tước, lấy cái việc hầu chuyện một bà quí phái làm vinh hạnh lắm.

Rồi mụ hạ giọng để kể những chuyện khó nói, và người chồng thỉnh thoảng ngắt lời:

- Im miệng đi, mụ Follenvie.

Nhưng mụ chẳng thèm nghe, cứ tiếp tục.

- Thưa bà, tụi nó chỉ ăn khoai và thịt heo, rồi lại thịt heo và khoai. Mà đừng tưởng là chúng sạch nhé.

- Không đâu! Vô phép bà, chúng bậy bạ ra khắp chỗ. Và nếu bà thấy chúng luyện tập hằng giờ, hằng ngày; chúng nhóm lại trong một cánh đồng; rồi đi tới đi lui, quay bên này, quay bên kia. Nếu chúng cày ruộng hoặc đắp đường ở xứ của chúng thì cũng đỡ! Nhưng thưa bà, không, tụi nhà binh đó không ích lợi gì cho ai cả! Dân chúng phải nuôi họ để họ học cách tản sát! Tôi chỉ là một người đàn bà thất học, nhưng thấy họ hủy hoại thể chất mà cứ dậm chân từ sáng tới tối như vậy, tôi tự nhủ: Khi có những người phát minh được biết bao nhiêu điều để giúp ích nhân loại, thì tại sao có những kẻ chịu khó nhọc để làm hại người như vậy! Nghĩ mà coi, có gì khả ố bằng cái việc giết người không, dù là giết tụi Phổ hay tụi Anh, tụi Ba Lan, tụi Pháp? Ai làm hại mình mà mình trả thù, thì mình có lỗi và chính phủ xử mình; nhưng khi người ta tận diệt con trai chúng ta như giết bầy thú, giết bằng súng, thì lại tốt vì ai giết được nhiều thì được thưởng huy chương. Thật là tôi không còn hiểu chút gì nữa.

Cornudet lớn tiếng:

- Chiến tranh là dã man khi người ta tấn công một xứ láng giềng yên ổn; nhưng nó là một bổn phận thiêng liêng khi người ta bảo vệ tổ quốc.

Mụ chủ quán cuối đầu xuống:

- Phải, khi tự vệ thì lại khác; nhưng tất cả những ông vua tự ý gây chiến, thì có nên đem giết cả đi không?

Cặp mắt Cornudet bừng lên:

- Hay! Một nữ công dân đáng khen lắm.

Lão Carré-Lamadon suy nghĩ lung. Mặc dù vốn tôn sùng những tướng tá nổi danh, lão thấy mụ nhà quê đó có lương tri, và lão nghĩ: bao nhiêu cánh tay ở không, tốn kém tai hại đó; bao nhiêu sức lực phải nuôi báo cô mà chẳng sản xuất được gì cả đó, nếu đem dùng vào những công trình kĩ  nghệ lớn lao cần hằng thế kỉ chưa xong, thì có phải là lợi cho quốc gia biết bao không.

Nhưng Loiseau đã đứng dậy, lại nói thầm với chủ quán. Lão này cười, ho, khạc; bụng bự của lão dội lên dội xuống,khi nghe Loiseau khôi hài, và lão hỏi mua sáu thùng nhỏ rượu vang, giao vào mùa xuân khi nào tụi Phổ đã đi hết.

Mới ăn xong, ai nấy đi ngủ liền vì mệt lữ.

Nhưng Loiseau vì đã để ý nhận xét, cho vợ đi nằm rồi, mới đi lại phía cửa lúc thì ghé tai lúc thì ghé mắt vào lỗ khoá để rán tìm ra được cái gì mà hắn gọi là “bí mật của hành lang”.

Khoảng một giờ sau hắn nghe có tiếng sột soạt, vội vàng ngó, và thấy Thùng Nước Lèo bận cái áo choàng bằng vải xanh viền ren trắng. Ả cầm một cái giá đèn, tiến về phía cuối hành lang, chỗ có con số lớn. Nhưng ở bên cạnh, một cánh cửa hé mở và vài phút sau, ả trở về thì Cornudet bận quần tuột dải đeo, đi theo ả. Họ nói nhỏ với nhau rồi ngừng lại. Ả như cương quyết ngăn không cho hắn vô phòng. Khổ tâm thay, Loiseau nghe không rõ gì cả; nhưng sau cùng họ lớn tiếng, và lão bắt được vài lời. Cornudet hăng hái năn nỉ.

Hắn bảo:

- Thì có làm sao? Cô điên hả?

Ả đáp giọng bực tức:

- Không được, ông ơi, có những lúc không làm những chuyện đó được; với lại, ở đây mà làm vậy thì xấu hổ lắm.

Hắn không hiểu, hỏi tại sao.

Ả càng tức, lớn tiếng:

- Tại sao ư? Ông không hiểu tại sao ư? Khi có tụi Phổ ở trong nhà, biết đâu chừng, ngay ở phòng bên cạnh?

Hắn làm thinh. Hạng đĩ đó mà cũng ái quốc, biết mắc cỡ, có kẻ thù ở bên thì không chịu ân ái. Thái độ đó chắc đã đánh thức cái phong thể suy nhược của hắn, vì sau đó, hắn chỉ ôm ả hôn thôi, rồi rón rén về phòng mình.

Loiseau bừng bừng lên, rời lỗ khoá, nhảy nhót trong phòng, hai chân đạp vào nhau, chụp cái nón vải vào đầu, giở tấm “ra” phủ bộ xương cứng ngắt của mụ vợ, hôn mụ, đánh thức mụ dậy hỏi:

- Yêu anh không cưng?

Rồi thì cả nhà hoá tĩnh mịch. Nhưng chẳng bao lâu từ một phía nào đó, không biết là từ hầm rượu hay từ cái trang, phát ra một tiếng ngáy mạnh, độc điệu, đều đều một tiếng ồ ồ và kéo dài, khừ khừ như tiếng nồi súp-de sôi sùng sục vậy.

Lão Follenvie đã ngũ.

⚝ ✽ ⚝

Vì đã định tám giờ sáng hôm sau khởi hành nên người ta họp nhau ở trong bếp; nhưng chiếc xe – mà cái mui vải đỡ cả một nóc tuyết – đứng trơ trọi giữa sân, không có ngựa, cũng không có người đánh xe. Người ta đi kiếm tên này ở chuồng ngựa, ở chỗ chứa rơm, ở chỗ để xe mà không thấy. Mọi người quyết định đi lùng khắp thị trấn. Họ ra chỗ công trường, mà phía sau là nhà thờ; hai bên là những căn nhà nhỏ có lính Phổ. Người lính thứ nhất họ thấy đương gọt khoai. Người thứ nhì ở xa hơn, đương cọ rửa một tiệm hớt tóc. Một người nữa râu kín tới mắt ôm một đứa nhỏ đương khóc, ru nó ở trên đùi để dỗ nó nín; và những mụ nhà quê to lớn mà chồng ở trong “quân đội chiến đấu” ra dấu cho những kẻ thắng trận ngoan ngoãn đó, bảo làm việc này việc khác: bửa củi, đổ nước nóng lên bánh, xay cà phê: một người lính giặt cả quần áo cho chủ nhà, một bà cụ tàn tật nữa.

Ông bá tước ngạc nhiên hỏi một người phụ thủ ở trong nhà thờ bước ra. Con chuột già của giáo đường này đáp:

- Tụi đó không độc ác đâu; người ta bảo chúng không phải là người Phổ. Chúng ở một xứ nào xa hơn nữa, tôi không biết ở đâu; chúng để vợ con lại ở nhà, chúng đâu có ham chiến tranh. Tôi chắc rằng vợ con chúng ở nhà cũng đương khóc chồng và cha; ở xứ họ cũng như xứ mình, dân chúng thật điêu đứng. Ở đây, lúc này, người ta chưa đến nỗi khổ lắm, vì tụi lính đó không làm hại gì ai cả mà chúng cũng làm mọi việc như ở nhà chúng vậy. Thưa ông, cùng nghèo khó với nhau cả thì phải giúp đỡ lẫn nhau chứ… Chỉ các ông bự mới gây chiến thôi.

Cornudet thấy kẻ thắng và kẻ bại mà lại hoà hợp thân mật với nhau, tỏ vẻ bất bình, rút về quán trọ, không ra đường nữa. Loiseau nói đùa: “Họ sinh sản lại”. Carré-Lamadon nghiêm trang hơn: “Họ sửa sang lại”. Nhưng vẫn không thấy tên đánh xe. Sau cùng người ta tìm thấy hắn trong một quán cà phê, đương thân mật nhậu nhẹt với tên lính thị vệ của viên sĩ quan. Ông bá tước lớn tiếng hỏi:

- Đã ra lệnh cho chú thắng xe hồi tám giờ sáng, chú quên ư?

- Phải, nhưng rồi sau tôi lại nhận được lệnh khác.

- Lệnh ra sao?

- Lệnh không được thắng xe.

- Ai ra lệnh đó cho chú?

- Viên chỉ huy Phổ.

- Tại sao?

- Tôi không biết. Lại mà hỏi ổng. Người ta cấm tôi thắng xe và tôi không thắng xe. Đó, có vậy thôi.

- Chính viên sĩ quan bảo chú như vậy?

- Không, chủ quán truyền lệnh xuống cho tôi.

- Bao giờ?

- Tối qua, khi tôi sắp đi ngủ.

Ba người đàn ông trở về, lo ngay ngáy.

Họ muốn gặp chủ quán Follenvie nhưng chị ở bảo ông chủ bị bệnh suyển, bao giờ cũng mười giờ sáng mới dậy. Và ông chủ còn cấm ngặt không được đánh thức trước giờ đó, trừ khi có hoả tai.

Họ lại muốn gặp viên sĩ quan, nhưng vô phương, mặc dù hắn cũng ở trong quán, vì chỉ có Follenvie là được phép gặp hắn về những vấn đề dân sự. Họ đành phải đợi vậy. Phụ nữ về phòng làm những việc lặt vặt hoặc nói chuyện tầm phào. Cornudet ngồi dưới lò sưởi cao, lửa cháy ngùn ngụt ở bếp. Hắn bảo đem xuống cho hắn một cái bàn nhỏ, một chai bia, rồi hắn đốt ống điếu. Ống điếu đó được bọn dân chủ coi trọng ngang với hắn, hình như người ta cho rằng nó đã phụng sự Cornudet tức thị cũng là phụng sự quốc gia.

Nó rất đẹp, bằng đá bọt, sái thuốc đóng đen, đen bằng răng chủ nhân nó, nhưng nó thơm, cong lại, bóng láng, tay hắn cầm quen rồi và có nó thì diện mạo của hắn mới đủ bộ. Hắn ngồi yên, lúc thì ngó ngọn lửa trong lò, lúc thì nhìn bọt rượu bia viền miệng ly; và mỗi lần hớp xong, thì hắn lại khoan khoái lùa những ngón tay dài, gầy vào mớ tóc nhờn của hắn, đồng thời hít những bọt rượu bám ở râu mép.

Loiseau lấy ý rằng ngồi hoài tê chân, nên đi chào khách tại các quán rượu nhỏ ở trong miền. Ông bá tước và lão chủ xưởng dệt nói chuyện chính trị, tiên đoán về tương lai nước Pháp. Một ông thì tin ở giòng họ D’Orléans, một ông thì tin ở một vị cứu quốc còn mai danh nào đó, một vị anh hùng sẽ xuất đầu lộ diện khi nào mọi sự đều thất vọng: một Du Guesclin, một Jeanne D’Arc biết đâu chừng? Hoặc một Nã Phá Luân đệ nhất khác nữa… À! Nếu hoàng tử mà không còn nhỏ như vậy! Cornudet nghe họ, mỉm cười, như người biết rõ vận mạng rồi. Khói thuốc ống điếu của hắn toả ra, thơm cả nhà bếp.

Đồng hồ gõ mười giờ, Follenvie hiện ra. Người ta vội vàng hỏi, thì lão chỉ lặp đi lặp lại lời này hai ba lần mà không thay đổi một tiếng:

- Sĩ quan bảo tôi như vầy: “Ông Follenvie, ông phải cấm người ta ngày mai thắng xe cho những hành khách đó. Không có lệnh của tôi thì họ không được đi. Nghe chưa? Có bấy nhiêu thôi”.

Rồi người ta muốn gặp mặt sĩ quan. Ông bá tước sai người mang lên cho hắn một tấm thiếp trên đó lão Carré-Lamadon đã ghi thêm tên và tất cả chức tước của mình. Sĩ quan Phổ nhắn rằng ăn cơm trưa xong, nghĩa là khoảng một giờ, hắn sẽ bằng lòng cho hai người đàn ông đó vô nói chuyện.

Các bà ló mặt ra, mặc dầu lo lắng nhưng ăn cũng được vài miếng. Thùng Nước Lèo có vẻ đau và bối rối lạ.

Họ vừa uống cà phê xong thì tên lính hầu vô gọi họ. Loiseau nhập bọn với hai người kia; người ta muốn lôi Cornudet đi theo nữa cho thêm phần long trọng nhưng hắn dương dương tuyên bố rằng nhất định không liên lạc gì với tụi Đức. Và hắn lại xuống bếp ngồi dưới lò sưởi, gọi một chai bia nữa.

Ba người đàn ông lên gác, được dẫn vô căn phòng đẹp nhất của quán. Viên sĩ quan nằm dài trên ghế bành, chân gác lên lò sưởi, hút một ống điếu dài bằng sứ, khoác một cái áo mặc ở trong nhà đỏ rực mà chắc hắn đã xoáy được trong căn phố bỏ trống của một nhà trọc phú quê mùa nào. Hắn đứng dậy, cũng không chào, không ngó họ. Đúng là thói thô bỉ của tụi quân thắng trận.

Một lúc sau hắn mới hỏi:

- Cạc ông muộng gì?

- Ông bá tước đáp:

- Thưa ông chúng tôi muốn khởi hành.

- Không.

- Ông cho phép chúng tôi hỏi lí do gì vậy?

- Lị do là tôi không muộng.

- Thưa ông, chúng tôi kính cẩn thưa ông hay rằng vị tướng tư lệnh của ông đã cho phép chúng tôi đi lại Dieppe; và tôi nghĩ rằng chúng tôi không làm cái gì để cho ông phải nghiêm khắc với chúng tôi như vậy?

- Tui không muộng. Có phậy thui. Thui cạc ông ti xuộng.

Cả ba cuối đầu chào rồi rút lui.

Buổi chiều hôm đó thật thảm hại. Không sao hiểu nổi tính tình bất thường của thằng cha Đức này cả; và mọi người đều có những ý nghĩ rất lạ lùng. Người ta họp ở trong bếp, bàn cãi hoài, tưởng tượng những việc khó tin. Hắn muốn giữ họ làm con tin chăng – nhưng để làm gì vậy? – Hay là dẫn đi làm tù binh? Hay là bắt cóc họ để đòi một số tiền chuộc rất lớn? Nghĩ tới điều đó, ai nấy kinh hoảng. Người nào giàu nhất lại càng sợ nhất, nghĩ rồi đây phải trút cả từng bao đầy vàng vào tay thằng săng đá [12] ngạo nghễ đó để chuộc mạng mình. Họ moi óc để tìm kiếm những lời nói dối sao cho xuôi tai, kiếm cách giấu của cải đi, làm bộ nghèo, rất nghèo. Loiseau tháo dây chuyền đồng hồ đeo tay giấu vào túi. Đêm xuống họ càng thêm lo. Đã lên đèn rồi mà còn phải đợi hai giờ nữa mới tới bữa cơm tối, mụ Loiseau đề nghị chơi vài ván bài để tiêu khiển. Mọi người biểu đồng tình. Chính Cornudet cũng lịch sự dụi ống điếu đi, ngồi vào bàn.

Ông bá tước trang bài, chia bài, Thùng Nước Lèo ăn ngay ván đầu, rồi ham chơi, người ta quên lo. Nhưng Cornudet thấy rằng cặp Loiseau thông đồng với nhau để ăn gian.

Sắp ăn cơm thì lão Follenvie bước vô, bảo, giọng đặc những đàm:

- Sĩ quan Phổ cho hỏi cô Elisabeth Rousset đã đổi ý chưa?

Thùng Nước Lèo tái mét, đứng yên; rồi thình lình tía tai, ả giận muốn nghẹt thở, không thốt được nữa. Sau cùng ả xổ ra:

- Ông lại bảo cái thằng Phổ bợm bãi, dơ dáy, thằng Phổ chó chết đó rằng không khi nào tôi bằng lòng; ông nghe rõ chưa, không khi nào, không khi nào, không khi nào!

Lão chủ quán mập đi ra. Người ta bu lại hỏi ả, năn nỉ ả hé cho biết có điều bí mật gì vậy, thằng Phổ đó gọi ả lên làm gì vậy. Mới đầu ả không chịu nói, sau giận quá, ả la lên:

- Nó muốn cái gì? Nó muốn, nó muốn ngủ với tôi! Mả mẹ nó!

Ai nấy đều rất bất bình nên không thấy chướng tai, Cornudet dằn mạnh cái ly lên bàn, làm bể ly. Tiếng bể đó là tiếng mạt sát quân săng đá thô bỉ, đê tiện kia, là một luồng phẫn nộ, một sự đoàn kết để đề kháng, để kêu gọi mỗi người hy sinh một chút cho ả. Ông bá tước vẻ ghê tởm tuyên bố rằng tụi đó cư xử y như bọn dã man thời ăn lông ở lỗ. Nhất là các bà, đối với Thùng Nước Lèo , có thái độ thương hại cương quyết mà âu yếm. Hai bà Phước tới bữa cơm mới ló ra, cuối xuống không nói gì cả.

Khi cơn giận đã nguôi, người ta mới ngồi ăn, nhưng nói ít: ai nấy nghĩ ngợi liên miên.

Các bà về phòng sớm; còn các ông vừa hút thuốc vừa đánh bài các-tê, người ta mời lão Follenvie chơi, để khéo léo hỏi lão xem có cách nào thắng sự kháng cự của tên Phổ đó không. Nhưng lão chỉ nghĩ đến ván bài, chẳng nghe gì cả, cũng chẳng đáp gì cả; luôn luôn nhắc:

- Chơi đi chứ, mời các cụ.

Lão chú ý tới nỗi quên cả khạc, thành thử có tiếng kéo nhị [13] trong ngực lão. Phổi lão khò khè đủ điệu của bệnh suyễn từ những âm trầm, đục cho tới những âm ồ ồ mà cao như tiếng gà trống mới tập gáy.

Khi mụ vợ buồn ngủ quá rồi lại nhắc lão, lão cũng không chịu bỏ cuộc. Rồi mụ phải lên lầu một mình, vì mụ là con người “ban mai”, hễ mặt trời mọc thì thức dậy; còn lão là con người “ban đêm”, luôn luôn sẵn sàng thức thâu canh với bạn bè. Lão lớn tiếng nói với theo: “Để ly lòng đỏ trứng với nước đường [14] ở gần lửa cho tôi nhé”. Khi người ta thấy không gợi được của hắn một chút gì cả, người ta tuyên bố tới giờ đi ngủ và ai về phòng nấy.