Chương 5
Trụ sở Phòng cảnh sát điều tra trung tâm nằm ở tầng sáu toà nhà Hội trường thành phố, nằm giữa Phòng điều tra án mạng thuộc Sở cảnh sát Los Angeles và Phòng hình sự thuộc văn phòng ủy viên công tố quận - cùng chung một khoảng không gian bên trong được ngăn cách bằng hai bàn làm việc kê đối diện nhau, hai tủ hồ sơ và một tấm bản đồ hạt Los Angeles. Trong phòng có cửa kính bằng thạch anh ghi dòng chữ PHÓ ỦY VIÊN CÔNG TỐ QUẬN ELLIS LOEW ngăn với buồng làm việc của trưởng phòng cảnh sát điều tra và ủy viên trưởng công tố quận - sếp của anh ta. Riêng khu vực dành cho Phòng điều tra án mạng thì không có gì ngăn cách. Đó là một khu phòng rộng có rất nhiều bàn làm việc, tường được làm bằng ván cách âm treo đầy những báo cáo tội phạm, lệnh truy nã và các giấy tờ ghi nhớ linh tinh khác. Bàn làm việc của Blanchard có đặt biển ghi TRUNG ÚY L. C. BLANCHARD. Đối diện với bàn của Blanchard chắc chắn là bàn làm việc dành cho tôi, và không ngần ngại tôi ngồi luôn vào chiếc ghế có ghi tên SỸ QUAN D. W. BLEICHERT trên gỗ, bên cạnh là điện thoại.
Lúc tôi đến chưa hề có ai xuất hiện, cả khu tầng sáu chỉ có mình tôi. Hơn bảy giờ sáng, trong lần ra mắt đầu tiên của công việc mới này tôi đã đi sớm. Đại uý Harwell gọi điện thông báo tôi phải chuẩn bị một bản báo cáo để đọc vào tám giờ sáng thứ Hai ngày 17 tháng 11 và ngày làm việc của tôi sẽ bắt đầu bằng việc đọc báo cáo các vụ án của tuần trước, đây cũng là công việc bắt buộc đối với tất cả các nhân viên thuộc Sở cảnh sát Los Angeles và Phòng hình sự thuộc văn phòng ủy viên công tố. Lee Blanchard và Ellis Loew sẽ thông báo vắn tắt tình hình cho tôi, sau đó chúng tôi sẽ bắt đầu bằng việc truy lùng các tên tôi phạm đang bỏ trốn.
Tầng sáu là nơi làm việc của các cơ quan quan trọng thuộc Sở cảnh sát Los Angeles: Phòng điều tra án mạng, Phòng quản lý hành chính, Phòng điều tra tội phạm cướp bóc và lừa đảo, ngoài ra còn có Đội cảnh sát điều tra trung tâm và Tổ thám tử trung tâm. Đó là nơi dành cho những cảnh sát ưu tú, những người có phẩm chất chính trị và những người hoạt bát, và bây giờ nó đã là nơi làm việc của tôi. Tôi mặc bộ áo khoác ngoài kiểu thể thao mới nhất, khẩu súng công vụ được treo cẩn thận trên dải dây vai mới tinh. Sau khi điều khoản số 5 kia được thông qua, tôi cũng được tăng 8 phần trăm lương. Công việc của tôi mới chỉ bắt đầu nhưng tôi cảm thấy đã sẵn sàng cho mọi thứ ngoại trừ việc phải diễn lại trận đấu.
7 giờ 40 phút, các nhân viên cảnh sát bắt đầu kéo đến, chuyện trò rôm rả về dư âm của ngày hôm trước, những số báo ra sáng thứ Hai và tất nhiên cả chuyện liên quan đến tôi, từ anh chàng nổi tiếng với nghệ thuật di chuyển trong thi đấu trở thành người ra những cú đòn chí mạng. Tôi cố tình ẩn nấp trong phòng của mình cho đến khi tất cả bọn họ kéo vào phòng họp chung. Sau đó tôi mới bước ra đi vào phòng có gắn biển PHÒNG HỌP CHUNG CỦA CÁC ĐIỀU TRA VIÊN, tôi mở cửa bước vào và sững sờ vì ngạc nhiên.
Tôi được mọi người chào đón theo kiểu trong quân đội. Gần bốn mươi sỹ quan mặc sắc phục đứng cạnh ghế của họ đồng thanh vỗ tay. Nhìn xuống phía trước tôi thấy tấm bảng ghi một con số rất lớn trên đó “8%!!!”. Lee Blanchard đứng cạnh tấm bảng cùng với một sỹ quan có khuôn mặt hơi xanh xao, có vẻ là người chỉ huy. Chàng Lửa cũng mỉm cười với tôi. Viên sỹ quan béo mập đi về phía bục phát biểu và dùng ngón tay gõ thử micrô. Tiếng vỗ tay ngớt đi và mọi người ngồi xuống. Tôi chọn một ghế còn trống ở cuối phòng ngồi xuống, trong khi viên sỹ quan chuẩn bị phát biểu thử micrô lần cuối.
“Xin giới thiệu Sỹ quan Bleichert của Phòng cảnh sát điều tra trung tâm. Còn đây là các sỹ quan thuộc Phòng điều tra án mạng, Phòng quản lý hành chính, Phòng điều tra các vụ gian lận và lừa đảo… Cậu đã biết trung uý Blanchard, ngài Loew, còn tôi là đại uý Jack Tierney. Cậu và Blanchard là những nhân vật quan trọng của chúng ta ngày hôm nay và tôi hy vọng các cậu hài lòng với sự đón tiếp của chúng tôi vì sẽ không có sự đón chào nào long trọng hơn thế này dành cho các cậu cho đến khi các cậu nghỉ hưu.”
Mọi người cười ồ. Tierney vỗ xuống bục để nhắc nhở mọi người và tiếp tục nói vào micrô. “Đủ rồi. Sau đây sẽ là báo cáo vắn tắt các vụ án của tuần trước kết thúc vào ngày 14 tháng 11 năm 1946. Xin mọi người hết sức chú ý, có rất nhiều chuyện thú vị dành cho chúng ta đấy.
“Trước tiên là ba vụ cướp quán rượu xảy ra vào các đêm 10/11, 11/11, và 13/11, tất cả đều xảy ra trong phạm vi mười khối nhà trên đường Jefferson thuộc khu Trường đại học. Hai thanh niên nghiện ma túy người gốc Cáp-ca-dơ có súng ngắn gây ra vụ này. Các điều tra viên thuộc University Station (Đội phụ trách khu vực Trường đại học) chưa tìm được manh mối nào về bọn chúng và đội trưởng đội điều tra ở đó muốn có một đội săn bắt cướp hoạt động liên tục 24/24 giờ trong khu vực. Trung tá Ruley sẽ gặp tôi vào lúc 9:00 để bàn việc này, còn tất cả mọi người cũng bắt tay vào việc đi, bọn cướp mà nghiện ngập như thế không hề dễ đối phó đâu.
“Chuyển qua phía Đông thành phố, hiện nay các cô ả hành nghề tự do đang ngang nhiên hoạt động ở các quán bar trong khu phố người Hoa. Bọn này thường đi khách ngay trong các xe hơi và chả thèm đếm xỉa gì đến các cô ả nằm dưới quyền điều hành của Mickey Cohen bấy lâu nay. Mickey Cohen không thích điều đó, bọn người Hoa cũng không thích vì các cô gái của Mickey thường đi khách tàu nhanh tràn cả sang khu vực Alameda - vốn do người Hoa kiểm soát. Sớm hay muộn thì chúng ta cũng phải giải quyết chuyện này, vì vậy tôi muốn lập lại trật tự hoạt động của các nhà hàng và bắt tất cả các ả gái gọi hoạt động ở khu phố người Hoa này. Cuối tuần đại uý Harwell sẽ triển khai một đội tuần tra ban đêm mười hai người, và tôi muốn các nhân viên của Phòng quản lý hành chính đi kiểm tra một lượt, thống kê cả những ả ăn mảnh ở khu trung tâm. Tôi muốn có hai điều tra viên thuộc Phòng cảnh sát điều tra trung tâm tham gia vào việc này cùng với Phòng quản lý hành chính. Thượng uý Pringle sẽ gặp tôi lúc 9:15.”
Tierney ngừng lời vươn vai; tôi nhìn quanh gian phòng và thấy hầu hết các sỹ quan đều đang chăm chú ghi chép vào sổ công tác của mình. Tôi tự trách mình đã không mang theo sổ. Viên đại uý lại vỗ tay kiểm tra micrô.
“Vụ sau đây chắc sẽ làm đại úy Jack vô cùng hài lòng. Ý tôi muốn nói tới vụ trộm ở phố Bunker Hill mà hai trung úy Vogel và Koenig đang phụ trách. Fritzie và Bill, các cậu đã đọc báo cáo về vụ này chưa?”
Hai người đàn ông ngồi cạnh nhau phía trên tôi vài hàng vội vàng lên tiếng. “Chưa, thưa đại uý.” Người thì lễ phép. “Chưa, thưa ngài.”
Tôi bắt đầu hình dung được thực sự công việc mà những người này đang làm - ấn tượng xấu về Johnny Vogel càng trở nên xấu xa hơn.
Tierney tiếp tục. “Tôi nghĩ hai cậu nên đọc ngay khi kết thúc buổi giao ban này. Những người không trực tiếp tham gia điều tra vụ án cũng cần lưu ý, các nhân viên kỹ thuật đã phát hiện ra dấu vân tay để lại ngay trên tủ đựng những đồ làm bằng bạc. Đó là dấu vân tay của người da trắng có tên là Coleman Walter Maynard, 31 tuổi, từng có hai tiền án, trong đó có một vụ hiếp dâm trẻ em.
“Chúng ta chưa liên lạc gì với anh ta cả. Anh ta đang sống ở tầng mười bốn của một khách sạn rất yên tĩnh trên đường Bonnie Brae, nhưng vào thời gian vụ án xảy ra, anh ta đã vội vàng chuyển đi. Khu vực Highland Park còn bốn vụ chưa giải quyết xong, tất cả đều liên quan đến bọn nhóc mới khoảng 8 tuổi. Có thể liên quan đến Maynard có thể không nhưng chúng ta vẫn phải đặt câu hỏi nghi ngờ. Fritzie, Bill, các cậu còn đang phụ trách vụ gì nữa không?”
Bill Koenig cúi gập người xuống cuốn sổ tay trước mặt; Fritz Vogel hắng giọng nói. “Chúng tôi đã kiểm tra các khách sạn trong phố. Chúng tôi đã tóm cổ vài tay trộm cắp móc túi nổi cộm.”
Tierney đập mạnh ngón tay vào chiếc micrô trước mặt. “Fritzie này, có phải mấy tên trộm cắp cộm cán mà cậu vừa nhắc đến đó là Jerry Katzenbach và Mike Purdy không?”
Vogel lúng túng cựa quậy trên ghế. “Vâng, thưa sếp.”
“Thế bọn chúng có tố cáo lẫn nhau không?”
“Ah… có, thưa sếp.”
Tierney liếc mắt nhìn lên. “Tôi sẽ nói thêm cho các cậu những chuyện các cậu còn chưa rõ về Jerry và Mike. Bọn chúng là hai tên đồng tính cùng sống chung trong căn nhà của mẹ Jerry ở khu Eagle Rock. Bọn chúng ngủ với nhau từ rất lâu rồi, nhưng lại luôn mồm cãi nhau, nói xấu và tố cáo nhau. Hậu quả là cả hai tên đều phải bóc lịch trong nhà giam của hạt. Bọn chúng còn chỉ điểm những tay băng nhóm xã hội đen, quan hệ nhăng nhít với những tên ẻo lả như đàn bà và được giảm án vì có công chỉ điểm. Những chuyện như thế này xưa lắm rồi và trẻ con cũng biết. Fritzie, cậu còn nắm được gì không?”
Cả phòng họp cười ồ. Bill Koenig đứng dậy nắm chặt tay nhìn ngó xem những ai đang cười bọn họ. Fritz Vogel túm cổ tay áo cậu ta kéo xuống và nói. “Thưa sếp, chúng tôi đang làm một số việc cho sếp Loew, chúng tôi phải triệu tập các nhân chứng đến cho anh ấy.”
Vẻ mặt tái xanh từ đầu cuộc họp đến giờ của Tierney đột nhiên đỏ lên. “Fritzie, tôi mới là chỉ huy thám tử chứ không phải Loew. Trung uý Blanchard và sỹ quan Bleichert làm việc dưới quyền của Loew, còn cậu và trung uý Koenig thì không đâu. Chấm dứt ngay những việc các cậu làm cho Loew, bỏ mấy tên móc túi đó lại và đưa Coleman Walter Maynard về đây ngay cho tôi trước khi hắn biến thêm vài đứa trẻ nữa thành nạn nhân của những vụ cưỡng hiếp. Có thông tin về những người liên quan đến hắn trên bảng thông tin của Phòng, và tôi nghĩ tất cả các sỹ quan nên xem qua các thông tin này. Có thể hiện tại Maynard còn đang đi lại với họ đấy.”
Tôi thấy Lee Blanchard rời khỏi phòng bằng cửa sau. Tierney kiểm tra lại tập giấy trước mặt và nói tiếp. “Những thông tin này Green cho rằng mọi người sẽ quan tâm. Ba tuần qua có kẻ nào đó liên tục ném những con mèo đã bị chặt đầu vào nghĩa trang Santa Monica và nghĩa trang Gower. Đội cảnh sát điều tra phụ trách khu vực Hollywood đã nhận được năm báo cáo về vấn đề này. Theo thượng úy Davis phụ trách đường số 77, đó là biểu hiện hành động của các băng nhóm người da đen. Hầu như tất cả những con mèo kia đều bị ném vào đó vào tối thứ Ba, trong khi đó các sân patanh ở Hollywood đều mở cửa vào các ngày thứ Ba. Có thể có sự liên quan gì đó. Các cậu phải hỏi người xung quanh, những cơ sở chuyên cung cấp tin cho chúng ta sau đó báo cáo toàn bộ lại cho trung úy Hollander của Đội Hollywood. Bây giờ là thông tin về các vụ giết người. Thế nào Russ?”
Một người đàn ông dáng cao, tóc xám trong bộ sắc phục trắng tinh bước lên bục phát biểu; đại uý Jack quay xuống chiếc ghế gần nhất ngồi. Nhìn phong thái của anh ta giống quan toà hay luật sư hơn là cảnh sát. Viên sỹ quan ngồi cạnh tôi thì thầm. “Đó là thượng úy Millard, người đứng thứ hai ở Phòng án mạng nhưng lại là ông chủ thực sự. Anh ấy rất nhẹ nhàng.” Tôi gật đầu và lắng nghe viên thượng úy có giọng nói nhẹ nhàng lên tiếng.
“… và nhân viên điều tra vụ giết người và tự tử Russo-Nickerson. Sở đang thụ lý điều tra vụ đâm chết người bỏ trốn xảy ra ở ngã tư giữa đường Pico và đường Figueroa vào ngày 10/11, chúng ta đã xác định được chiếc sedan hiệu La Salle sản xuất năm 1939 bỏ lại. Chủ sở hữu đăng ký là một người đàn ông gốc Mêhicô tên là Luiz Cruz, 42 tuổi, sống ở số 1349 đường Alta Loma Vista, phía Nam khu Pasadena. Cruz từng hai lần bị tù - cả hai lần đều liên quan đến tội cướp bóc. Hắn mất tích đã lâu và vợ hắn nói rằng chiếc La Salle đã bị đánh cắp hồi tháng 9. Thủ phạm là một người anh em họ với Cruz tên là Armando Villareal, 39 tuổi, cũng đã mất tích. Harry Sears và tôi đã nghe ngóng được vài điều về vụ này, nhân chứng cho biết có hai người đàn ông người gốc Mêhicô ngồi trên xe. Cậu đã có thêm thông tin gì chưa Harry?”
Một người đàn ông lùn mập, râu để bờm xờm đứng dậy quay mặt xuống phía dưới căn phòng. Anh ta nuốt nước bọt liên tục mấy lần để trấn tĩnh mới lẩm bẩm được vài câu. “Vợ của C…ruz đổ t…ội cho người anh em họ. Không có thông tin nào cho thấy chiếc xe đó bị đánh cắp cả, người hàng xóm còn cho biết bà vợ còn muốn người anh em họ của Cruz vi phạm cam kết khi được tạm tha để Cruz không phát hiện ra vấn đề.”
Harry Sears ngồi xuống rất nhanh như trút được gánh nặng. Millard mỉm cười với cậu ta và nói tiếp. “Cảm ơn cậu. Thưa các vị, Cruz và Villareal hiện là hai tên tội phạm bỏ trốn của bang cần được ưu tiên điều tra tung tích. Thông báo và lệnh truy nã khẩn cấp đã được ban hành và sau đây là điểm mấu chốt của câu chuyện: cả hai tên này đều nghiện rượu nặng và đã bị phạt hơn trăm lần. Bọn say xỉn đâm chết người rồi bỏ trốn này đáng bị trừng phạt, vì vậy chúng ta phải tóm cổ bằng được bọn chúng. Đại uý còn gì muốn nói không?”
Tierney đứng dậy hét lớn. “Giải tán!” Các sỹ quan cảnh sát lũ lượt kéo đến bắt tay chúc mừng tôi rồi bỏ đi. Đến khi trong phòng đã vắng người, Ellis Loew tiến đến đưa cho tôi chiếc chìa khoá có biểu tượng của hội Phi Beta Kappa[19].
“Lẽ ra cậu không nên thi đấu với cậu ta.” Ellis Loew vừa lắc chiếc chìa khoá trên tay vừa nói. “Dù gì thì cậu cũng vẫn là ứng cử viên sáng giá nhất.”
Tôi nhìn thẳng vào mắt anh ta đáp lại. “Điều khoản số 5 đã được thông qua rồi, thưa ngài Loew.”
“Đúng, đúng thế. Nhưng một số nhà bảo trợ cho cậu lại mất tiền. Cần phải tỏ ra khéo léo hơn ở môi trường này, sỹ quan trẻ ạ. Đừng đánh mất cơ hội như cách cậu đã làm trong trận đấu.”
“Khỉ gió, cậu đã sẵn sàng chưa?” Giọng nói của Blanchard rất đúng lúc. Tôi quay ra đi với cậu ta trước khi có cơ hội làm thêm việc gì đó mà tôi cũng không biết là đúng hay sai nữa.
Chúng tôi cùng đi xuống phía Nam thành phố trên chiếc xe dân sự của Blanchard, đó là mẫu xe do hãng Ford sản xuất năm 1940. Lee nói chuyện công việc trong khi tôi ngồi nhìn ra ngoài cửa sổ ngắm đường phố Los Angeles.
“… công việc chủ yếu của chúng ta là truy bắt những tên bị truy nã khẩn cấp nhưng đôi khi chúng ta cùng phải tìm nhân chứng đưa về cho Loew. Việc này không thường xuyên lắm vì anh ta thường sai Fritzie Vogel cùng với Bill Koenig làm những công việc linh tinh đó. Hai thằng chết tiệt. Tuy nhiên, cũng có những lúc chúng ta chả có việc gì để làm cả và những khi đó chúng ta sẽ phải sang các đội khác kiểm tra can phạm chờ ngày xét xử. Đội nào thuộc lực lượng cảnh sát Los Angeles cũng có hai người phụ trách điều tra nhưng thời gian đối với họ chả có giá trị gì, vì vậy chúng ta phải giúp đỡ họ. Cũng có khi, chẳng hạn như ngày hôm nay, cậu nghe tin trong buổi giao ban hoặc nhận được lệnh phải làm việc gì đó khẩn cấp đột xuất. Nếu công việc thực sự ít thì chúng ta lại phải nai lưng ra mà phục vụ bọn quan chức vô lương tâm kia. Mỗi lần như thế chúng ta được trả thêm ba đô la, thật không gì bủn xỉn hơn. Số tiền thực sự thì phải đi vào đúng chỗ của nó. Có thể nhắm mắt cũng đọc ra được một loạt cái tên H.J. Caruso Dodge hay Yeakel Brothers Olds, những con người có lẽ sẽ chả bao giờ phải tìm đến cơ quan tín dụng. Cậu có hỏi gì không?”
Tôi lưỡng lự. “Tại sao cậu lại đi lại với Kay Lake? Cô ấy là con người thế nào?”
“Ah. Thế tại sao cậu lại từ bỏ sự nghiệp thi đấu mà gia nhập lực lượng cảnh sát? Đừng nói với tớ rằng đó là bởi vì em gái cậu bị mất tích và việc truy bắt những tên tội phạm kia làm cậu cảm thấy mình sống có kỷ cương hơn. Tớ đã nghe chuyện đó quá nhiều rồi và tớ không muốn nó được nhắc lại nữa.”
Lee vẫn chú ý nhìn phía trước trong khi lái xe. “Cậu có chị em gái gì không? Hoặc có trẻ con hàng xóm nào mà cậu thực sự quan tâm?”
Tôi lắc đầu. “Gia đình tớ chết hết rồi.”
“Laurie cũng vậy. Khi đó tớ mới mười lăm tuổi. Bố mẹ tớ đổ không biết bao nhiêu tiền vào các hoạt động thám tử và truyền đơn để tìm nó nhưng tớ biết sẽ chả đi đến đâu. Từ đó lúc nào tớ cũng tưởng tượng ra hình ảnh nó lớn lên. Có những lúc tớ cảm thấy vô cùng đau đớn vì vậy tớ đã hình dung sai về nó. Tớ biết như thế là không phải nhưng không hiểu sao tớ vẫn cảm thấy thoải mái hơn khi nghĩ đến điều đó.”
Tôi nói. “Xin lỗi cậu.”
Lee khuých nhẹ tôi. “Đừng như vậy bởi vì cậu hoàn toàn đúng. Tớ bỏ sự nghiệp thi đấu để gia nhập lực lượng cảnh sát là vì tức giận Benny Siegel. Ông ta mua hợp đồng của tớ, đe doạ ông bầu cũ của tớ và hứa sẽ cho tớ được chụp hình chung với Joe Louis nếu tớ đồng ý vờ thua hai trận cho ông ta. Tớ từ chối và gia nhập cảnh sát vì tớ biết dân xã hội đen Do Thái như bọn chúng có một quy định là không được động vào người của cảnh sát. Thực sự tớ vẫn sợ bị hắn giết cho nên khi nghe tin bọn cướp nhà băng Boulevard-Citizens có lấy đi một ít tiền của Benny cùng với số tiền của ngân hàng. Tớ đã lùng sục rất kỹ cho đến khi thấy Bobby De Witt xuất hiện trên một đĩa hát. Tớ cho Benny xem hồ sơ về hắn ta. Phát hiện ra hắn tàng trữ chất ma túy, tớ liền nộp hắn cho cảnh sát Hollywood. Bây giờ thì Benny là bạn của tớ rồi và rất hay cho quà tớ. Cậu còn muốn hỏi gì không?”
Tôi quyết định chưa vội hỏi về Kay Lake. Đi kiểm tra một lượt khu phố tôi mới phát hiện ra đã có khá nhiều những ngôi nhà nhỏ gọn gàng được xây dựng. Câu chuyện về Bugsy Siegel vẫn đeo đẳng khiến tôi miên man suy nghĩ cho đến khi Lee Blanchard đi chậm lại và tấp xe vào bãi đậu.
Tôi kêu lên, “Có chuyện gì vậy?”
Lee đáp lại, “Đây là nơi chuyên để cho tớ thoả mãn nhu cầu cá nhân của mình. Cậu còn nhớ thằng hiếp dâm trẻ em mà chúng ta vừa nghe không?”
“Có chứ.”
“Tierney nói còn bốn tên thú dâm nữa chưa tóm cổ được ở khu Highland Park đúng không?”
“Đúng.”
“Và anh ấy còn nói ở hiện trường vụ hiếp dâm có tìm thấy một cuốn sổ nhỏ?”
“Đúng. Nhưng…”
“Bucky này, tớ đã đọc cuốn sổ đó và thấy gã Bruno Albanese rất đáng ngờ. Hắn làm cho nhà hàng kiểu Mêhicô trong khu Highland Park. Tớ đã gọi cho các cảnh sát phụ trách khu đó lấy địa chỉ nơi xảy ra các vụ hành hung, hai trong số đó xảy ra cách nơi ở của gã Bruno kia chỉ khoảng nửa dặm. Đó là nhà của hắn, các báo cáo và điều tra cho thấy hắn còn nợ rất nhiều vé phạt vi phạm luật giao thông, đã có giấy triệu tập của toà án. Cậu có muốn nghe nốt phần còn lại của câu chuyện không?”
Tôi ra khỏi xe và đi ngang qua khoảng sân ướt mọc đầy cỏ vẫn còn in hình rất nhiều vết chân chó. Lee đuổi kịp tôi khi chúng tôi bước vào đến cổng và bấm chuông; tiếng chó sủa ầm ĩ phát ra từ bên trong.
Cửa mở, tiếng chó sủa càng to và tôi thấy có một phụ nữ ăn mặc nhếch nhác bước ra. Tôi hét lớn: “Cảnh sát đây!” Lee bước một chân vào trong, tôi lách vào tháo xích. Lee đẩy cửa và người phụ nữ vội vàng chạy ra cổng. Tôi bước vào nhưng trong đầu vẫn phân vân không biết con chó nằm ở đâu. Tôi đang để ý căn phòng khách tiều tụy thì con chó to lớn tai cụp nhảy bổ vào tôi miệng há hốc. Tôi loạng choạng lùi lại và con vật bắt đầu liếm mặt tôi.
Chúng tôi đứng đó như đôi bạn trong khi hai chân trước của con chó vẫn nằm trên vai tôi. Chiếc lưỡi to lớn của nó liên tục liếm láp. Người phụ nữ quát con chó bằng thứ giọng rất khó nghe, “Ngoan nào, Hacksaw! Ngoan đi!”
Tôi túm chân con chó từ từ hạ xuống nền nhà trong khi nó vẫn để ý tôi. Lee đang nói chuyện với người phụ nữ và cho cô ta xem mấy bức ảnh. Người phụ nữ lắc đầu ra hiệu không biết, hai tay đặt trên hông có vẻ giận dữ. Tôi bước đến chỗ họ mặc dù con Hacksaw vẫn quanh quẩn dưới chân.
Lee nói: “Cô Albanese, đây là sỹ quan cao cấp của chúng tôi. Cô có thể nói lại với anh ấy những gì cô vừa nói với tôi được không?”
Cô ta lắc tay trong khi con Hacksaw quay sang quấn chân Lee. Tôi nói: “Chồng cô hiện đang ở đâu? Chúng tôi không có nhiều thời gian đâu.”
“Tôi đã nói với anh ta rồi và tôi sẽ nói với anh! Bruno đang phải trả nợ cho xã hội. Anh ấy không hề giao du với bọn tội phạm và tôi cũng không biết người nào có tên là Coleman cả! Anh ấy là người làm ăn! Hai tuần trước anh ấy nghỉ việc ở nhà hàng Mêhicô và tôi không biết bây giờ anh ấy ở đâu. Hacksaw, ngoan nào!”
Tôi quay sang nhìn viên sỹ quan cao cấp thực sự đang đi lại đùa nghịch với con chó nặng tới hai trăm pound. “Cô cần nhớ chồng cô là tay chuyên buôn bán đồ ăn cắp khét tiếng và có không ít thành tích vi phạm luật giao thông. Tôi có cả một danh sách các vụ buôn bán đó, và nếu cô không ngay lập tức nói cho chúng tôi biết hắn đang ở đâu, tôi sẽ lục tung ngôi nhà này lên cho đến khi tìm ra chứng cớ phạm tội của hắn. Sau đó tôi sẽ bắn cô vì tội nhận đồ ăn cắp. Cô thích thế nào?”
Cô nàng ngồi kẹp tay vào giữa hai đùi; Lee đè con chó nằm bẹp xuống nền nhà và nói: “Có những người không thích được đối xử lịch sự. Cô có biết trò cò quay của Nga như thế nào không?”
Người phụ nữ bĩu môi: “Tôi không phải đứa câm và Bruno cũng đã làm xong phận sự của anh ấy với xã hội rồi!”
Lee rút khẩu súng ngắn ra khỏi bao kiểm tra nòng súng và khoá chốt an toàn. “Còn một viên đạn trong khẩu súng này. Mày có nghĩ là mày gặp may không Hacksaw?”
Hacksaw lên tiếng, “Ú…..c” trong khi cô chủ vội vã: “Anh không được làm thế.”
Lee dí khẩu súng ngắn vào thái dương con chó và kéo cò. Tiếng búa đập vào kim hoả nghe rõ mồn một, cô nàng Albanese thở phào vẻ mặt xanh xao; Lee nói tiếp: “Còn năm phát nữa, chuẩn bị mà lên thiên đường của chúng mày đi Hacksaw.”
Lee kéo cò lần thứ hai; tôi phải cố nhịn cười khi thấy tiếng kim loại kêu trong khi Hacksaw vẫn nằm liếm của quý, dường như nó chả quan tâm đến mạng sống của mình. Cô Albanese nhắm chặt mắt cầu nguyện. Lee nói tiếp: “Đến lúc đi gặp đấng tạo hoá của mày rồi.”
Người phụ nữ hốt hoảng kêu lên, “Không, không được. Bruno đang phục vụ quầy bar ở Silverlake! Quán Buena Vista![20] Xin đừng động đến nó!”
Lee cho tôi xem băng đạn trống không và cả hai chúng tôi quay ra xe trong khi tiếng con Hacksaw vẫn vui vẻ cất lên phía sau. Tôi cười thầm trên suốt đoạn đường đến Silverlake.
Quán bar Buena Vista là kiểu quán bar và đồ nướng mang phong cách dân dã của Tây Ban Nha. Mặc dù còn sáu tuần nữa mới đến lễ Noel nhưng ở đây đã trang trí để chuẩn bị chào đón. Nội thất bên trong nhà toàn làm bằng gỗ màu tối. Ngay phía cuối lối đi vào là một quầy bar dài làm bằng gỗ sồi, phía sau có một người đàn ông đang đứng lau ly. Lee quay phù hiệu cảnh sát của mình về phía anh ta và lên tiếng, “Ông là Bruno Albanese?” Người đàn ông chỉ tay về phía sau nhà hàng, mắt không dám nhìn thẳng vào chúng tôi.
Phía sau gian nướng rất chật hẹp với những lều nhỏ ánh sáng lờ mờ. Chúng tôi đến căn lều cuối cùng và cũng là căn lều duy nhất có người ngồi. Đó là một người đàn ông gầy, da hơi ngăm đen đang ngồi ăn ngấu nghiến một đĩa đầy đậu, tương ớt và món trứng Mêhicô.
Lee đập mạnh tay xuống bàn quát: “Cảnh sát đây! Ông có phải là Bruno Albanese không?”
Người đàn ông ngước nhìn lên có vẻ ngạc nhiên, “Ai? Tôi sao?”
Lee bước hẳn vào trong lều và chỉ tấm thảm thêu treo trên tường: “Nếu không thì đó chỉ có thể là con lợn đang ăn. Đừng nhiều lời nữa, bọn tao không muốn nhìn mày ăn đâu. Mày đã có lệnh gọi của toà nhưng tao và anh bạn tao đây thích con chó của mày nên chúng tao sẽ không đưa mày đến đó. Như vậy là lịch sự rồi chứ?”
Bruno Albanese ợ hơi lên tiếng: “Ý các anh muốn nói là các anh cần có thông tin đáng tin cậy?”
Lee nói: “Đừng giở trò trẻ con,” và dằn mạnh những tấm hình chụp Maynard lên bàn. “Nó là thằng chuyên chôm đồ và tao biết nó bán cho mày. Nhưng bọn tao không quan tâm đến chuyện đó mà chỉ muốn biết nó đang ở đâu.”
Albanese nhìn những tấm hình và lại ợ hơi: “Tôi chưa bao giờ nhìn thấy người này cả. Hình như ai đó đã chỉ sai cho các anh đến gặp tôi.”
Lee nhìn tôi thở dài và nói: “Có những người không muốn được đối xử lịch sự,” nói đoạn cậu ta túm cổ áo và đầu Bruno Albanese dập xuống đĩa thức ăn. Anh ta giãy giụa khua chân tay trong khi mỡ bám đầy miệng, mũi và mắt. Lee vẫn giữ chặt anh ta trong tư thế đó và lên tiếng: “Bruno Albanese là người tốt. Anh ta là người chồng, người cha tốt của đứa con tên là Hacksaw. Anh ta không tỏ thái độ hợp tác với cảnh sát, nhưng nói gì thì nói người ta cũng không thể cầu toàn ở anh ta được. Bạn này, cậu có nghĩ cần phải tiếp tục duy trì cuộc sống đáng bỏ đi của tên này không?”
Tiếng Albanese ùng ục trong cổ họng, máu bắt đầu chảy xuống món trứng Mêhicô của anh ta. “Khoan dung với cậu ta một chút đi,” tôi nói. “Dù là dân chuyên buôn bán đồ ăn cắp nhưng cũng nên cho cậu ta bữa tối cuối cùng.”
Lee nói: “Được rồi,” và thả Albanese ra.
Anh ta nhổm dậy hít thở và gạt thức ăn ra khỏi mặt trong khi máu vẫn chảy ròng ròng. Một lúc sau Albanese mới thì thào: “Khu căn hộ Versailles nằm ở góc đường số 6 và đường Saint Andrews, phòng 803. Xin đừng tiết lộ là tôi nói ra điều này!”
Lee nói: “Chúc ngon miệng nhé.”
Tôi tiếp lời: “Cậu là người tốt.”
Chúng tôi lao nhanh ra khỏi nhà hàng và vội vàng đến góc đường số 6 và đường Saint Andrews.
Lỗ bỏ thư ở hành lang khu căn hộ Versailles có ghi tên Maynard Coleman ở căn hộ 803. Chúng tôi đi thang máy lên tầng tám và bấm chuông; tôi ghé sát tai vào cửa nhưng không nghe thấy gì bên trong. Lee móc ra một chùm chìa khoá và bắt đầu thử cho đến khi tôi nghe thấy có tiếng khoá mở vang lên.
Chúng tôi bước vào căn hộ tối tăm chật hẹp. Lee với tay bật đèn và chúng tôi thấy ngay một chiếc giường gấp bên trên vứt đầy những con thú nhồi bông. Có mùi mồ hôi và mùi thuốc gì đó mà tôi không thể nhận ra được. Tôi nheo mũi và Lee giải thích: “Mùi mỡ vazơlin và hormon chữa viêm và dị ứng. Bọn chúng dùng thứ đó để bôi trơn. Tớ định giao lại vụ Maynard này cho đại uý Jack nhưng bây giờ thì tớ quyết định sẽ giao lại cho Vogel và Koenig.”
Tôi bước đến chỗ giường kiểm tra mấy con thú; tất cả đều có tóc trẻ con bám ở chân. Tôi run rẩy nhìn Lee. Mặt cậu ta cũng trắng bệch. Chúng tôi nhìn nhau và lặng lẽ rời khỏi phòng. Ra đến vỉa hè tôi lên tiếng: “Chúng ta làm gì bây giờ?”
Giọng Lee vẫn còn run: “Tìm điện thoại và gọi cho Cục quản lý ôtô và môtô. Cung cấp cho họ tên và địa chỉ này, hỏi xem họ có đăng ký cho ai trong tháng qua không. Nếu có thì yêu cầu họ mô tả xe và biển số. Tớ sẽ gặp cậu ở ngoài xe.”
Tôi chạy về phía góc đường tìm bốt điện thoại và quay số của Cục quản lý ô tô và môtô. Có tiếng nhân viên trả lời: “Xin lỗi, ai gọi đến?”
“Tôi là sỹ quan Bleichert thuộc Sở cảnh sát Los Angeles phù hiệu số 1611. Tôi muốn tìm hiểu thông tin về người có tên Maynard Coleman hay Coleman Maynard gì đó ở số 643 South Saint Andrews, Los Angeles. Đăng ký gần đây thôi.”
“Xin chờ một lát.”
Tôi chờ đợi, trên tay đã sẵn sàng sổ và bút nhưng trong đầu vẫn luẩn quẩn ý nghĩ về những con thú nhồi bông. Năm phút sau mới có tín hiệu: “Có kết quả.”
“Nhanh lên.”
“Xe Sedan đăng ký ở De Soto, sản xuất năm 1938, màu xanh sẫm, giấy đăng ký B như chữ b trong từ ‘boy’, V như chữ v trong từ ‘victor’, 1-4-3-2, nhắc lại B như chữ b trong từ ‘boy’…”
Tôi ghi lại tất cả các thông tin, gác máy và chạy về xe. Lee đang ngồi xem bản đồ các đường phố ở Los Angeles. Tôi nói: “Có đây rồi.”
Lee gấp tấm bản đồ: “Có thể hắn là kẻ chuyên đi rình mò ở các trường học. Gần khu Highland Park có vài trường tiểu học, còn quanh đây thì có tổng số khoảng sáu trường. Tớ đã gọi điện cho cảnh sát Hollywood và cảnh sát Wilshire thông báo tất cả những gì chúng ta hiện có với họ. Xe tuần tra của cảnh sát đã được điều động tới tất cả các trường học để nhận dạng Maynard. Cục quản lý ô tô và môtô có thông tin gì không?”
Tôi chỉ mảnh giấy vừa ghi cho Lee; cậu ta vội vàng chộp máy bộ đàm quay số gọi đi. Không hề có tín hiệu gì, một lát sau cả hai chiều liên lạc đều bị mất. Lee bực tức chửi thề: “Khỉ gió. Đi thôi.”
Chúng tôi đi kiểm tra một loạt các trường tiểu học ở Hollywood và quận Wilshire. Lee lái xe, tôi ngồi quan sát các khu đậu xe và sân trường tìm chiếc Sedan biển đăng ký ở De Soto màu xanh sẫm và những tên đi tha thẩn. Trên đường đi chúng tôi có dừng lại một lần ở bốt điện thoại ven đường, Lee gọi điện cho cảnh sát Hollywood và cảnh sát Wilshire thông báo những thông tin tôi vừa có được từ Cục quản lý ôtô và môtô để họ thông báo lại với các xe tuần tra và các chốt theo dõi.
Trên suốt chặng đường hầu như chúng tôi không chuyện trò gì. Lee ôm chặt vô lăng, chăm chú vào công việc lái xe. Chỉ có một lần duy nhất vẻ mặt cậu ta thay đổi đó là khi chúng tôi cùng dừng lại kiểm tra một sân chơi dành cho trẻ em. Sau đó ánh mặt cậu ta lại lập tức trở nên u ám, hai tay run rẩy. Có lúc tôi thầm nghĩ có thể cậu ta sẽ bật khóc..
Nhưng Lee vẫn im lặng điều khiển xe, dường như việc trở lại với dòng xe cộ ngoài đường giúp cậu ta bình tĩnh lại đôi chút. Có cảm giác cậu ta ý thức rất rõ về trách nhiệm thực sự của một người đàn ông trước khi gia nhập lực lượng cảnh sát.
Hơn ba giờ chiều, chúng tôi cùng đi về hướng Nam đến trường Van Ness, đó là tên gọi tắt của trường tiểu học Đại lộ Van Ness. Khi chúng tôi còn cách trường học một dãy nhà thì đột nhiên chiếc Sedan màu xanh sẫm mang biển số BV 1432 xuất hiện từ hướng đối diện và tấp vào bãi đậu xe phía trước sân trượt patanh.
“Hắn kia rồi. Chỗ nhà trượt patanh Polar Palace.” Tôi kêu lên.
Ngay lập tức Lee đánh tay lái cho xe quay thành hình chữ u tấp vào vỉa hè đối diện với chỗ đậu xe bên kia đường. Maynard đang khoá chiếc xe mang biển số De Soto mắt nhìn chằm chằm một nhóm học sinh đang chạy vào sân trên vai khoác ván trượt.
“Nhanh lên.” Tôi giục.
Lee nói: “Cậu tóm hắn đi. Tớ sẽ không kiềm chế được đâu. Chú ý tránh xa bọn trẻ, và nếu hắn có bất kỳ hành động nào chống lại thì giết ngay lập tức.”
Những mật thám hoạt động như chúng tôi thế này quả là khác hoàn toàn với những gì mà sách báo thường nhắc tới. “Đừng quá kích động như thế. Đây là…”
Lee đẩy tôi ra khỏi xe. “Đi tóm hắn đi. Khỉ gió! Đây không phải là trường học. Cậu xuống tóm hắn ngay!”
Tôi đi ngang qua trường Van Ness về phía chỗ bãi đậu xe, vừa lúc đó thì Maynard cũng bước vào trong khu nhà trượt patanh Polar Palace cùng với một đám trẻ con. Tôi chạy lên chỗ cửa trước mở ra nhưng trong đầu vẫn phải cố nhắc nhở mình bình tĩnh, thận trọng.
Khí lạnh làm tôi giật mình, ánh sáng phản chiếu từ sân băng làm tôi loá mắt. Trấn tĩnh trở lại, tôi nhìn quanh và thấy mô hình vịnh Fio[21] làm bằng giấy bồi[22] cùng với mô hình chiếc lều tuyết (của người Etkimô). Vài đứa trẻ đang chạy lòng vòng trên băng, một nhóm khác đang la hét trước mô hình một con gấu trắng Bắc cực nhồi bông khổng lồ đứng trên hai chân sau ở ngay lối ra phía sau khu nhà. Không hề thấy có bóng dáng người lớn ở đây. Ý nghĩ chợt loé lên trong đầu tôi: Phải kiểm tra ngay phòng dành cho nam.
Có biển chỉ xuống tầng hầm khu nhà. Tôi vừa đi xuống được nửa đường thì Maynard đi lên, trên tay vẫn cầm một con thỏ nhồi bông nhỏ. Quang cảnh căn phòng 803 tái hiện trong đầu tôi vừa đúng lúc hắn đi sát đến. Tôi quát: “Cảnh sát đây, mày đã bị bắt,” và tôi giơ khẩu 38[23] của mình lên.
Tên hiếp dâm giơ hai tay lên khiến con thú rơi xuống. Tôi xô hắn vào tường, tìm vũ khí và trói còng hai tay hắn ra sau. Đầu tôi nóng bừng khi đẩy hắn đi lên cầu thang, có cảm giác như ai đó đang đấm thùm thụp vào hai chân tôi. “Không được động đến cha tôi! Các ông không được động đến cha tôi!”
Người lao vào đấm chân tôi là một cậu bé mặc quần đùi và áo không tay. Phải một lúc sau tôi mới nhận ra đó là cậu con trai của tên hiếp dâm này. Thằng bé ôm chặt lấy lưng tôi kêu gào: “Không được bắt cha tôi”. Hắn nói câu từ biệt rất to với đứa con trai của mình và bảo nó đi tìm người giữ trẻ; tôi vẫn đẩy hắn đi lên qua khu nhà trượt patanh, họng súng của tôi lăm lăm trên đầu hắn, tay kia tôi đẩy thằng bé phía sau đang cố sức kêu gào ra. Một đám đông đã kịp thời tụ họp xung quanh. Tôi hét lên: “Cảnh sát đây!” để họ nhường đường và chỉ lối cho tôi ra phía cửa. Một ông già mở cửa cho tôi và thốt lên: “Này, cậu có phải là Bucky Bleichert không đấy?”
Tôi vừa thở vừa nói: “Nhờ bác giữ đứa bé và gọi cho người giữ trẻ và đứa bé không còn làm phiền tôi nữa. Chiếc Ford của Lee vẫn đậu trong bãi đỗ, tôi đẩy tên Maynard vào băng ghế sau. Lee bật còi hiệu và lao đi trong khi tên hiếp dâm ngồi lẩm bẩm cầu Chúa. Tôi vẫn phân vân không hiểu tại sao tiếng còi hiệu của cảnh sát không thể xua tan được tiếng đứa bé kia kêu gào cha nó văng vẳng trong đầu.
Chúng tôi đưa Maynarad vào nhà tạm giam, sau đó Lee gọi điện cho Fritz Vogel nói với anh ta rằng tên hiếp dâm đã bị bắt và đã sẵn sàng được hỏi cung về vụ trộm ở Bunker Hill. Mọi việc xong xuôi chúng tôi quay lại cơ quan, gọi điện cho các cảnh sát ở khu Highland Park thông báo việc Maynard đã bị bắt và tôi cũng không quên gọi điện lại hỏi thăm tình hình đứa bé con hắn ta. Người bảo trợ nói với tôi là Billy Maynard đang ở chỗ ông ta chờ mẹ mình, cô vợ trước đây của Coleman Maynard, nó vẫn liên mồm kêu gào đòi bố. Tôi gác máy và tự trách mình vì đã gọi điện.
Ba giờ sau đó tôi phải viết báo cáo. Tôi viết bằng bút và Lee đánh máy lại, cậu ta cố tình bỏ qua chi tiết chúng tôi đã đột nhập vào căn hộ của Coleman Maynard. Sếp Ellis Loew rẽ qua trong khi chúng tôi đang làm việc và lẩm bẩm: “Được lắm. Tôi sẽ cho chúng nó biết tay ở toà.”
Chúng tôi viết báo cáo xong thì đã bảy giờ. Lee ngước nhìn lên trời và nói: “Lại thêm một thắng lợi nữa dành cho Laurie Blanchard. Cậu đói chưa?”
Tôi đứng dậy vươn vai và chợt thấy thèm cái gì đó bỏ vào bụng. Đúng lúc đó Fritz Vogel và Bill Koenig bước vào. Lee thì thầm: “Chỉ để ra mắt thôi. Bọn họ muốn chứng tỏ mình trước mắt Loew mà.”
Đến gần, tôi mới nhìn rõ vẻ phờ phạc của hai người. Vogel cao, béo, đầu rất to và đặc biệt là anh ta có cặp mắt xanh nhất mà tôi nhìn thấy từ trước đến nay; Koenig cũng rất to, có lẽ cậu ta cao hơn tôi vài inch, khuôn người rộng, mũi dẹt, tai bầu, cằm nhọn và bộ răng dày nhỏ xíu. Nhìn cậu ta thật đần độn, Vogel thì có vẻ lanh lợi hơn nhưng cả hai đều không giấu nổi vẻ bủn xỉn.
Koenig cười rúc rích, “Hắn thú nhận rồi. Tội hiếp dâm trẻ em và ăn cắp. Fritzie nói tất cả chúng ta đều được khen ngợi.” Cậu ta đưa tay ra và nói tiếp: “Cậu đã có trận đấu rất hay.”
Tôi nắm bàn tay to bè của cậu ta và nhận thấy có vết máu tươi ở cổ tay áo phải của Koenig. Tôi nói: “Cảm ơn trung sĩ,” và chìa tay ra cho Fritz Vogel. Anh ta nắm tay qua loa, nhìn tôi với ánh mắt giận dữ lạnh lùng và thả ra như nắm phải cục lửa.
Lee vỗ lưng tôi: “Chỉ là trò chơi của cậu ấy thôi mà. Hai người đã nói với Ellis về việc hắn nhận tội chưa?”
Vogel ám chỉ tôi: “Anh ta sẽ là Ellis, sau đó là thượng úy và cao hơn nữa.”
Lee cười to: “Tôi là người biết giữ bí mật. Nhưng anh gọi anh ấy là tên Do Thái sau lưng thì có ý đồ gì?”
Mặt Vogel đỏ ửng trong khi Koenig thì há hốc mồm lảng nhìn đi nơi khác. Khi cậu ta quay lại, tôi nhìn thấy trên áo cũng có vết máu tươi. Vogel nói: “Đi thôi Billy.” Koenig ngoan ngoãn đi theo anh ta vào trong.
“Được đấy chứ?” Tôi hỏi.
Lee nhún vai: “Bọn vớ vẩn. Nếu không phải là cảnh sát thì bây giờ chúng nó đã ở Atascadero rồi. Làm như tớ nói chứ đừng làm như tớ làm, bạn ạ. Bọn họ sợ tớ chứ cậu thì mới chỉ là người tập việc ở đây thôi.”
Tôi cố vắt óc tìm câu gì đó đáp lại cho thích đáng nhưng chưa kịp nghĩ ra thì Harry Sears với dáng vẻ còn nhếch nhác hơn cả buổi sáng thò đầu ra ngoài hành lang lên tiếng. “Tôi nghe nói điều này và tôi nghĩ cậu nên biết, Lee ạ.” Hai người công khai trò chuyện với nhau và tôi nghe không thiếu một từ, thậm chí tôi còn ngửi thấy mùi rượu trong giọng nói của Sears.
Lee nói: “Bắt đầu đi,” và Sears nói ngay: “Tôi rẽ qua nhà giam của hạt và giám thị cho tôi biết Bobby De Witt vừa được thưởng một điểm A. Hắn sẽ được tạm tha vào giữa tháng Một này. Tôi nghĩ cậu nên biết điều này.”
Sears gật đầu với tôi và rút lui. Tôi nhìn Lee trong khi cậu ta co rúm người như khi đang lục lọi trong căn phòng số 803 ở Versailles. Tôi nói: “Bạn này…”
Lee cố gượng cười, “Đi kiếm cái gì bỏ vào bụng đi. Kay đang làm món thịt hầm và cô ấy nói tớ nên đưa cậu về nhà.”
Tôi đi theo Lee về nhà để gặp cô nàng kia và vô cùng kinh ngạc khi nhìn thấy nơi ở của cậu ta. Đó là ngôi nhà xinh xắn mang phong cách kiến trúc đặc sắc của những năm 1930, cách chỗ chúng tôi làm chỉ khoảng 1/4 dặm về phía Bắc. Khi chúng tôi bước vào trong, Lee lên tiếng: “Đừng nhắc đến De Witt vì điều đó sẽ làm Kay buồn.” Tôi gật đầu và đi thẳng vào phòng khách.
Ván ốp tường được làm bằng loại gỗ gụ bóng loáng, đồ đạc trong nhà đều mang phong cách Đan Mạch - đó là những loại đồ gỗ màu be mang rất nhiều kiểu hình dáng khác nhau. Trên tường có in hình các nghệ sỹ nổi danh của thế kỷ 20, thảm trải nền được in hình các hoạ tiết nghệ thuật hiện đại như nhà cao tầng hay các cây cao nhô lên trong rừng rậm. Khu phòng ăn liền với phòng khách, trên bàn đã bày sẵn những bông hoa tươi, các đĩa thức ăn toả mùi thơm phức. Tôi nói: “Không phù hợp lắm với thu nhập của một cảnh sát. Không phải cậu nhận hối lộ đấy chứ?”
Lee cười tươi: “Của chìm của tớ đấy. Em yêu, em đang ở đâu?”
Kay Lake bước lên từ nhà bếp trong chiếc váy dài có thêu hình hoa văn phù hợp với loại hoa của khăn trải bàn. Cô ta nắm tay tôi và nói: “Chào anh Dwight.” Tôi cảm thấy cô cũng lúng túng ngượng ngùng.
“Chào Kay.”
Kay bóp nhẹ tay tôi và thả ra, tôi có cảm giác như đó là cái bắt tay dài nhất trong đời. “Anh và Leland là bạn của nhau, có phải vì vậy mà cả hai anh đều tin vào những câu chuyện thần tiên không?”
Tôi nhìn quanh tìm Lee nhưng không thấy cậu ta đâu. “Không, anh là mẫu người ưa thực tế.”
“Em thì không.”
“Anh hiểu.”
“Em cũng không phải người quá lãng mạn.”
“Anh biết.”
“Ai nói với anh điều này?”
“Tờ Herald Express của Los Angeles.”
Kay cười thật to. “Có nghĩa là anh đã đọc những bài báo viết về em. Anh có rút ra được điều gì không?”
“Có chứ. Ít nhất thì những câu chuyện thần tiên cũng không có ý nghĩa gì đối với em cả.”
Kay chớp mắt với động tác rất giống Lee. Tôi có cảm giác cô nàng là người dạy cậu bạn tôi làm động tác này. “Chính vì vậy anh nên biết cách biến những câu chuyện đó thành hiện thực. Anh Leland! Đến giờ ăn rồi!”
Lee xuất hiện và chúng tôi cùng ngồi ăn tối. Kay bật một chai champagne và rót cho mọi người và lên tiếng: “Chúc mừng các câu chuyện thần tiên.” Chúng tôi uống, Kay lại rót và lần này Lee nói: “Chúc mừng thành công của chúng ta.” Kiểu chúc mừng của Lee khiến tôi bật cười; tôi lên tiếng: “Chúc mừng sự tái hiện tình bạn Bleichert-Blanchard của chúng ta, còn gắn bó hơn cả Louis và Schmeling[24].”
Lee lại lên tiếng: “Chúc mừng chiến công thứ hai của Blanchard”; Kay nói, “Chúc mừng trận đấu hoà mà không ai phải đổ máu.” Chúng tôi uống hết chai đầu tiên và Kay vào bếp lấy thêm một chai nữa bật nắp dí vào ngực Lee. Khi tất cả ly của chúng tôi đều đầy, tôi bắt đầu thấy hứng khởi và nói rất to: “Chúc mừng chúng ta.” Lee và Kay nhìn tôi có vẻ muốn có hành động gì đó và tôi chợt nhận thấy tay của chúng tôi đều đặt rất gần nhau trên bàn. Kay nhận ra và nháy mắt; Lee nói: “Thế mà giờ tớ mới nhận ra.” Chúng tôi cùng nắm tay nhau và đồng thành hô: “Chúc mừng chúng ta.”
Đối thủ, đồng nghiệp, rồi bạn bè, đó là những gì mối quan hệ của chúng tôi đã trải qua. Bây giờ có thêm Kay, mặc dù cô ấy không hề xen vào mối quan hệ của chúng tôi nhưng chính Kay lại là người biết làm cho cuộc sống của chúng tôi trở nên thi vị và hấp dẫn.
Mùa thu năm 1946 đó chúng tôi đi khắp nơi cùng nhau. Khi chúng tôi đi xem phim, Kay ngồi ghế giữa và thường nắm tay cả hai chúng tôi mỗi khi xem cảnh rùng rợn; khi chúng tôi cùng đi khiêu vũ vào các buổi tối thứ Sáu ở vũ trường Điểm hẹn Malibu, Kay khiêu vũ với cả hai người. Lee không bao giờ có bất kỳ biểu hiện gì của sự ghen tuông, và Kay cũng không quá thẳng thắn thể hiện sự quyến rũ của mình. Đó là khi chúng tôi chạm vai vào nhau, mỗi khi một câu nói trên radio, một mẫu quảng cáo hài hước hay một lời nói nào đó của Lee nhằm vào cả hai chúng tôi khiến ánh mắt của tôi và Kay gặp nhau. Kay càng im lặng thì tôi càng hiểu rõ rằng tình cảm trong cô đang bị kìm nén rất mạnh - và tôi lại càng cảm thấy cần cô ấy hơn. Nhưng tôi buộc phải tảng lờ không phải chỉ vì nó sẽ làm tổn hại đến tình bạn của tôi với Lee mà còn bởi vì nó sẽ làm mất đi sự hoàn hảo trong quan hệ giữa ba người.
Hết giờ làm việc, tôi và Lee thường về nhà cùng nhau và cùng chứng kiến Kay ngồi đọc sách, gạch chân những đoạn hay bằng chiếc bút chì màu vàng. Cô ấy nấu bữa tối cho cả ba chúng tôi. Đôi khi về nhà rồi Lee lại lấy môtô ra ngoài. Lúc đó chỉ có hai chúng tôi trò chuyện với nhau.
Chúng tôi luôn nói chuyện về Lee. Kay kể về sáu năm học đại học và hai năm học thạc sỹ của cô mà Lee đã cung cấp tiền, chuyện cô từng làm giáo viên dạy phụ trợ như thế nào; tôi nói chuyện về thời tôi sinh ra và lớn lên ở Lincoln Heights. Chúng tôi không bao giờ nói về chuyện tôi từng làm tên mách lẻo cho đội quân nước ngoài hay chuyện quan hệ trước đây của cô ấy với Bobby De Witt. Cả hai chúng tôi đều cảm nhận được câu chuyện của người kia nhưng không ai muốn hỏi chi tiết, về điều này thì tôi có chút lợi thế: Anh em nhà Ashida và Sam Murakami, người thì đã bặt tin từ lâu, người thì đã chết, nhưng Bobby De Witt thì chỉ còn một tháng nữa là trở về Los Angeles - và tôi có thể đọc trên nét mặt của Kay rằng cô ấy rất sợ sự trở về của hắn.
Cho dù Lee sợ hãi thì cậu ta cũng không hề thể hiện ra mặt khi nghe tin Harry Sears nói, và tin đó cũng không hề làm ảnh hưởng đến cậu ta cũng như mấy giờ vui vẻ vừa qua giữa chúng tôi - những thời khắc thực sự quý giá đối với người làm công việc điều tra. Mùa thu năm đó tôi mới cảm nhận được thực sự công việc của cảnh sát là như thế nào và Lee đã chỉ bảo cho tôi rất nhiều.
Từ giữa tháng 11 đến dịp năm mới, chúng tôi tóm cổ tổng số mười tên rắn mặt, mười tám tên vi phạm luật giao thông bỏ chạy và ba tên tù bỏ trốn. Những làn kích động bọn chuyên lang thang, la cà còn giúp chúng tôi tóm được gần chục tên chủ yếu là dân nghiện ma tuý. Chúng tôi làm việc theo lệnh trực tiếp của Ellis Loew, theo phân công trong những buổi giao ban và theo những tin đồn của anh em trong đội, hoặc thậm chí theo cả cảm tính của Lee. Cách làm việc của cậu ta đôi khi thận trọng, vòng vèo nhưng đôi khi lại rất thẳng thừng, nhưng cậu ta luôn luôn nhẹ nhàng với trẻ em, và nếu có phải sử dụng sức mạnh thì đó chỉ là vì cậu ta không còn cách nào khác để lấy thông tin.
Chúng tôi trở thành cặp điều tra “người tốt-kẻ xấu”; chàng Lửa thường bị coi là người xấu còn tôi được coi là người tốt. Thành tích thi đấu quyền anh khiến chúng tôi được mọi người tôn trọng khi đi ra đường, và khi Lee vội vàng hành động để có được thông tin thì chính tôi lại là người bình tĩnh tiến hành các biện pháp nhẹ nhàng, nhờ vậy chúng tôi hỗ trợ cho nhau, cùng hoàn thành nhiệm vụ.
Nhưng tình bạn của chúng tôi không hoàn toàn phẳng lặng. Khi chúng tôi làm việc cả ngày, Lee thường ngốn cả vốc thuốc Benzedrine[25] để giữ tỉnh táo; và rồi tất cả những người da đen làm loạn đều trở thành bọn “lai da đen,” tất cả những người da trắng đều là “loại bỏ đi,” tất cả những người gốc Mêhicô đều trở thành “Pancho”[26]. Tính cộc cằn nóng nảy của cậu ta bộc lộ hết làm ảnh hưởng vô cùng lớn đến uy tín của cậu ta, và đã hai lần tôi phải can ngăn Lee khi cậu ta nóng giận quá đến nỗi mất tỉnh táo.
Nhưng nếu coi đó là cái giá tôi phải trả cho việc học tập của mình thì quả thực là chả thấm vào đâu. Dưới sự kèm cặp của Lee, tôi trưởng thành rất nhanh, và tất nhiên không phải riêng mình tôi nhận ra điều đó. Mặc dù bị thua tới nửa ngàn đô la trong vụ cá cược trận đấu của tôi, sếp Ellis Loew vẫn phải nồng nhiệt chào đón chúng tôi khi Lee và tôi đưa về hàng loạt các tên phạm tội mà anh ta đang rất muốn khởi tố, còn Fritz Vogel, người vốn rất ghen ghét với tôi vì đã cuỗm mất chức cảnh sát điều tra của cậu con trai thì giờ đây cùng phải miễn cưỡng công nhận rằng tôi là người có năng lực.
Điều đáng ngạc nhiên hơn cả là danh tiếng của chúng tôi còn mang lại những kết quả khác. Lee trở thành người hâm mộ của H.J. Caruso, người buôn bán ôtô với những loạt quảng cáo nổi tiếng trên đài phát thanh, khi công việc không quá bận rộn chúng tôi đi thường đi lùng xe của bọn phạm tội bỏ lại ở Watts và Compton[27]. Nếu có may mắn mà kiếm được một chiếc, chúng tôi cùng đưa về khu bãi đậu của Caruso ở Figueroa và ông ta trả cho chúng tôi một nửa giá trị của chiếc xe. Chúng tôi vừa làm công việc của cảnh sát vừa làm ăn chui với ông ta và đổi lại ông ta thường thưởng cho chúng tôi những chai whisky ngô rất ngon, Lee lại mang những chai rượu đó lót tay cho Harry Sears để giữ yên chuyện ở cơ quan.
Thỉnh thoảng vào những đêm thứ Tư, chúng tôi cùng H.J. Caruso đi xem các trận đấu ở nhà thi đấu Olympic. Ông ta kiếm được chỗ ngồi rất an toàn quanh sân thi đấu giúp chúng tôi tránh được những đợt ném vỏ bia chứa nước giải xuống sân của những tay quá khích gốc Mêhicô khi Jimmy Lennon giới thiệu chúng tôi trong lễ khai mạc trận đấu. Có những lúc chúng tôi gặp Benny Siegel ở sân đấu và Lee thường đi ra nói chuyện với anh ta. Mỗi lần như vậy trở về, vẻ mặt Lee thường rất hoảng hốt. Người đàn ông mà có lúc cậu ta đã rất coi thường này là tay xã hội đen có quyền lực nhất ở khu bờ biển miền Tây này, tính tình anh ta cũng rất nóng nảy. Nhưng Lee lại thường giành chiến thắng với các vụ đua - những con ngựa mà Siegel nhượng lại cho cậu ta rất hay giành chiến thắng.
Thế rồi mùa thu năm đó cũng qua đi. Ông già nhà tôi đã nghỉ kỳ nghỉ Giáng sinh ở nhà trọ và tôi đưa ông về nhà Lee cùng ăn tối. Ông đã bình phục rất nhiều sau cơn đột quỵ nhưng vẫn không nhớ ra chút tiếng Anh nào. Kay bón cho ông ăn còn Lee thì sẵn sàng ngồi nghe thứ giọng miền Kraut nước Đức của ông cả đêm. Khi trở về nhà, ông thường làm động tác ra hiệu mang đặc phong cách Đức và cố gắng tự mình bước vào nhà.
Vào dịp lễ năm mới chúng tôi cùng đến đảo Balboa xem ban nhạc Stan Kenton biểu diễn. Đó là năm 1947 và chúng tôi lại khiêu vũ. Kay búng đồng tiền xem ai là người được khiêu vũ cùng cô lần cuối cùng và được hôn cô lần đầu tiên vào lúc giao thừa. Lee là người chiến thắng còn tôi ngồi xem họ lướt đi bên nhau, trong lòng cảm thấy hơi lo ngại về cách họ làm tôi thay đổi cuộc sống của mình. Thế rồi cùng đến thời khắc giao thừa, ban nhạc bắn pháo hoa còn tôi không biết phải làm gì.
Kay chính là người giúp tôi tìm lối thoát, cô ấy bước đến hôn nhẹ lên môi tôi và thì thầm: “Em yêu anh, anh Dwight ạ.” Tôi đứng chết lặng như trời trồng mà không biết nói câu gì.
Khi quay về chúng tôi đi theo đường cao tốc Pacific Coast. Về đến nhà, tôi lấy xe nhưng không thể khởi động được động cơ, tôi đành ngủ lại nhà Lee và rồi cũng nhanh chóng rơi vào giấc ngủ vì đã uống quá nhiều. Gần sáng tôi tỉnh giấc và chợt nghe thấy có tiếng động lạ phát ra từ phía tường nhà. Tôi lắng tai nghe và nhận ra đó là tiếng khóc thầm của Kay, tiếng khóc nhẹ và thầm lắng nhất mà tôi nghe được từ trước đến nay. Tiếng khóc thầm ngày càng rõ hơn và có phần nức nở. Tôi kéo gối trùm kín đầu cố tìm lại giấc ngủ.