PHẦN I - Chương 1 CƠN SAY DỮ DỘI VÀ VUI
Tôi nghĩ rằng, ta có thể bắt đầu câu chuyện từ sáng 23 tháng mười một, vào lúc mười một giờ ba mươi phút, trong ngôi nhà ở đường Old Queen bên rìa công viên St. James thành phố London. Sao lại không? Chính vào lúc đó cuộc chơi bắt đầu. Có lẽ không thật đúng vào lúc mười một giờ ba mươi, mà là mười một giờ ba mươi rồi kéo dài trong năm sáu tiếng đồng hồ sau đó.
Viên cảnh sát từ công viên Scotland tới ngồi trước mặt tôi. Đến bây giờ trong mắt tôi vẫn còn lưu lại đường nét chiếc veston bằng vải tuýt anh ta mặc hôm đó. Anh ta trạc độ bốn mươi, có khuôn mặt người xứ Scotland hung hung, mái tóc dày và xoắn có đường ngôi bên trái kéo dài sang phải bởi một làn sóng có hai chỗ duỗi, tên là Ogilvie hoặc Watts. Anh ta theo dõi những người dọn nhà thuê đang khuân vác đồ đạc.
— Anh rời bỏ căn nhà này?
— Chính nó rời bỏ tôi. Người ta đang lấy lại những thứ tôi chưa trả hết tiền. Tôi chưa trả hết tiền một thứ nào.
Điện thoại, tôi nhấc máy, lại ngân hàng gọi tới: Tấm séc thứ hai đã tới nơi, họ không chịu đựng nổi tình thế này, tôi định làm gì, mấy giờ tôi mới đến gặp họ, không biết rằng càng sớm càng tốt hay sao? Tôi có biết chứng thư kháng nghị là cái gì không? “Tôi sẽ cố đến thật sớm! Bao giờ? - Một giờ nữa!” Tôi gác máy, thấy cặp mắt màu hạt dẻ đăm chiêu của viên cảnh sát vẫn dán vào tôi. Chắc chắn gã đã nghe hết, đã biết rõ ai gọi tôi, gọi để làm gì, nhưng cứ giả ngây giả điếc như chẳng hay biết gì. Gã bảo:
— Hay, tôi vừa nảy ra một ý: Có lẽ tốt nhất là anh nên làm lại từng bước một những cái gì anh đã làm đêm hôm đó. Không bắt buộc đâu. Nhưng tranh thủ được thời gian. Và tôi có thể để anh dược tự do sớm hơn.
Tôi đứng lên, chân nặng trịch.
— Nào, đi!
Các người dọn nhà thuê đã và đang làm việc rất tốt: Họ bắt đầu từ lầu hai, đã dọn sạch mọi thứ trên đó, lầu một cũng trống trơn, chẳng sót thứ gì. Bây giờ họ đang tấn công vào tầng trệt, mang đi hết, nhẵn nhụi, có mảnh giấy vẽ ngôi nhà ở St. Tropez bằng bút mực.
— Anh bao nhiêu tuổi?
— Hăm mốt. Hai mươi mốt năm, hai tháng và mười bốn ngày.
— Anh thuê căn nhà này từ bao giờ?
— Cách đây hai tháng mười bốn ngày.
— Buổi tối hôm kia là lần đầu tiên?
Tôi nhìn theo bức tranh trong tay một người dọn nhà thuê.
— Không phải lần đầu.
Giữa lầu một và tầng trệt có vài bậc tam cấp. Chúng tôi trèo lên. Tôi ngoái nhìn lại lần cuối cùng mong trông thấy bức vẽ, nhưng người mang nó đi đã ra tới ngoài phố, tới xe tải.
— Không phải lần đầu, nhưng chắc chắn là lần cuối cùng.
— Đêm ấy anh ăn mừng cái gì là chính?
— Sự phá sản của tôi.
— Chúng tôi lên thang gác lầu một. - Tôi nói - Tôi ở dưới kia, trong phòng khách bên phải. Trông rõ cô ta trèo lên cầu thang này. Cô dừng lại đứng chỗ này, quay đầu nhìn xuống. Nhìn tôi, giơ tay làm dấu rồi tiếp tục lên gác.
— Có tỏ vẻ gì đặc biệt?
— Không.
— Lúc ấy có đông khách không?
— Tôi mời năm chục. Họ kéo đến gấp ba lần. Như điên.
— Mấy giờ?
— Ba giờ sáng, áng chừng vậy.
Lên tới thềm cầu thang lầu một. Đứng lại. Tôi nói tiếp:
— Sau ba chục, bốn chục phút gì đó. Tôi vẫn ở dưới phòng khách. Cũng muốn lên với cô ấy, nhưng không thể len nổi qua đám đông bạn bè, vả lại ai cũng nhận ra tôi, hỏi han, chèo kéo...
— Nhưng sau đó anh vẫn lên được...?
Chúng tôi lại đi tiếp, cầu thang lầu hai.
— Cuối cùng, tôi lên được.
Một lớp sáng dữ dội loé lên trong kí ức tôi: Hình ảnh chiếc cầu thang này, bây giờ trống vắng, mất cả đến tấm thảm lót chân nhưng lúc ấy bị biển người cuồng nhiệt lấp kín. Bọn họ bám từng chùm vào các bậc cầu thang, hét tướng khi tôi đi qua: “Chúc mừng phá sản, Franz!” Hình ảnh tái diễn trong một giây, khoảng đó, có lẽ không đến một giây. Ngay sau đó trước mắt tôi là hình ảnh thực của cầu thang lúc này: Im lìm, vang tiếng, vắng lặng.
— Lúc ấy do đâu anh biết chắc chắn cô ta ở lầu hai, ở đúng chỗ này trong nhà?
— Chỉ một mình cô ấy và tôi có chìa khoá phòng. Tôi đã khoá lại vì có khách.
— Hai người cãi nhau?
— Không. Có sơ sơ.
— Anh biết cô ấy xài ma tuý?
Thềm cầu thang lầu hai
— Có biết.
Chúng tôi đi dọc theo hành lang, đến trước cửa phòng tôi; lúc này mở cửa, lúc ấy thì đóng chặt. Lần thứ hai trí nhớ của tôi lại loé sáng, lần này có cả âm thanh lẫn hình ảnh, bỗng nhiên tôi thấy lại mình lúc ấy đang cố công vô ích mở cánh cửa, ba mươi hai giờ trước đây.
— Còn anh, tôi muốn nói đến ma tuý?
— Không. Không bao giờ?
Tôi đặt chân lên ngưỡng cửa nhưng không thể nào bước qua nổi, đơn giản thế thôi, tôi không bước qua nổi, cổ họng và dạ dày thắt lại.
— Lúc ấy tôi không sao mở được cửa. Cô ấy khoá trái, để chìa trong lỗ khoá.
— Anh đập cửa.
— Tôi đập cửa, thế là lũ ngu xuẩn ở cầu thang cũng thi nhau đập theo tôi, tưởng đó là trò đùa hoặc một...
— Một cuộc cãi lộn giữa đôi bạn tình - viên cảnh sát nói lạnh như tiền.
Thực ra, tôi cũng đã nghĩ tới những từ đó rất đúng lúc, nhưng nói ra được là chuyện khác.
— Bọn họ làm ầm ĩ xung quanh tôi đến nỗi nếu cô ta có kêu to bên trong tôi cũng không thể nghe thấy.
— Anh bèn đi vòng...
Tôi toát mồ hôi hột. Cảm giác khó chịu tăng lên từng giây.
— Lúc ấy tôi đi vòng theo sân trong. Và chui vào phòng tắm qua lá cửa con.
Thấy tôi vẫn đứng im không nhúc nhích, viên cảnh sát nhẹ nhàng gạt tôi sang bên và bước qua cửa. Anh ta đi thẳng tới cuối phòng, rẽ ngay về tay phải để vào buồng tắm. Tôi không trông thấy anh ta nữa, nhưng nghe rõ anh ta hỏi:
— Là cửa này à?
— Có mỗi cái đó thôi.
Tôi tì vai rồi tì trán khung cửa, người ướt sũng mồ hôi như tắm. Tiếng viên cảnh sát:
— Tại sao anh vội vàng đến mức liều mạng nhào lộn như thế? Gãy cổ như chơi! Có thể cô ấy chỉ muốn tách mình ra riêng một chỗ để hờn dỗi. Thế cô ta có nói bóng gió xa xôi gì đến chuyện tự vẫn không?
— Không.
Tôi nghe tiếng anh ta mở lá cửa nhỏ, trèo lên, nhảy xuống.
— Nhưng lúc ấy anh nghĩ rằng với bản tính xốc nổi vốn có, lại bị chấn động vì cuộc cãi lộn với anh, vì ảnh hưởng của chất ma tuý cô ấy có thể đã dùng, của rượu chắc cô ấy đã uống, với tất cả những cái đó anh đã nghĩ rằng có thể cô ấy định tự sát?
— Vâng.
Anh ta mở tung các tủ.
— Mặc dầu vậy, anh đã đợi hàng ba mươi, bốn mươi phút mới chạy vào với cô ta?
Ẩn ý trong câu hỏi như ngọn roi quất mạnh vào tôi, bởi nó bất công và cũng bởi nó khơi dậy cảm tưởng tội lỗi trong tôi. Tôi bước nốt mấy bước ngăn cách tôi với buồng tắm. Tôi vào buồng. Lần thứ ba kí ức tôi vụt loé sáng chói lọi như mặt trời đỏ rực; lần này cùng với hình ảnh và âm thanh còn có cả mùi nữa, mùi nhạt thếch của máu từ người cô phun ra khắp nơi, vấy lên tường, bồn tắm, bồn rửa mặt bằng cẩm thạch, lên tận tấm kính mờ của lá cửa nhỏ, khi cô điên dại dùng dao cạo rạch cổ tay, cổ chân, cứa bụng, cứa vú rồi thắt cổ. Tôi chỉ còn kịp chạy vội đi, nôn thốc tháo.
Vẫn ngày này, hai tiếng sau, tức vào khoảng một giờ rưỡi chiều tôi tới phố Charles Đệ Nhị, tới trước cửa ngân hàng có bộ phận Hoà Giải Tranh Chấp đã gọi điện thúc tôi suốt ngày hôm qua, rồi suốt cả sáng nay. Tôi đặt chân vào đại sảnh, đến giây phút cuối cùng tôi mới quyết định quay lại, không vào nữa. Khi tôi đi xuyên qua công viên St. James, mưa lại tiếp tục rơi, màn mưa nhẹ mà lạnh buốt theo tôi trên đường Pall Moll, theo suốt quãng đường cắt ngang công viên Xanh. Người mệt mỏi, mưa như trút nước, nhưng được đi bộ thế này tôi thấy dễ chịu hơn. Cơn buồn nôn biến mất. Trong thực tế, chính vào lúc đó mà cái ấy đến với tôi, bằng cách nào thì không biết nhưng với sức mạnh với đường nét rõ ràng thật kỳ lạ. Một giây trước tôi đang kiệt sức, bị đè bẹp dí, bị đánh bại thế mà đột nhiên tôi bỗng như một người ngã xuống nước, đã chìm xuống tận đáy nhưng lại đạp chân ngoi được lên với một nghị lực man dại không biết từ đâu đến. Cái ấy đến từ sâu thẳm trong tôi, đó là sự cuồng nhiệt, một sự cuồng nhiệt hung dữ mà vui, đó là cảm giác đầy quyến rũ về tính bất khả xâm phạm của mình. Nó không liên quan đến tuổi, đến hai mươi mốt năm hai tháng mười bốn ngày của đời tôi, nó mạnh hơn nhiều, bền vững hơn. Nó xuất hiện ngày hôm ấy, nó còn trở lại sau này, trong những tháng năm sắp đến. Ngay lúc ấy, nó đã làm dáng đi của tôi đổi khác: Trời mưa, sau hơn bốn mươi tiếng đồng hồ chưa được chợp mắt, tôi vẫn như đang phấp phới giữa làn không khí có vẻ nhẹ nhõm hơn, bước chân nhảy nhót. Nhún nhảy như tên tôi vậy.
Tôi tới nghĩa trang Brompton vào lúc gần ba giờ. Gia quyến thân thuộc đã có mặt, đứng nép vào nhau dưới một biển ô lúp xúp, đen nhẫy. Không dám đến gần họ, tôi nấp tạm dưới mái che có cột chống của một ngôi mộ xây. Người ướt đẫm nước mưa, tôi rét run. Cách xa huyệt có độ một trăm mét, tôi nhìn rõ lúc quan tài đến, rồi hạ huyệt. Tiếp đến những lời chia buồn kéo dài. Hai mươi phút nữa trôi qua, đám đông họ hàng bè bạn mới ra về hết. Đợi đến lúc con đường đã trở lại hoàn toàn vắng lặng tôi mới đặt chân lên.
Tôi đứng trước mộ hai ba phút. Trời vẫn mưa. Hẳn là tôi buồn rầu, hơn thế nữa, lòng đau như xé; tuy vậy cũng trong lúc này tôi thấy vẫn còn cơn cuồng nhiệt gần như cơn say đã xâm nhập vào tôi lúc nãy trên đường. Sau này mỗi lần nó đến tôi đều nhận dạng được dấu hiệu của nó.
Một người đứng tuổi đi trước tôi vài mét, ra đến đường cái sửa soạn lên ngồi sau tay lái chiếc Vauxhall.
— Tôi về gần công viên St. James. Ông cho tôi đi nhờ được không?
Thoạt tiên ông ta lắc đầu, sau đó quay nhìn vào nghĩa trang. Rồi ngắm thật kỹ dáng vẻ chết trôi của tôi; lúc ấy giá tôi có chảy nước mắt khóc cũng không thể biết được.
— Người nhà anh hử?
— Một thiếu nữ quen.
— Cô ấy bao nhiêu tuổi?
— Mười chín. Nếu còn sống, ba tuần nữa thì tròn mười chín tuổi.
Ông gật gù:
— Còn tôi, là bà vợ.
Ông mở cửa xe:
— Ông vừa nói về công viên St. James?
Ông cho tôi xuống ở cửa nhà thờ Garde. Tuy chẳng nói với nhau câu nào khác, chúng tôi bắt tay nhau đi khi từ biệt như thể đã gắn bó với nhau bằng một sự đồng loã thầm kín. Căn nhà phố Old Queen bây giờ trống rỗng, thảm trải phòng khách cũng chẳng còn. Nhà vang tiếng rất khác lạ và thê thảm. Lá thư trắng loá trên sàn gỗ xoài đánh xi. Thư bỏ vào qua khe hở dành cho việc này trên cánh cửa sơn màu đỏ máu. Trong thư vỏn vẹn vài từ tiếng Đức báo tin có người tên là Morf, đại diện cho Martin và bác tôi, Giancarlo đang đợi ở Dorchester.
***Alfred Morf, từ Zurich tới. Gã hơi cao hơn tôi một tí chút, chuyện này thường xảy ra vì thân hình tôi không thuộc loại kếch xù; có khuôn mặt choắt, mắt hơi một mí, gò má cao, má trũng sâu có thể thi thố với những bộ xương người. Gã nhìn tôi có ý khinh bỉ. Của đáng tội, nước trên người tôi đang tuôn ra như suối: Để đi tới khách sạn Dorchester bên công viên Lane này, lần thứ hai trong ngày, tôi lại phải đi bộ xuyên qua công viên St. James, công viên Xanh; bọn gác ở quãng trường Birmingham chắc hẳn đã phải để mắt đến tôi vì thấy tôi đi qua chỗ họ quá nhiều.
— Anh ướt từ đầu đến chân. - Morf bậm môi nhận xét.
— Có đầu óc quan sát nhỉ? Mồ hôi đấy!
Tôi ngồi xuống, dưới cặp mắt hoảng hốt của người phục vụ. Chẳng mấy chốc nước đã đọng lại dưới chân, người tôi bốc hơi nghi ngút như con bò mới về chuồng. Tôi cười với anh ta:
— Đừng lo, còn nhiều người đang tới nữa. Tôi đã bỏ họ lại đằng sau khi tới ngang bờ biển Ireland. Lấy champagne ra đây, nhanh nhẩu lên anh bạn!
Tôi quay về phía Morf. Gã thật dễ ghét. Mới đó tôi đã ghét rồi. Gã nói:
— Tôi được uỷ quyền của ngân hàng Martin Yahl, ở Geneva và Zurich. Bác anh là một khách hàng chính của chúng tôi. Ông giao cho tôi thu xếp một lần cho xong tình trạng của anh.
— Bác tôi là đồ bịp bợm.
Vũng nước dưới chân loang rộng, lan rộng như nước thuỹ triều dâng, đến liếm đôi giầy của một bà khoác áo lông chồn. Tôi mỉm cười, bà ta giận dữ lườm tôi. Morf tiếp:
— Ông Martin Yahl chủ tịch ngân hàng chúng tôi...
Tôi vẫn mỉm cười với bà kia.
“Lại một tay bịp bợm, già đời hơn tay thứ nhất. Mà tay kia cũng không phải vừa đâu nhé...”
— Thật là nhục, - bà lông chồn cáu.
Tôi gật đầu đồng tình với bà ta.
— Tôi thừa biết như thế!
—... Ông Martin Yahl vì tình bạn xưa cũ gắn bó với phụ thân anh đã sẵn sàng một lần nữa, lần cuối cùng, đến cứu trợ anh. Theo ý nguyện của phụ thân anh, cách đây chưa đầy ba tháng, nhân dịp sinh nhật lần thứ hai mươi mốt, anh đã được nhận số tiền một trăm lẽ ba ngàn bảng là số dư gia tài của ông nhà. Anh đã...
— Và sáu xu lẻ. Một trăm lẻ ba ngàn sáu xu...
Tôi rét run, suýt để trượt ly champagne. Tôi uống một chút vang. Lại buồn nôn. Và cơn giận dữ bốc lên tức thì, từng đợt cuồn cuộn âm thầm. Tôi nói với lưng bà mặc áo lông:
— Chúng lấy cắp của tôi, nó và bác tôi. Tôi là đứa côi cút bị cưỡng đoạt nhẵn nhụi, thưa bà...
— Anh đã vung phí hết sạch trong có hơn hai tháng, không còn một bảng nhỏ. Đã thế, theo kết quả cuộc điều tra chúng tôi đã cho tiến hành, anh còn mang nợ tất cả gần mười bốn ngàn bảng.
— Và sáu xu.
— Tôi có nhiệm vụ trả hết nợ cho anh nếu những giấy vay nợ của anh có giá trị. Và trao cho anh mười ngàn bảng với điều kiện: Sau sáu tiếng nữa anh phải đi khỏi Châu Âu. Tôi được lệnh cùng đi với anh tới chân máy bay.
Thoắt cái, tôi thấy mình không còn ở London, tại khách sạn Dorchester trông sang công viên Hyde Park xanh rờn thảm cỏ, giữa một chiều mưa lạnh cuối năm; tôi đã về trong ngôi nhà ở St. Tropez vào dịp tháng tám, bãi tắm Pampalone gần như vắng lặng, ngoài ba cô gái trần truồng đang nhìn bố tôi, cười rũ. Quả thật, có bố tôi kia; đang ngồi xổm bên tôi, không ngó ngàng mấy cô gái ở trần truồng mà đang cố sửa cỗ máy nửa mã lực của chiếc Ferrari đỏ chót dài một mét rưỡi tôi đang ngồi. Tôi lên tám, trời nóng ấm, không khí rung nhè nhẹ, thoang thoảng hương thơm hơi quánh nhưng ngây ngất của ban mai, tôi sung sướng hát thật to...
Tôi đặt ly champagne, vẫn hét run.
— Nếu tôi từ chối?
— Anh đã dùng séc không có bảo chứng. Một tờ đưa cho chủ hiệu kim hoàn, một tờ trả cho chủ hiệu bán đồ cổ. Ngân hàng chấp thuận đợi đến sáng mai. Quá mười giờ, họ đệ đơn kiện.
Tôi nhìn cái lưng giận dữ của bà áo lông.
— Hơn nữa chúng còn định bỏ tù tôi. Bà nói gì về điều đó?
— Đủ rồi, anh bạn! - Ông lão sáu mươi đi với bà lông chồn nói.
— Anh không được lựa chọn đâu, - Morf nói.
— Tôi được lựa chọn nơi đến?
— Miễn là anh rời khỏi Châu Âu sau sáu giờ nữa, kể từ phút này. Anh định đi đâu?
Quầy rượu trong khách sạn Dorchester đông dần. Mọi cặp mắt đổ dồn vào tôi, vào vũng nước trên thảm. Càng lúc tôi càng cảm thấy mình có mùi chó ướt, có lẽ tôi đang bốc mùi chó ướt, và tuyệt vọng. Cuối cùng mắt tôi dừng lại ở tờ quảng cáo vứt trên bàn bên cạnh. Một địa danh, một hình ảnh trên đó đập vào mắt. Đi Alaska, đi Patagonia hay đi đâu cũng thế thôi, tôi trả lời Morf:
— Đi Mombasa, Kenya.
Tôi biết rằng như chắc chắn rằng Kenya ở Châu Phi, mới đây nó vẫn còn đấy, hình như ở bên kia sa mạc Sahara, khi đi đến ốc đảo cuối cùng hay một cái gì tương tự thì rẽ trái, tôi không biết rõ hơn. Còn Mombasa thì, thật tức cười, cái tên đó nghe quen quen, một cách lơ mơ, hình như tôi đã đọc thấy nó trên một tờ áp phích điện ảnh. Thế thôi chẳng biết gì hơn. Morf lẳng lặng biến đi, với dáng điệu chậm chạp lén lút của dân thủ quĩ. Tôi làm nốt chỗ champagne, càng thấy ghét dữ. Chắc mình không tới được Kenya; mình sẽ chết dọc đường khi ngã từ lạc đà xuống, đoàn lữ hành thờ ơ bỏ lại, thản nhiên đi khuất sau đụn cát phía xa. Tôi nhìn rõ đoàn lạc đà đi xa dần, rõ ràng chất champagne trong dạ dày lép kẹp đang tàn phá.
Morf trở lại:
— Chừng hơn ba giờ nữa sẽ có chuyến bay của hàng không Anh Quốc từ London đi Nairobi, Kenya, ở Nairobi có xe liên vận đi Mombasa. Tôi đã giữ chỗ, mua vé ngay tại sân bay. Ta đi, có taxi đợi.
Gã trả tiền chai champagne tôi uống và chai nước khoáng gã không đụng tới. Gã đã ra đến cửa, tôi vẫn chưa buồn nhúc nhích. Đoán biết tôi không theo sau, gã dừng lại ở cửa nhưng không quay lại nhìn. Gã đứng đợi. Thế là rõ: Tôi căm ghét gã.
Trên taxi, đúng lúc xe nổ máy, Morf sực nghĩ ra:
— Anh không thể lên đường trong tình trạng này, có thể họ không cho lên máy bay.
Nói tóm tắt, không phải gã lo tôi bị viêm phổi, hoặc khi sang tới Châu Phi sẽ bị chết ngạt trong bộ đồ len chải chuốt may đo. Không phải, gã lo cái mẽ ngoài của tôi làm phật ý hãng hàng không khiến họ từ chối không cho tôi lên máy bay. Tất nhiên chẳng thèm hỏi qua ý của tôi, gã ra lệnh cho xe đổi hướng, bảo dừng lại ở đường West Oxford trước mặt ga tàu điện ngầm Bond Street. Hai mươi phút sau chúng tôi cùng nhau qua các cửa hàng Michael Beria rồi Lili và Skinner, thế là trên người tôi có đủ đồ mặc ngoài, đồ lót, giầy, tất cả đều mới toanh, đều là hàng nhẹ, hàng nhiệt đới.
— Trông tôi vừa mắt chưa, Alfred? Hãy nói anh yêu tôi đi nào?
Gã chẳng thèm quay đầu nhìn tôi. Tôi thì chỉ muốn đấm gã vỡ mõm. Trước hết, việc đó sẽ làm người tôi nóng lên. Xe lại mở máy, chạy trên đường Marble Arch phía Kensington, hướng về sân bay Heathrow lúc ấy vào khoảng năm giờ bốn mươi. Màn đêm phủ xuống London loang loáng nước mưa. Tôi sắp rời bỏ nó tuy không tự mình quyết định, cũng không hiểu rõ điều gì đang xảy ra, điều gì đã xảy ra. Đột nhiên cơn buồn nặng trĩu đau đớn buộc tôi phải ngã đầu lên thành nghế nhắm nghiền mắt, thọc hai tay vào túi áo. Tôi đoán cuộc đời mình sẽ thay đổi hẳn, sáng mai tỉnh dậy tôi sẽ hoàn toàn khác với tôi hai ngày trước; đó sẽ không chỉ đơn giản là một chuyển hướng mà là cuộc hóa thân triệt để, một lần chào đời thứ hai. Mặt khác, có thể do uống rượu, do quá mệt mỏi hoặc do cả hai thứ, lúc này đầu óc tôi quay cuồng.
— Xin ký vào đây cho.
Gã chìa cho tôi những tờ giấy đặt trên chiếc túi đeo bằng da nâu, gã giải thích:
— Biên lai. Tôi trao cho anh mười ngàn bảng và phải báo cáo với ông Martin Yahl. Lại còn có những thủ tục thông thường nữa: Hôm nay là 23 tháng mười năm 1969, sự uỷ thác di sản của phụ thân anh đã hết hiệu lực lúc mười hai giờ trưa nay. Từ hôm nay trở đi...
Tôi chỉ nghe một bên tai, bứt rứt vì những cơn buồn nôn, mắt chưa mở ra nổi.
— Từ hôm nay trở đi anh phải tự lo liệu mọi chuyện. Tấm séc mười ngàn của anh đây. Cẩn thận đấy, séc vô danh được chi trả cho người xuất trình. Ký vào đây. Đây nữa.
Trong khoảnh khắc độ một phần trăm giây thoáng qua vô cùng nhanh, tôi cảm giác có cái bẫy tàn nhẫn đang sập xuống. Cũng có thể về sau tôi mới tưởng tượng ra cảm giác này. Khi đã biết rõ sự thật. Chỉ biết rằng tôi đã ký đúng vảo chỗ gã chỉ tay.
Sân bay.
— Anh có muốn ăn uống thứ gì nóng không?
Ô kìa, bây giờ gã lại quan tâm đến tôi! Nhưng vẫn giữ vẻ lạnh lùng. Gã mặc bộ đồ may sẵn, và điều tệ hại hơn, dáng vẻ gã đúng là dáng vẻ người bận đồ may sẵn; mang đôi giầy da to, loại thường dùng, chưng một chiếc đồng hồ bỏ túi mà gã lôi ra xem luôn tay, tuồng như không tin vào các đồng hồ trong đại sảnh.
Tôi vẫn chưa trả lời câu gã hỏi. Gã kéo tôi tới một cửa bán vé, mua tấm vé London - Mombasa trả bằng phiếu. “Vâng, một lượt”. Nhưng gã giữ vé không đưa cho tôi, cả hai cùng đến cửa dành riêng cho khách tay không, trong khu vực không qua hải quan. Tôi chọn chỗ để chuồn lẫn vào đám đông, chen giữa tốp người Pakistan chít khăn. Thiếu phụ ngồi bán hoa có cặp mắt xanh dịu, hơi đần, ngực lép, đôi tay đỏ ửng của thợ giặt.
— Chị có hoa hồng bạch không? Cho một cô gái trẻ.
Tôi ghi tên, địa chỉ, cô phát hoảng:
— Nghĩa trang Brompton?
— Dãy 34 phía Tây. Mới chôn cất sáng nay.
— Không, không cần danh thiếp, không đề tặng, chỉ những bông hồng bạch là đủ.
Tôi ký chuyển nhượng lên phía sau tấm séc đưa cho chị ta.
— Mười ngàn bảng. Tôi mua mười ngàn bảng hoa hồng trắng, và sáu xu lẻ nữa đây. Chị có đủ thì giờ kiểm tra để biết chắc séc này có giá trị. Đủ thì giờ. Đồng sáu xu này cũng là tiền thật, cá nhân tôi xin bảo đảm.
Tôi nhận tờ biên lai chị đưa cho tôi sau một lúc khá lâu, vừa vặn Morf cũng đến tìm tôi, chẳng tỏ vẻ gì ngơ ngác, hơi thở vẫn bình thường. Tôi bảo:
— Nào ta đi, bạn Alfred thân mến!
Gã sững sờ, hai lần quay đầu nhìn cửa hàng hoa, có lẽ gã tự hỏi liệu có thể tìm được cái gì, liệu có chút khả năng nào lấy lại được số tiền kia chăng? Thành ra lại là tôi kéo gã đi theo. Gã xuất trình cho người soát vé hai tấm vé, tôi đi Kenya, gã về Zurich. Hai người sóng vai đi vào khu vực phi hải quan. Tôi đi tới quầy sách nhỏ. Sự tình cờ đã giúp tôi: Quầy có bán cuốn sách rất hay: “Trang Trại Châu Phi” của Karen Blissen, hồi đó tôi chưa được đọc. Tôi mua sách và bảo Morf:
— Trả tiền đi, ông bạn, anh thừa biết tôi chẳng còn đồng nào, sáu xu cũng không nốt.
Bảy mươi bảy phút sau máy bay đưa tôi lên, chọc thủng tầng mây. Tôi mở sách đọc. Bỗng thấy đói, đói dữ dội, thú thật đã vắng bóng từ nhiều ngày nay bây giờ mới trở lại, như sự trở lại của chính tôi, báo hiệu mọi cái từ đây bắt đầu trở lại bình thường sau những tháng những năm điên loạn. Lúc này độ tám giờ mười hoặc hai mươi. Tôi mở cuốn sách vừa mua, đọc đi đọc lại mấy dòng đầu tiên: “Tôi có một trang trại bên Châu Phi dưới chân núi Ngong. Đường xích đạo chạy trên dãy núi phía bắc cách đây có hai mươi lăm dặm Anh, nhưng chúng tôi ở độ cao hai ngàn mét...”
Trang trại Châu Phi của Karen Blissen ở Kenya. Ở Kenya. Tìm mãi không thấy có bản đồ kèm theo, tôi tiếc đã không nghĩ đến việc mua một cái trước khi lên đường. Vậy Mombasa quái quỉ ở chỗ nào so với Ngong trong cuốn sách?
Máy bay đã lên hết độ cao, tiếng động cơ dịu bớt, các hàng ghế trước mặt tôi đã ngang bằng. Đầu óc tôi trống rỗng, nó cũng nhợt nhạt tựa thứ ánh sáng trong khoang máy bay. Có lẽ tôi đang nghĩ đến hoa. Những bông hồng bạch; một núi hồng bạch. Kilimandjaro? Không biết ở đâu.
Tôi luồn tay trong túi áo trống rỗng não nề.
Lúc đó cảm thấy nó như một vết thương mềm mại nhưng rất rõ ràng. Không bao giờ, không bao giờ như thế này nữa. Không một lý do gì có thể làm tôi chấp nhận tình trạng này. Tay tôi bỗng nắm được một chất liệu cứng, nóng bỏng, dịu dàng và ghê gớm.
Tôi thấy rõ môi mình cất lời gọi nó. Tôi nghe rõ tiếng tôi gọi tên nó: “Money!”
Trước đây tôi chưa lần nào gặp gỡ với tiền. Điều đó chưa hề bao giờ làm tôi bận tâm. Từ nay thì khác hẳn. Vĩnh viễn khác.
Tên tôi là Cimballi[1]
*Tôi mang cái tên rất bóng bẩy, rất kêu, một cái tên nhảy nhót. Ít ra, đó cũng là nhận thức của tôi về nó, tôi bao giờ cũng tưởng tượng nó kèm theo một điệu nhạc gần như dã man, dù thế nào đi nữa cũng hoang dại, hung dữ, rất vui, nhảy nhót. Và cuộc ra đi vội vã từ London, vào một chiều tháng mười nhằm hướng mặt trời Châu Phi, đối với tôi thực sự là bước dạo đầu của Vũ Khúc.
Chú Thích:
[1] Cimballi (Cymbale): Cái chũm chọe trong bộ gõ.