← Quay lại trang sách

Chương 2

Trên phi trường Mombasa, chiếc xe buýt sơn vàng chở nặng hành khách và đồ đạc từ chuyến bay của hãng hàng không Đông Phi.

Xe đi vào con đường ít được tu sửa, lỗ chỗ ổ gà, mặt nhựa ruỗng nước mưa. Tưởng sẽ gặp trời oi bức nặng nề, hoá ra thời tiết tốt, vừa phải, riêng không khí thì dính dấp, chở theo vô số mùi, mà không nhất thiết mùi nào cũng ngon lành. Những người quanh tôi tất nhiên điều là da đen, phần đông chứ không phải tất cả: Những người kia nước da sáng hơn, có lẽ nước da người Ấn Độ, có ít nhất hai người Ả Rập và một người Âu. Tôi tìm ánh mắt người này và khi bắt gặp tôi bèn gửi ngay một nụ cười chớm nở. Người ấy không đáp lại, quay ngay sang phía khác. Xe dừng bánh, mọi người xuống hết. “Trạm cuối” người lái xe báo cho một mình tôi khi thấy tôi vẫn ngồi im. Tôi bước xuống.

Đã gần giữa trưa ngày 24 tháng mười ấy. Trong lúc chờ xe liên vận ở Nairobi tôi không ra khỏi sân bay; ngồi đọc Karen Blissen và gần như chẳng nhìn thấy gì của Kenya. Cho đến đây tôi vẫn chưa thấy gì hơn; ngoài một ngôi làng trên đường đi Mombasa, chia thành từng lô với những chiếc lều tròn trát vữa trắng, mái rạ hình nón, với những phụ nữ phần lớn mặc đồ vải màu hồng, quấn những chiếc váy tôi đoán là những chiếc khăn tắm, chít khăn xanh, mũi tẹt nhưng không vì thế mà xấu xí, rất tiếc là họ không để ngực trần.

Ra khỏi chiếc xe buýt màu vàng, đây là lần đầu tiên tôi tiếp xúc trực tiếp với xứ sở mà tôi nhảy vào. Một đường phố lớn đông đúc, hai bên này cửa hiệu, hàng quán, tôi được biết đó là phố Kilindini, huyết mạch chính của thành phố cổ Mombasa. Tất cả tài sản của tôi đều ở trên mình, tôi không có lấy một chiếc vali, cả đến một chiếc bàn chải đánh răng cũng không, điều này còn khó chịu hơn.

“Đã đến lúc làm giàu”. Cơn say man rợ trên đường Old Brompton không rời tôi. Rơi xuống càng thấp thì ngoi lên càng nhanh, len lên càng cao. Tôi tự hỏi ai nói câu ấy? Tôi, có lẽ. Trong cảnh ngộ của tôi, phải ngoi lên với tốc độ sao băng. Tôi hoàn toàn tay trắng. Để làm việc ấy cần biết tiền ở Kenya là gì. Ngọc trai, gương soi bỏ túi hay séc du lịch? Phía xa tấm biển đề ngân hàng Barclay hút tôi đến. Tôi chăm chú đọc bản thời giá hối đoái, nhờ đó tôi biết rằng từ nay tôi phải làm giàu bằng cái có tên là đồng shilling Đông Phi, rằng thứ đó trị giá xấp xỉ bảy mươi xu Pháp, rằng phải có mười tám shilling rưỡi mới được một bảng Anh, và bảy shilling ăn một đôla Mỹ. Biết được điều đó tôi tận dụng ngay cặp giò.

Tôi trở lại đường Kilindini, tản bộ suốt dọc đường, soi mói vào bóng tối các hàng quán trong đó có những người Ấn Độ với đôi mắt đàn bà và mái tóc óng mượt, chắc hẳn sẵn sàng trao thân để kiếm thêm đồng lãi. Rồi tôi cũng thấy được cái mình tìm kiếm: Một gã xấp xỉ tuổi, xấp xỉ tầm vóc tôi, thậm chí còn hơi thấp hơn, cũng đang ở trong tình thế phải chứng minh tài năng của mình giống như tôi; ít ra là như thế! Tôi bảo gã:

— Này anh bạn thân mến! Tôi cố ý đi thẳng từ London sang đây bằng chiếc máy bay nhanh nhất để giúp cậu thực hiện vụ áp phe của thế kỉ. Cái đồng hồ tuyệt đẹp này của tôi có thể là của cậu; không, cậu không nằm mơ đâu, thật đấy! Nó sẽ là của cậu nếu cậu chịu đổi sáu trăm đôla! Tôi mua ở nhà hàng Boucheron tại Paris với giá gấp đôi từng ấy. Cậu gọi điện cho họ, xưng tên tớ và hỏi ngay xem tớ nói đúng hay sai!

Gã chẳng biết Boucheron là cái quái gì, hiển nhiên như thế, hơn nữa còn tỏ ý cóc cần biết. Nhưng cái chính là ở chỗ khác kia, có lẽ ở ánh vui vui vừa hiện ra trong cặp mắt lỏng.

— Ở đây có bao nhiêu là cửa hàng, nhưng tôi chọn hàng cậu. Tình yêu bất ngờ, hả?

Tôi đặt cuộc rất trúng. Tôi nở rộng nụ cười, gã bắt đầu cười nụ. Tôi cười thật to, gã cũng cười bằng tôi, có lẽ hai chúng tôi sẽ đi đến chỗ vỗ vào bụng nhau cũng nên. Đôi bạn thân thiết.

— Này, - tôi nói tiếp, - một việc ngon lành, dịp may hiếm có đừng bỏ lỡ. Thấy cậu thích mua quá, tôi để cho cậu năm trăm rưỡi thôi.

Gã càng cười to hơn, cười ngặt nghẽo, sặc sụa. Gã tránh sang một bên ra hiệu mời tôi vào; không lẽ vị khách vui cười như tôi lại đứng ngoài cửa. Mười phút sau, tôi đã kể với gã chuyện tôi từ London tới, mọi chi tiết về tình cảnh hiện nay, chơi đến cùng con bài nói thẳng, tình nghĩa bạn bè về sau. Gã mời tôi nước trà, bánh gatô dính dấp nước đường nhỏ giọt. Chiếc đồng hồ truyền tay một ông bố, dăm ông chú, mười anh em ruột và anh em họ được gọi đến tăng viện để làm một cuộc kiểm định toàn bộ.

— Một trăm đôla.

— Bốn trăm rưỡi.

Lại cười sặc sụa, lại uống trà. Đồng hồ lại đi thêm một vòng thứ hai.

— Một trăm hai chục.

— Bốn trăm.

— Ba trăm.

— Ba trăm tám mươi bốn đôla và mười bảy xu.

Tôi vui thích thực tình, bao giờ cũng như vậy. Sau bốn lăm phút và sáu chén trà nữa, cười đã chán chê, chúng tôi ngã giá. Chandra thuận trả cho tôi một trăm bảy lăm đôla, một dao bào với ba lưỡi mới trong đó có một lưỡi thật sự còn mới, thêm một quần lót vải bông trắng kiểu quần tắm của Đội Quân Ấn Độ, thêm một bàn chải răng và một bản đồ Kenya. Chandra trở thành bạn thân, gần như một người anh em, gã thân thiết quàng tay lên vai tôi trong khi tôi phòng xa cứ phải để mắt theo dõi bàn tay gã, sợ nó đi lạc vào túi mình (tôi nhầm, sau này mới biết Chandra là người chu đáo, chắc chắn trong công việc). Gã mách cho tôi khách sạn Castle ở ngay phía sau đôi ngà voi bê tông to tướng đóng ở đường Kilindini.

Đó là một ngôi nhà hao hao phong cách Victoria, ghép thêm chiếc ban công kiểu Tây Ban Nha Hồi Giáo và một hố xí xổm kiểu Thổ Nhĩ Kỳ ở cuối hành lang. Tiền phòng mất mười hai shilling, gần hai đôla. Tắm xong ở phòng tắm độc nhất dành cho khách tôi nằm dài trên giường mở bản đồ ra xem, cốt để tìm xem Kenya giống với cái gì. Nói thẳng ra, nhìn trên giấy, xứ sở này chẳng giống cái gì. Nhiều lắm cũng chỉ như một cái phễu, cuống tì vào biển Ấn Độ. Quay mặt vào đất liền, ta có Somalie bên phải, rồi đến Éthiopie, Uganda, hồ Victoria, bên trái là Tanzanie. Tôi tìm Kilimandjaro, núi tuyết con báo. Không có Kilimandjaro, chỉ thấy núi Kenya cao năm ngàn hai trăm mét, Kilimandjaro bị đánh cắp rồi sao? Mãi mới tình cờ thấy nó ở Tanzanie, không xa lắm. Người ta mới đổi vị trí của nó hay sao ấy, lâu nay tôi vẫn xác định nó nằm trên đất Kenya.

Bỗng nhiên tôi cảm thấy cô đơn, rất cô đơn, cách biệt với tất cả, theo nghĩa bóng và nghĩa đen, theo tất cả mọi nghĩa của từ này. Nói tóm lại, một nỗi buồn man mác đang lướt qua hồn tôi trong khi tôi nằm trên chiếc giường sạch sẽ về lý thuyết, trong căn phòng ồn ào có chiếc quạt hổn hển như người lên cơn hen.

Tâm trạng này không kéo dài. Sức mạnh đã gặp trên đường Old Brompton vẫn còn đây. Tôi có trong tay một trăm bảy lăm đôla, hai mươi mốt năm hai tháng mười lăm ngày tuổi rồi. Tồi lắm thì cũng cầm cự được một tháng rưỡi, khi hết sẽ nói theo Robinson Crusoé[2], không phải từ thứ sáu mà từ hôm trước. Nhất định sẽ tìm được một cái gì trước đó. Cũng chưa biết là cái gì: tôi chưa hề lao động, chưa hề kiếm nổi một đồng xu mẻ, lăn lóc từ các trường trung học Paris về các trường tỉnh lẻ đến các trường bên Thụy Sĩ, bên Anh, đầu trò trong các đêm vui nhộn ở London và Paris, trong các trạm trượt tuyết bên Thụy Sĩ, các điểm xịn nhất trên bãi biển Côte, thằng vô tư lự và vô tích sự, dám thản nhiên ném qua cửa sổ một trăm mười bảy ngàn bảng Anh trong có hai tháng rưỡi, điều mà chính hắn cũng phải thừa nhận là một việc làm không thông minh.

Nhưng có một Cimballi khác đã ra đời, hoặc đang sắp ra đời mà chính hắn cũng phải thừa nhận là một việc làm không thông minh. Nhưng có một Cimballi khác đã ra đời, hoặc đang sắp ra đời. Tôi tự đặt ra thời hạn: Một tuần lễ. Sự thật tôi đã đợi đúng bảy ngày mới gặp Joachim.

***

Từ tầm cao một mét tám lăm hơn chút ít, Joachim nhìn xuống tôi bằng cặp mắt voi ti hí bất động, gắn sâu vào bộ mặt có thể làm cả một bộ lạc Masai khiếp sợ. Gã hỏi tôi:

— Cậu tưởng tớ định chôm tiền của cậu sao?

Tôi cười phá lên:

— Chia đôi!

Gã cau mày, không hiểu. Rồi thật lạ, gã đỏ bừng mặt như một cô gái (thứ thiệt). Gã lắc đầu:

— Ồ, không cần. Tôi thích đàn bà cơ.

— Tôi cũng thích.

Gã là người Bồ Đào Nha, mới gặp nhau chẳng mấy lúc gã đã kể với tôi rằng gã ở Mozambic bốn, năm năm trước đó, ở Angola, gã mặc áo lính cho đến lúc - gã rụt rè thì thầm - rời quân đội, nói trắng ra là đào ngũ. Bộ mặt đỏ bầm của gã ban ngày trông cũng đã thấy sợ huống hồ ban đêm: Mũi hình bán đảo lồi dài ra, nổi gồ cao, da mặt dày rỗ huê, má có vết nhăn lõm sâu như vết sẹo. Tên thật, ít ra cũng là tên ở Kenya của gã là Joachim Ferreira da Silva và mười bốn, mười lăm tên khác nhau nữa.

Tôi gặp hắn ta trong các công trình kiến trúc ở sân bay. Bảy ngày sau khi tôi tới Mombasa. Những ngày trước đó tôi dành cho việc đi bộ vòng quanh thành phố. Gọi là thành phố thì hơi quá: Hai cửa sông, mấy vùng châu thổ đang bị biển lấn dần, giữa có một bán đảo nổi trên mặt nước chừng vài mét. Trên bán đảo, người Ả Rập, người Ba Tư, rồi người Bồ Đào Nha lần lượt xua đuổi hết các nô lệ người bản địa, dựng lên những pháo đài, đền thờ Hồi Giáo, nhà thờ Thiên Chúa Giáo. Phía Đông Bắc: Cảng cũ, đầy tàu thuyền kiểu Ả Rập từ Arabi sang; phía Nam: Cảng mới Ladindini tấp nập tàu buôn lớn. Xe lửa từ Nairobi, Uganda chạy tới cảng này ăn hàng. Từ Mombasa vào đất liền có đường ngầm. Đi theo đường này rồi sẽ lên Bắc ta sẽ gặp một bãi tắm rất rộng, rất đẹp, phía trên cảng cũ, dọc theo bãi có hàng dãy khách sạn loại sang mới xây dựng và nhà riêng của Jomo Kenyatta. Chẳng bao lâu nữa, vì những duyên cớ đáng buồn tôi sẽ biết tường tận từng chi tiết mặt tiền ngôi nhà này.

Trên đây là khung cảnh.

Không cần bỏ ra nhiều tuần lễ mới tìm ra giới hạn khu vực này. Cảng mới? Bất cứ một nhà vận tải quá cảnh người Ả Rập hay Ấn Độ nào cũng biết hơn tôi hàng trăm lần. Nghề buôn? Buôn gì? Vả lại tôi không dứt khoát một điều gì khác ngoài điều duy nhất này: Không bao giờ chấp nhận một sự vươn lên chậm chạp, bền bỉ, chiếm mất ít nhất hai mươi hoặc ba mươi năm lao động của đời mình. Đúng là sẽ đến lúc làm giàu, nhưng phải làm thật nhanh tay. Chắc chắn đó là một tham vọng rất chủ quan, nhưng tôi cóc cần.

Mặt khác, tôi đang nắm trong tay một con chủ bài, tuy bản thân còn chưa biết đến mà phải đợi Joachim phát hiện tôi mới biết. Tôi trông thấy gã lần đầu tiên ở hàng hiên khách sạn Castle. Với bộ mặt kẻ giết mướn thất nghiệp, gã không thể lọt qua mắt tôi. Hôm sau tôi lại gặp, và hôm sau nữa còn gặp hai lần nữa, sau đó trong những cuộc tản bộ lang thang trong thành phố Mombasa tôi thường bắt gặp gã nhiều lần khác, lần nào gã cũng lảng tránh tôi với vẻ rụt rè của gái đồng trinh. Thấy vậy tôi rất ngạc nhiên và còn nghi oan cho gã: Tôi cho rằng gã định xâm phạm đức hạnh của tôi và ý nghĩ ấy không làm tôi thích thú gì. Chỉ một tí nữa thôi là tôi cho gã nắm đấm vào giữa mặt. Hai điều khiến tôi không đấm là: Bản tính vui vẻ và tự nhiên và sau nữa là nỗi sợ bị gã đấm lại tôi sẽ vụn thành cám.

— Đúng là tôi bám theo anh, - gã nói trong lúc thân hình đung đưa từ chân nọ sang chân kia như con gấu. - Nhưng đó là vì tôi có việc muốn bàn.

Bản tính rụt rè nhút nhát, có một trái tim học trò chất phác dưới bộ lông Kinh Kông; gã trình bày: Gã sinh sống nhờ tổ chức những cuộc đi săn thú, loại thường, không phải những cuộc săn loại sang.

— Khách chính là bọn Đức, đôi khi có bọn Thụy Điển, Đan Mạch hoặc Anh muốn thật nhanh chóng kiếm một con trâu giữa hai chuyến bay.

Joachim nói tiếng Anh, ít ra cũng là thử nói, một cách khó nhọc, phát âm vô cùng tồi tệ. Chúng tôi hiểu nhau hơn qua thứ tiếng hổ lốn Pháp - Ý - Anh pha thêm tí chút Tây Ban Nha.

— Cậu lấy chúng bao nhiêu?

— Mười ngàn shilling.

— Bảy ngàn franc Pháp!

— Cậu cần gì mình?

Joachim giải thích:

— Tôi còn trẻ và dễ thương (chính tôi cũng tự cho mình là như vậy) lại biết nói nhiều thứ tiếng; ngoài tiếng Pháp và tiếng Ý ở xứ sở này cũng có ích gần như giầy trượt băng, tôi còn nói được tiếng Anh và tiếng Đức. Mình cứ đến gần bọn du khách người Đức là họ sợ mất vía. Và cũng chẳng hiểu được mình nói gì.

Joachim trả cho tôi hai ngàn shilling cho mỗi khách tôi dẫn đến. Thoả hiệp ở mức ba ngàn. Chúng tôi uống chầu Coca Cola hữu nghị, Joachim không uống rượu vì “đã hứa với Đức Bà Fatima”. Tôi sững sờ nhìn gã nhưng mặt gã vẫn nghiêm trang như mặt đức Giáo Hoàng. Tôi thì vì chỉ quen uống champagne tuy không nhiều và dù thế nào đi nữa thì cũng không có mà uống. Tôi nhẩm tính những công thức hoang đường nhất: Giả dụ tôi kiếm được hai, mà tại sao lại không là bốn hoặc năm khách mỗi tuần? Sẽ thu được mười ngàn shilling mỗi tuần, sẽ bắt mối với nhiều Joachim khác ngay khi gã này không đảm bảo được yêu cầu, nhưng nếu tôi đứng ra tuyển mộ các Joachim tương lai, tôi sẽ thu không chỉ ba ngàn mà sáu ngàn shilling của mỗi khách, nhân với ba mươi khách mỗi tuần, nhân với số tuần trong tháng; lại giả dụ, vẫn là giả dụ thôi, rừng Kenya có hàng chục vạn du khách Đức, thậm chí có đến hàng triệu những người thích xếp đội ngũ theo hàng năm, tôi dễ dàng đoạt doanh thu sáu trăm sáu mươi chín nghìn bốn trăm năm bốn shilling mỗi tháng. Đó là mức tối thiểu, sau đó tôi sẽ mở rộng kinh doanh sang các nước láng giềng, có thể đến tận Senegal cũng nên...

Vừa tính toán xong đã thất vọng ngay. Thực ra các du khách xuống máy bay là mơ tưởng ngay đến những bãi tắm trên bờ Ấn Độ Dương, những cảnh lạ, đến Mombasa cảng nô lệ, Mombasa ngày xưa có người tên là Stanley đi tìm Livingstone. Họ đâu có mê săn thú, nếu có cũng rất ít. Nói theo kiểu các nhà kinh tế học thì thị trường hẹp không đáng kể. Tôi tỉnh ngộ ra điều đó sau vài ngày giăng bẫy các du khách mới tới ngay tại chân cầu thang máy bay, bám lẵng nhẵng theo chân họ trong lúc họ đi lang thang với vẻ ngốc nghếch tìm mua những tranh khắc gỗ kinh tởm và những vũ khí Masai dởm thứ thiệt.

Tuy nhiên...

Trong ý của Joachim nói, tôi bắt đầu nhận ra mầm mống của một sáng kiến. Đúng, con chủ bài của tôi là giống da trắng, là giao tiếp được với du khách, gây được lòng tin. Không đến mức ấn được cho họ những cuộc săn thú mà họ không thích, nhưng liệu có nhất thiết phải có cái gì để bán cho họ không?

Tôi trở về với anh bạn người Ấn đã mua đồng hồ. Từ sau lần gặp gỡ đầu tiên tôi đã nhiều lần quay lại cửa hàng của Chandra, có thể nói là chúng tôi đã kết bạn với nhau, bởi lẽ gã đã bán lại chiếc đồng hồ với số số lãi nào đó gã không dám thú nhận với tôi. Tôi hỏi Chandra, những câu hỏi gã trả lời càng củng cố thêm ý định ban đầu của tôi.

Đã đến lúc làm giàu? Được, tôi đã có cách.

Khách đầu tiên của tôi là một người miền Nam nước Đức, tôi còn nhớ hình như ở loanh quanh Munich, làm nghề luật sư hoặc thầy thuốc gì đó, đại loại một nghề tự do. Tôi vừa mở miệng vài câu, khách đã nhìn chằm chằm:

— Anh học tiếng Đức ở đâu?

— Mẹ tôi là người Áo.

Không, ông ta không đi săn, không phải nhà thiện xạ. Không, không cần người hướng dẫn, cũng không cần phiên dịch. “Nếu cần đàn bà, tự tôi sẽ có cách tìm ra”. Tôi giơ tay chào thua.

— Tôi không định mời ông mấy khoản đó. Chỉ xin nói điều này rất đơn giản: Ông sắp đổi tiền. Ví dụ đổi một trăm đôla, Sở Hối Đoái ngay trước mặt kia sẽ chuyển một trăm đôla của ông thành bảy trăm shilling theo đúng giá chính thức. Tôi sẵn sàng đổi cho ông bảy trăm năm mươi. Ông lợi năm mươi shilling, tức gần ba chục mark. Đổi một ngàn, lãi năm trăm shilling, ba trăm mark.

Tuổi trẻ, mồm mép tía lia của tôi làm ông chú ý. Cặp mắt xanh của ông tỏ ý thân thiện, hơi trầm ngâm và nghi ngại.

— Mánh nào?

Tôi cười:

— Chẳng mánh mung gì sất. Bảy trăm năm mươi đổi một trăm, không mánh mung vớ vẩn. Không có cớm ló mặt.

— Đợi tí.

Ông ta tới Sở Hối Đoái, hỏi giá chuyển đổi chính thức bằng tiếng Anh rất đạt. Khi quay lại, vẫn hơi do dự:

— Shilling xịn chứ?

— Ông cứ việc mang đến ngân hàng kiểm tra nếu ông muốn.

Ông quyết định đổi bốn trăm đô. Tôi ra hiệu Chandra vẫn đứng đợi đằng xa từ nãy; gã lôi trong cái tạm gọi là xắccốt của gã ra, đếm rất cẩn thận đủ ba ngàn shilling toàn bạc đã dùng rồi. Tôi đã dặn Chandra rất kĩ: Phải đưa bạc cũ vì những tờ mới cứng dễ làm khách hàng nghi hoặc. Tất nhiên đó là thứ bạc thiệt hết, nhưng tôi không muốn để nhân viên ngân hàng Trung Tâm Kenya chú ý đến công việc đổi tiền của tôi.

Ông Munich đi rồi, Chandra thanh toán tiền hoa hồng cho tôi: Hai trăm shilling - tới hai mươi tám đô. Giá bán đôla ở chợ đen không phải là bảy shilling mà gần tám rưỡi. Với giá này rất dễ bán. Ở Mombasa cũng như ở Nairobi có rất đông kiều dân Ấn Độ, họ đang chuẩn bị nối tiếp cuộc di tản bắt đầu năm 1968 đưa hàng ngàn người Châu Á, nhất là người Ấn Độ trở về tổ quốc trước những biện pháp của Kenyatta nhằm gạt họ khỏi những vị trí chủ chốt trong nền thương mại. Chandra và đồng bào của gã chỉ có cách mua đôla mới mong mang theo được của cải, tiền tiết kiệm khi phải ra đi, có khi phải ra đi rất vội vàng. Do đó họ đổ xô vào mua đôla với giá tám rưỡi, chín, thậm chí mười ăn một. Tôi đánh vào chỗ đó: Chênh lệch tỉ giá giữa hai đồng tiền, và cơn sốt đôla. Mà phải đánh thật nhanh.

Tôi tận dụng một sự kiện mới mà chính những người Ấn Kiều không thấy rõ: Sự gia tăng đột ngột các du khách Châu Âu, nhất là người Đức. Và phải làm nhanh vì sớm muộn nhà chức trách Kenya sẽ hỏi thăm tôi, họ không thể chấp nhận sự can thiệp của tôi tuy trước mắt nó chưa thật sự trái pháp luật. Chandra nở nụ cười vô cùng rạng rỡ: Tuy đã trích ra tiền hoa hồng của tôi, gã chỉ phải trả có ba ngàn hai trăm shilling thay vì ba ngàn bốn trăm để mua bốn trăm đô. Gã sẵn sàng chơi nữa, kéo thêm vào cuộc một số đồng loại. Tôi giao hẹn:

— Với một điều kiện: Cả cậu, cả bọn đó đều chỉ làm ăn với một mình tôi.

Gã thề độc nếu sai lời thì trời tru đất diệt. Không nói rõ diệt ai, mong không phải là tôi.

— Điều này nữa Chandra: Không được nói với ai khác. Cậu sẽ được lợi ở chỗ: Mua đôla của tôi với giá ưu đãi, tám shilling chứ không phải là tám rưỡi.

Thế nghĩa là: Ngoài số bán cho gã, tôi sẽ bán cho người khác tám rưỡi một đô mà tôi mua chỉ mất bảy shilling rưỡi. Lãi mỗi đô một shilling. Với điều kiện vớ được những ông Munich khác. Hai ngày tiếp sau tôi không rời sân bay nửa bước. Nhiều giờ trôi qua không có kết quả, sau đó tôi được mẻ lưới to: Ba người Đức đi cùng vợ, các bà thấy tôi xinh trai. Tôi đổi cho họ hai ngàn hai trăm năm chục đô, một nửa lại bán cho Chandra nửa kia bán cho một thương gia ở đường Kalindini. Lãi ròng: Một ngàn sáu trăm tám bảy shilling - Hai trăm mười đô. Khoảng tám trăm chín mươi hai franc Pháp.

Tôi điên lên vì sung sướng. Thành công rồi! Thời vận đến rồi! Lần đầu tiên trong đời, tôi làm ra tiền và khám phá ra điều kì lạ làm tôi sững sờ và sung sướng cực kì: Đơn giản quá! Đơn giản phi thường! Một điều gì đó đã đến và ý định đó biến thành đồng tiền rủng rẻng. Tuy ý đó chẳng có gì xuất chúng, số tiền kiếm được cũng chẳng to tát gì. Nhưng tôi biết chắc đó mới là bước khởi đầu thôi, và còn xa tôi mới đoán được sẽ thành công đến mức nào, còn xa mới tưởng tượng được rằng ở cuối con đường tôi đi sẽ có hàng trăm triệu đôla đang chờ đón. Con đường mà tôi gọi và mãi mãi sẽ là vũ khúc của tôi.

Trong cơn hăng say tôi nảy ra một ý kì cục. Khi trở về Mombasa tôi mua hai tấm bưu thiếp y hệt nhau in hình con chó rừng. Tôi gởi một tấm cho ông bác, Giancarlo Cimballi ở Lugano, tấm thứ hai cho Martin Yahl - Đấng Tối Cao ngành ngân hàng, Chủ tịch, tổng giám đốc nhà băng cùng tên, ngân hàng tư doanh (tư cách tồi tệ) trên bến General Guisan tại Geneva. Trên cả hai tấm điều ghi câu: “Ông thấy chưa, tôi không quên ông”. Trò trẻ con? Nhất định rồi. Dù sao, nó không để lại hậu quả gì. Ấy là tôi tưởng thế. Và cứ tưởng như thế rất lâu cho đến khi nhận được trả lời, một câu trả lời khác thường, ầm ĩ.

Tôi còn tìm hộ cho Joachim được một khách hàng, có thể gọi là khách đôi cũng được vì đây là một cặp vợ chồng, từ Zurich tới. Tên là Hans và Erika. Chồng làm gì đó trong ngành bưu điện, vợ trong ngành điện tử, ít ra cũng kỹ sư. Cả hai đều dễ thương, rất yêu nhau. Họ dặn trước Joachim: “Chúng tôi thật sự không muốn bắn giết. Dẫn chúng tôi đi thăm thú phong cảnh đất nước.” Thoạt đầu mới gặp Joachim, họ giật mình lùi lại, lo ngại trước dáng vẻ gã. Bây giờ họ thấy thích cách cư xử vồn vã của chú gấu đã thuần, họ hoà hợp với nhau rất tốt. Bốn chúng tôi từ Mombasa đi lên phía bắc, hướng tới Malindi và Lamu theo con đường ven bờ có những bãi san hô là là mặt biển tạo thành những phá nước lặng và trong kỳ lạ.

Buổi tối ngồi ăn thịt chim quay, gà rừng chiến lợi phẩm của Joachim chúng tôi bàn luận về nước Thụy Sĩ. Hans và Erika tưởng tôi là người Thụy Sĩ. Tôi cải chính:

— Tôi là người Pháp, sinh ra ở St. Tropez.

Họ reo lên: Mùa hè năm ngoái họ vừa đến đó. Họ đã tắm truồng ở Pampelone.

— Tôi chôn nhau cắt rốn trong ngôi nhà trên bờ biển đó. Hoặc trước kia nó ở đó.

Chỉ một tí nữa là họ nhớ ra ngôi nhà ấy, ngôi nhà hiển nhiên họ không nhìn thấy, không để ý đến; họ sốt sắng rà soát lại ký ức với hy vọng tìm thấy một hình ảnh: “Ngôi nhà lớn trăng trắng? Hay toà lâu đài có tháp cao?” “Không phải, nhà ngay sát mép nước. Có bức tường đá chắn trước mặt, nền đất cao trồng cọ”. Kỷ niệm xưa dồn dập trong tôi. Do đâu mà tôi giữ được hình ảnh chính xác, rõ ràng đáng ngạc nhiên đến thế về ngôi nhà tôi biết từ hồi còn là đứa trẻ con, và không lần nào trở lại từ khi bố tôi qua đời?

— Lúc ông nhà mất anh bao nhiêu tuổi?

— Lên tám.

— Cimballi là tên gốc Ý phải không?

— Quê gốc bố tôi ở Tessin, không phải Tessin thuộc Thụy Sĩ mà ở bên kia biên giới. Vài trăm mét nữa là ông cụ thành người Thụy Sĩ.

Joachim lấy chiếc ghita, lướt những ngón tay thô kệch mơn man dây đàn một cách dịu dàng tinh tế không ngờ.

— Bà cụ anh cũng không còn nữa?

— Mẹ tôi mất năm tôi mười hai tuổi.

Mẹ chết vì bệnh ung thư. Không phải ở chỗ nào khác: ở Paris, phố Nhà Lạnh. Tên phố nghe thật lố lăng, nhưng thật chính xác một cách bi thảm. Tôi cũng còn nhớ kỹ nơi ấy, vẫn nhớ những tháng hấp hối của mẹ tôi, nhớ như in hình ảnh người bác Giancarlo múa may quay cuồng bên giường bệnh, nhớ điệu nhảy nhộn nhạo ma quái của lão. Tôi biết rõ lão theo lệnh của Martin Yahl thúc ép các bác sĩ phải bằng mọi cách kéo dài cuộc sống - cũng là kéo dài sự đau đớn của bà, không phải vì thương yêu mẹ tôi mà chỉ là để bà ký được hết các giấy tờ lão cần có. Mối hận thù dữ tợn của tôi đối với người bác và Martin Yahl không phải đến lúc này mới nẩy nở, nó là một mối hận thù bản năng, nhưng qua mấy tuần lễ mùa xuân 1960 này nó mới bắt rễ vào một cái nền vật chất và phát triển mạnh lên. Lòng căm ghét thật mãnh liệt, đôi khi chính tôi cũng không hiểu nổi. Nó khiến tôi đốt hết mọi thứ họ cho tôi, học vấn, tiền bạc... Như một ám ảnh bệnh hoạn.

— Bố anh ta rất giàu, đổ đi không hết của - Joachim cất giọng như lệnh vỡ, hất hàm về phía tôi. - Father very, very rich...”

Gã mỉm cười với tôi, mắt tươi rói tình bạn đáng ngạc nhiên. Gã gật gù:

— Very rich. Rất giàu, về sau, nhẵn nhụi.

Gã hát bài Amicas Das Violetas, bài dân ca Bồ Đào Nha gã rất thích. Hans và Erika nép vào nhau, còn tôi, tôi ngắm nhìn chòm sao Hiệp Sĩ.

Mỗi du khách người nước ngoài nhất là người Đức trung bình đổi tầm trăm đôla khi đặt chân tới đây. Tôi kiếm được xuýt xoát tám trăm shilling tức hơn trăm đôla mỗi khách. Bài toán rất dễ, trình độ lớp một. Hai tuần sau khi khám phá ra nguồn lợi này, tôi không cần đến Chandra xuất vốn nữa, nghĩa là tôi bắt các đồng shilling của chúng tôi phải sinh lợi, những shilling có được nhờ bán đôla cho các nhà buôn Ấn Độ. Sau đúng mười hai ngày - tôi nhớ rõ vì đây là ngày cuối của tuần thứ ba trên mảnh đất Mombasa của Kenya - tôi đã có đủ vốn mua ngay một lúc số đôla của bốn du khách: Sáu nghìn shilling, và trong một ngày hôm đó tôi mua bốn đợt như vậy. Cứ mỗi hai tiếng đồng hồ làm ăn tôi thu lãi ròng bốn trăm hai chục đôla. Tất nhiên không phải ngày nào cũng có được của trời cho như vậy, ngày hôm đó thật đáng được cắm mốc ghi nhớ, ở giai đoạn làm ăn này của tôi.

Một điều chắc: Tôi sống bằng cái mình làm ra, sống dư dật. Ngày 22 tháng 12, hai ngày trước lễ Giáng Sinh, tôi giã từ khách sạn Castle, chiếc quạt kêu hổn hển, những bức tường lấm tấm xác muỗi nát bét, phòng tắm công cộng cuối hành lang khai nực mùi nước đái. Dọn về khách sạn White Sands cách không xa tư dinh của ngài Jomo Kenyatta. Trước mắt tôi bãi biển trắng xoá tuyệt vời, và Ấn Độ Dương rực rỡ san hô.

Sau một tháng đổ bộ vào Mombasa tôi cảm thấy như ở nhà mình. Ngày 23 tháng chạp có thư đến. Đề tên tôi, viết rất chính xác với đủ hai chữ L và chữ C ở đầu, riêng chỗ ở chỉ đề “Mombasa, Kenya”. Tôi không bao giờ biết được bưu điện Kenya có phép thần thông gì mà đưa được thư đến đúng chỗ tôi; có thể vì số người Âu trong thành phố hai trăm vài chục ngàn dân này không nhiều, nhất là những người không phải dân Anh. Thư được gửi vào bưu điện Paris mười một ngày trước đây, tức ngày 12 tháng chạp, lúc mười sáu giờ mười lăm phút, phố Beethoven quận XVI. Tôi bóc ra xem. Giấy viết thư khổ 21x37, không có bóng mờ, đánh máy. «Lúc thư uỷ thác di sản hết hạn, ông đã nhận khoảng một triệu franc (tiền quan mới sau khi đổi ra tiền euro) số dư tài sản của phụ thân ông. Thực tế, số tài sản ấy vào khoảng từ năm mươi đến sáu mươi triệu đôla. Chúng đã cưỡng đoạt của ông». Không ký tên.

Chú thích:

[2] Nhân vật trong cuốn truyện cùng tên của Daniel Defoe (Anh). Một thủy thủ bị đắm tàu, sống một mình trên hoang đảo.