← Quay lại trang sách

PHẦN I - Chương 1 SỨ GIẢ

Ngày 7 tháng năm.

Ngày hôm ấy, sáng hôm ấy tôi ở Amsterdam. Từ London tới, sau đó phải đi ngay Frankfurt, Cộng Hòa Liên Bang Đức. Có hẹn trong buổi chiều và ngay tối hôm đó đi Paris ở độ ba bốn ngày, rồi từ Paris bay đi California, qua New York để gặp Catherine. Đây không phải chuyến đi đặc biệt. Trong mấy tháng gần đây tôi đã đi mười lăm hai mươi chuyến như thế này rồi. Ngày 7 tháng năm này cũng không phải là một ngày khác thường.

Tôi không hề mường tượng đến điều đang đợi mình. Không một chút linh cảm nào. Cuộc gặp gỡ bên Hà Lan chán phè. Một người không nhìn được đã nhận xét: “Anh còn rất trẻ!” Còn tôi vẫn đưa ra câu trả lời quen thuộc: “Xin yên tâm, điều đó không lây sang ông đâu mà lo”. Sau các thủ tục xã giao đó, chúng tôi vào việc. Họ cho biết có chuyện làm ăn muốn bàn với tôi. Nói với tôi chuyện đó, họ đề phòng cẩn thận như những tên trộm cắp. Tuy chuyện của họ thật đơn giản: Họ có tiền (không ít) và muốn có nhiều hơn (tất nhiên), họ muốn bỏ vốn vào một công ty đầu tư tư nhân thật hoàn toàn ẩn danh đặt trụ sở ở Curacao trong quần đảo Antilles thuộc Hà Lan cũ, hoặc ở Panama, hoặc Caiman, hoặc Bahamas, hoặc Liechtenstein, hoặc bất cứ đâu cũng được miễn là giữ được bí mật triệt để. Họ mong đợi công ty sẽ thu được lợi nhuận cao nhờ tài quản lí tinh ranh của Franz Cimballi.

Franz Cimballi chính là tôi.

Tóm lại, một chuyện làm ăn kinh điển. Tiếp theo là bài vè cổ truyền về thuế má. Tôi ngồi nghe nhưng đầu nghĩ đến việc khác, cuối cùng tôi bảo: “Tôi hiểu ý mấy ông, xong rồi, mọi việc sẽ tốt đẹp”. Tôi chia tay với họ sau độ một tiếng bàn bạc. Lúc ấy vào khoảng mười một giờ mười lăm.

Tôi đi dọc bến Singel, những chiếc xuồng kết hoa đầy ắp hàng chở đi chợ, nhẹ nhàng lướt trên sông. Đến tận hôm nay trong mũi tôi vẫn còn phảng phất hương thơm những bó hoa ấy, trước mặt vẫn còn hiển hiện sắc mầu của chúng. Đi qua quảng trường Rembrandt[1], có lẽ thời tiết tốt nên xung quanh tượng đài nhà danh họa mới đông người thế kia. Việc tôi đi bộ ngày hôm ấy chắc hẳn là một điều gì đó. Tôi vẫn thường đi bộ khi bàn luận, khi muốn thuyết phục người đối thoại, tôi ít khi ở yên một chỗ, nhưng đi như thế này ngoài đường giữa một thành phố, chứng tỏ tôi đang băn khoăn về một điều gì đó tôi không nhớ lại được.

Đến trưa tôi về khách sạn Amstel. Tay phóng viên Mỹ đã đợi tôi trong đại sảnh. Tôi không nhớ ra anh ta. Anh ta nói:

— Anh quên tôi rồi hả?

— Đừng nghĩ bậy! Tôi đã nhớ tới anh ngay.

Tên anh là gì tôi cũng quên mất rồi: Mac Quelque gì đó. Anh ta cất công từ New York tới chỉ để gặp tôi, rất sung sướng, và phỏng vấn để viết bài cho tạp chí của anh ta đang có ý định dành hẳn một hoặc hai trang nói về tôi.

— Tại sao lại nói về tôi?

— Vì không có mấy người làm nổi một trăm triệu đôla ở tuổi hai lăm.

— Tôi đâu có làm ra một trăm triệu đôla! Một nửa?

— Một nửa cũng được. Một nửa chừng đó cũng giật gân lắm rồi, anh Cimballi. Gọi anh là Franz dược chứ? Vả lại anh còn chưa đến hai lăm nữa kia. Trông mới độ mười tám đôi mươi.

Bất thình lình tôi nhớ ra tên anh ta: MacQueen. Michael MacQueen.

— Nào ta đi, Mike.

— Anh không bằng lòng khi nghe nói mới độ mười tám?

— Còn đỡ hơn nếu anh bảo tôi trông như ông cụ năm mươi.

Adriano Letta từ thang máy bước ra, theo sau là một nhân viên mang hành lí, của anh ta và của tôi. Adriano hất hàm bảo tôi với giọng vui vẻ sôi nổi thường ngày “Máy bay đã sẵn sàng”. Đó là anh chàng nửa Pháp, nửa Lebanon, nửa Hy Lạp nửa Sicilien. Với một tí bã Tunisien, gốc Do Thái và vài giọt máu Tây Ban Nha. Nói được bảy tám thứ tiếng, người gầy gò đen đủi, mỗi năm chỉ cười một lần vào dịp Noel, ngồi gặm con nhím biển mất đúng hai lăm phút để khỏi bỏ sót tí gì, chỉ đoán mưa nắng thôi cũng đòi tiền công. Anh ta làm cho tôi từ bốn năm nay.

Tôi lôi MacQueen đi.

Anh ta hỏi.

— Đi đâu?

— Frankfurt.

— Trên sông Oder hay sông Main?

— Chỗ nào tốt.

Vốn thuộc loại phớt tỉnh hết thảy, anh ta không tỏ ra hoảng hốt. Phớt tỉnh chạy đi kiếm vali của mình rồi đuổi theo chúng tôi. Đúng lúc luồng mắt tôi vừa dừng lại trên khuôn mặt một thiếu phụ trẻ đứng trên hè ngay trước khách sạn, khuôn mặt từa tựa Sarah Kyle gặp ở Kenya rồi ở Hong Kong. Thiếu phụ không chỉ đứng nhìn mà còn chụp ảnh tôi, một mình tôi. Tôi hỏi MacQueen:

— Cô kia đi với anh?

— Chưa gặp bao giờ. Đẹp gái nhỉ!

Cô vẫn chụp tôi, không vội vàng, rất cẩn thận. Tôi tiến lại, mãi đến lúc chỉ còn cách một mét cô ta mới hạ máy xuống. Nhìn tôi chầm chậm, rất thản nhiên, tôi mỉm cười:

— Tình yêu sét đánh?

Khác với Sarah mắt xanh, mắt cô đen láy. Rất điệu, cô từ từ quay người biến vào đám đông. Chỉ có thế.

Chúng tôi lên xe đi sân bay Amsterdam. Lúc 12 giờ 15 ngày 7 tháng năm. MacQueen nói:

— Tôi thử điểm lại từ đầu xem có đúng không. Anh tên là Franz Cimballi. Bốn năm trước đây, lúc hai mươi mốt tuổi anh còn nghèo kiết xác, không một xu dính túi. Bị nhét lên máy bay tống đi, đi bất cứ đâu, càng xa càng tốt, sang Kenya. Một điều mà chính anh cũng cho là kì diệu đã xảy ra. Sau vài tuần anh đã trở nên giầu sụ.

— Chưa giầu.

Đến sân bay. Cái đầu tóc đỏ của Flint thò ra, điếu xì gà muôn thuở bẩn thỉu hôi xì cắm ở mép như khẩu pháo cắm trên tháp xe tăng. Flint chĩa điếu xì gà vào tôi:

— Đi Frankfurt?

— Frankfurt.

— Cổ họng tôi đã được khởi động rồi. Sau ba bốn bảy giây là cất cánh được.

— Chưa giầu, đồng ý, - MacQueen nói tiếp. - Dù sao anh đã kiếm ra khối tiền bên Kenya. Bằng việc đổi tiền, mark Đức đổi shilling Kenya, chuyển thành đôla. Sau đó anh sang Hong Kong.

— Gã điên nào thế? - Flin chỉ vào MacQueen.

Tất cả lên máy bay. Tôi giới thiệu.

— Sau đó sang Hong Kong. Dựng một vụ dùng lặt vặt thật tức cười. Từ ngân hàng Fantomas đến túi đựng cười, máy gãi lưng chạy điện và mở nút đạp chân...

Như mọi bận, Flint cãi nhau với đài chỉ huy. Anh ta thắng nên cuối cùng cũng bay lên được lúc mười ba giờ kém vài giây.

— Bảo là tức cười cũng được, nhưng chính những thứ lặt vặt điên rồ ấy đã mang lại cho anh triệu đôla đầu tiên. Máy bay này của anh?

—Không, cũng như phi công.

Adriano Letta đưa trình nhiều giấy tờ, những dự thảo hợp đồng. Qua cửa máy bay Amsterdam và Zuiderzee đi lùi xa. Tôi giải thích cho MacQueen biết Flint là ai. Không phải là phi công bình thường. Tôi quen anh ta ở khách sạn Breaker bang Florida. Thú thật, khi mới gặp tôi ngỡ đó là một gã ăn xin: Cao lêu nghêu, tóc vàng hoe, cử chỉ lóng ngóng tựa hồ người anh ta được lắp ráp bằng nhiều bộ phận linh tinh, yết hầu lồi ra ngang đầu xì gà như mở đường cho anh đi tới. Nhưng về sau tôi thấy nhân viên khách sạn tỏ vẻ kính nể anh khác thường. Điều tra mới biết anh chàng lố lăng này không phải ai khác, chính là người thừa kế một vương quốc kỹ nghệ hóa chất Hoa Kỳ cỡ bự. Với một điều khoản trữ ngoại trong khế ước ủy thác: Flint không được toàn quyền sử dụng số gia sản khổng lồ được thừa kế, mà chỉ được hưởng một phần, một khoản lợi tức dễ chịu, thế thôi, vì năng lực quản lí tài chính của anh không được tin cậy mấy. Lí do: Lần duy nhất có cơ hội rút được ít tiền anh ta tậu luôn chiếc máy bay, không phải loại máy bay ấm ớ mà một chiếc Gulfstream 2 Grumman dài hai lăm mét, tốc độ bay suýt soát một ngàn kilomètres giờ liền trên sáu ngàn kilomètres. Một lỗ thủng lớn trong ngân sách anh ta không trả xong ngay được, phải trả góp trong ba năm bằng tiền lợi tức được hưởng. Thế là hết nhẵn tiền, mua bánh mỳ kẹp, bít tết mà ăn cũng không nổi. Bữa ngồi trên bờ hồ bơi trong khách sạn nghe anh ta kể chuyện, tôi đã cười ầm lên. Thấy thế anh ta lại phấn khởi, xin đưa cả người lẫn máy bay cho tôi sử dụng. Với điều kiện tôi cáng đáng một nửa số nợ của anh ta: “Franz, anh đi lại luôn, còn tôi thì thích bay...”.

Lúc gần một giờ rưỡi, chúng tôi bay trên vùng Ruhr. Trời quang mây. MacQueen tiếp:

— Dù thế nào đi nữa, triệu đôla đầu tiên này đã kéo theo nhiều triệu khác...

Tôi mỉm cười với tay phóng viên.

— Chẳng có gì là khó hiểu.

—... nhiều triệu khác. Tôi vừa thử phác lại chặng đường mấy năm gần đây của anh. Không dễ dàng. Anh đã chạy từ đầu đến cuối quả đất...

Tiếp viên hàng không dọn ăn cho chúng tôi.

— Không phải là chạy. Tôi nhảy múa thì đúng hơn.

MacQueen tủm tỉm cười gật đầu.

— Phải, vũ khúc Cimballi. Người ta đặt cho anh biệt hiệu: Franz nhảy múa.

Đúng lúc ấy xảy ra sự kiện đầu tiên, của hai sự kiện đánh dấu ngày 7 tháng năm này. Nghe Flint gọi, Adriano Letta vào buồng lái. Và quay ra lúc MacQueen hỏi tôi:

— Điệu múa nào đã giúp anh kiếm được bốn năm chục triệu đôla trong có bốn năm.

Adriano đưa tôi mảnh giấy. Tôi đọc và nổ bùng. Tôi đứng dậy đi lại giữa các dãy ghế. Xuýt nữa thì gào lên. Tính tôi xưa nay vốn bồng bột. Adriano thản nhiên nhìn tôi. MacQueen sửng sốt hỏi:

— Tin dữ à?

Tôi những muốn ôm chầm lấy anh ta. Tin dữ? Một tin dữ? Bức Telex này là bức hay nhất có lẽ không bao giờ tôi nhận được một lần thứ hai! Tôi đã có một thằng con trai. Catherine vừa sinh nó ở Los Angeles, sớm hơn dự tính độ mười hai, mười lăm ngày.

Ba phút sau Flint, “bát hết” theo cách nói của anh ta. Chúng tôi bay theo hướng Tây. Giá có bảo Flint bay sang Trung Quốc anh ta cũng không hề do dự. Vậy bay sang California thì...

— Xuống Los Angeles hả Franz

— Los Angeles.

— Nhưng không hạ được xuống mái bệnh viện đâu đấy, xin nói trước.

— Cứ thử xem.

Tôi hoãn chưa tới Frankfurt, họ cứ việc chờ. Tôi điện báo cho Catherine biết tôi sắp về, báo cho mọi nơi. Tiếp tục gọi thêm nữa, báo tin, mời mọc, hết lòng mong muốn được mọi người chia sẻ niềm vui. Dừng cánh ở London, New York. Và tất nhiên ở Paris nữa.

Gặp Marc Lavater tại Paris.

Quen nhau từ bốn năm trước, sau một đêm cách đây bốn năm. Tôi đã nhờ cậy anh ta, nhờ đến kiến thức về luật của anh. Marc Lavater đáng tuổi làm bố tôi: Hơn tôi hai mươi lăm tuổi. Có người nào đó đã từng nói: “Không thể có bạn, chỉ có những khoảnh khắc tình bạn thôi. Nhưng với Lavater, có thể nói khoảnh khắc ấy đã kéo dài từ bốn năm nay. Như thường lệ anh bình thản bảo tôi:

— Mình đang chén, phải bỏ dở món hors oeuvre để ra đón cậu. Mới nghĩ ra trò gì vậy? Bụng vẫn đói nguyên.

— Champagne, trứng cá muối, tất cả đã sẵn sàng. Đón tiếp nồng hậu trên máy bay. Chị Françoise đâu?

Françoise Lavater, vợ anh ta.

— Ở Chagny. Mình đã gọi điện, sẽ bay chuyến đầu tiên đi Los Angeles và đón chúng ta ở đó.

Marc nhướng cao lông mày.

— Thế ta sẽ làm gì ở Los Angeles.

— Làm lễ. Anh phải gọi tôi bằng chức bố.

***

Tại London, gặp gã Thổ. Hắn và cô Ute Jenssen. Không thể không nhận ra Ute: Cao một mét tám sáu, tám bảy. Không đi tất, nhưng giầy gót cao mười hai phân. Cô hôn lên môi tôi, ôm hôn cả Flint và MacQueen, trừ Adriano đã trốn vào toilet. Gã Thổ giương to đôi mắt đàn bà nhìn tôi:

— Lễ gì, Franzy?

— Lễ. Mà xin dừng gọi tôi là Franzy.

Nụ cười rất rộng: “Vui lòng, anh chi tiền mà lị”.

Quen thói xưa nay, gã Thổ không đi một mình mà dắt theo ba bốn ả đẹp mê hồn, thiếu khoản đó gã không bao giờ chịu đi đâu. Các ả vừa làm đầy tớ vừa kiêm tì thiếp cho gã. Vừa đặt chân lên máy bay là các ả thoải mái liền, có nghĩa là tụt hết váy áo. MacQueen trố mắt, rõ ràng anh ta ngạc nhiêm hết sức. Thì thầm vào tai tôi: “Đấy có phải tay vẫn gọi là gã Thổ không? Gã chủ nợ quốc tế nổi tiếng là không bao giờ chấp nhận bất cứ một sự thiếu nợ nào” -“Chính hắn” - “Hình như hơi trác táng thì phải”. Tôi cười phá lên.

— Này chàng Thổ, MacQueen cho là cậu hơi trác táng đấy.

Gã Thổ mơn man tay phóng viên bằng cái nhìn một mí. Ở địa vị MacQueen tôi sẽ cảnh giác ngay: Gã Thổ có thói hôn lên môi đàn ông. Nên tôi lúc nào cùng sẵn sàng nhảy lui một bước.

— Hơi à? - Gã Thổ reo lên. - Hơi là thế nào? Sao lại nửa vời thế nhỉ?

***

Chúng tôi vượt Đại Tây Dương trong cơn vui thực sự, đến New York có Li và Liu ra đón.

Họ là người Trung Quốc, nghe tên đủ biết. Tôi không có cách phân biệt nổi Li với Liu và ngược lại. Mối tình bè bạn với nhau từ Hong Kong, càng thân thiết hơn khi họ sang lập nghiệp ở San Francisco, mang theo khoảng sáu chục triệu đôla. Khiếu hài hước của họ đạt đến mức rồ dại, xung quanh có thể coi họ là những thằng điên. Nghĩ như vậy là sai, sai to. Cứ làm ăn với họ là tỉnh ngộ liền. Hai cậu hề chai lì này có tài đánh hơi rất giỏi những chỗ đầu tư có lợi nhất. Bằng chứng: Họ đã đầu tư sản xuất một bộ “siêu phim” về đề tài “siêu khoa học viễn tưởng” miêu tả cuộc chiến trên các vì sao. Bộ phim đang nghiền nát một kỉ lục về doanh thu trên toàn thế giới.

Họ đón tôi ở sân bay La Guardia, cải trang thành hai tên cướp biển Viking thời xưa. Tỉnh khô dưới những đuôi sam vàng óng, mũ hình sừng bò tót. Trông rất ngoạn mục. Lại còn bỏ thì giờ đi mua sắm quà cáp cho cậu quí tử mới lọt lòng của tôi; tạm kể: Một con gấu bông cao hai mét, bảy đoàn tàu chạy điện và một con ngựa lùn bằng thật. “Chúng tôi đã cho mang ngựa đến thẳng bệnh viện”. Những của quái này đủ sức làm điều đó. Không phải chỉ có họ lên máy bay đi với chúng tôi từ New York, còn có hai trong số luật sư của tôi nữa, Rosen và Lupino. Tôi không rủ người thứ ba, Philip Vandenberg. Tuy nể trọng trình độ nắm luật của anh ta nhưng tôi ghét con người, vả lại nếu mời chắc chắn hắn anh ta cũng từ chối, tôi biết rõ như vậy.

Flint xin tạm dừng độ một tiếng rưỡi để kiểm tra kĩ thuật lấy xăng. Lúc ấy theo giờ Paris thì gần nửa đêm, ở New York này là năm giờ chiều và Los Angeles là mười bốn giờ. Tôi bỏ mặc cả băng ngồi trong phòng khách sân bay để đi gọi diện cho Catherine.

— Em mệt không?

— Hơi hơi,

— Con thế nào?

Tôi hỏi “Con” vì thằng đó chưa có tên, tôi phá lên cười một mình trong cabin. Niềm vui không tưởng tượng nổi, trong lòng sung sướng dạt dào. Tôi có thể múa lên được. Tuy trong trong tiếng nói xa vời của Catherine trong ống nghe có một cái gì đó làm tôi băn khoăn và cuối cùng lo lắng.

— Catherine, có chuyện gì đấy? Ổn cả chứ?

“Ổn”, cô chỉ nói thế, có lẽ vì còn đang mệt. Tôi không ở nhà. Mẹ cô cũng không. Cô đã muốn về Pháp đẻ.

— Anh rất khẩn trương, đến mức tối đa. Sau nửa giờ bốn lăm phút nữa anh sẽ lên đường tiếp. Đâu có ngờ em nhanh nhẹn thế.

Im lặng.

Catherine?

— Dạ.

— Anh mừng quá, muốn hét lên thật to. Cảm ơn em. Anh yêu em.

Cô gác máy trước. Tôi ra khỏi cabin, và mọi chuyện bắt đầu từ đây.

Chú thích:

[1] Rembrandt (1606 - 1669), họa sĩ nổi tiếng Hà Lan.