Chương 4
Bữa trước gã người Anh đã có nói về những sa bàn vùng núi San Bernardino nhưng tôi chưa trông thấy. Bây giờ chúng đang ở trước mắt tôi, đặt trên thảm phòng tiếp khách trong ngôi nhà ở Harrison, vùng ngoại ô dành cho nhà ở, phía Đông Bắc New York. Vì đã nhiều ngày nhiều giờ len lỏi qua các vực sâu, các mỏm đá, cánh rừng nơi con trai tôi mất tích, nên tôi càng bị cuốn hút bởi chiếc sa bàn đắp rất công phu tỉ mỉ này. Ở đây, tôi nhận ra nơi đã trượt ngã, khúc gỗ tôi đã nhiều lần bước qua, cả con suối li ti tôi đã lần theo hòng tìm thấy hốc nước có thể chứa một thi thể trẻ con.
Gã người Anh hỏi cặp vợ chồng đứng tuổi: “Ông bà có nhận ra vùng này không?” Im lặng. Hai người tên là Bertram và Shirley Strong, nằm trong số mười sáu người (theo thẩm định của gã người Anh) do máy tính dựa vào đối chất và chọn lọc lời khai của hàng nghìn nhân chứng mà chỉ rõ họ có mặt tại hiện trường từ một giờ chiều 29 tháng giêng đến giữa trưa ngày 30.
Sau một lát người đàn ông ngồi xổm xuống sàn. Trạc năm mươi, tóc vàng, hơi hói, mắt xanh mơ mộng. Ban nãy, khi chúng tôi vừa đến, ông ta giới thiệu mình là chủ một xưởng điện tử nhỏ ở New Rosen nhưng ước mơ lâu nay của ông là lên sân khấu hát trong các vở ca hài kịch.
— Chắc đây là con đường vòng phải không? Chạy quanh chân dãy San Bernadino.
Gã người Anh lấy tập ảnh màu chụp các chi tiết trên địa hình bổ sung cho sa bàn.
— Chúng tôi đã dừng lại ở đây. Đỗ xe ở đây, dưới bóng cây này không trông thấy túp lều.
— Nó cách đấy chừng một dặm, và ở trên cao nên ông không thấy.
— Sau đó chúng tôi đi trên con đường mòn dọc theo suối. Đúng không Shirl?
Người đàn bà công nhận và nói:
— Cô ấy ở chỗ này, đứng giữa tảng đá. Bế con trên tay. Có vẻ như...
Bà ngập ngừng, bối rối liếc nhìn tôi. Giọng tôi khàn đặc:
— Xin cứ tiếp.
— Cô ấy như buồn ngủ... Tôi cảm thấy cô ấy vừa uống... Tôi rất buồn lòng...
Câu cuối cùng là dành cho tôi.
Gã người Anh bảo: “Xin cứ nói tiếp”.
Shirley Strong đã hỏi Catherine: “Mọi việc ổn cả chứ?”
Cô ấy đáp: “Tốt”. Giọng Pháp. Bảo là ở gần đây, chị đừng lo lắng gì cho em và... và chồng cô đang ở cùng cô, sắp tới đây...
— Đứa bé thì sao?
— Nằm trên tay mẹ, nhìn chúng tôi cười. Một thằng bé rất kháu, mắt to ánh vàng, cổ đeo mề đay vàng...
Tấm mề đay của Joachim.
Gã người Anh cho họ xem những tấm ảnh chụp Marc Andrea. Không nghi ngờ gì cả, đúng nó.
— Sau đó chúng tôi tiếp tục xuống theo con suối. Tôi quay lại và thấy cô ấy bước đi. Về phía này...
Bà chỉ tay vào dãy mô đá.
— Đây... Cô đứng dưới gốc cây này khi tôi nhìn cô lần cuối...Cô lại đi... Có vẻ hơi do dự...
Họ còn cho biết: Lúc ấy độ ba giờ rưỡi chiều 29 tháng giêng. Họ dạo chơi trong khoảng hai mươi phút. Rồi băng qua suối ở quãng dưới. Và đi lên phía Bắc. Vì vậy họ cho rằng họ đã đi song song với Catherine nhưng ở phía dưới dốc cách cô chừng hai trăm mét. Họ có gặp ai không? Có, một cặp vợ chồng đứng tuổi (Gã người Anh đã xác minh họ lên đường thăm thú vùng Thái Bình Dương từ 30 tháng giêng). Họ còn thấy một đôi khác ở xa, đi ngược chiều Catherine. Đôi này trẻ, cô gái tóc vàng, chỉ biết có thế thôi. Có nghe thấy gì không? Tiếng nhạc. Tiếng cười hát có ghi ta đệm theo. Bertram Strong nghe hình như có cả tiếng harmonica.
— Những người đàn hát có thể ở chỗ này...
Họ chỉ cái bãi do ngành kiểm lâm qui hoạch. Từ đây đến chỗ họ trông thấy Catherine lần cuối vào khoảng bốn trăm mét theo đường thẳng.
Cặp Strong không cung cấp được gì hơn. Khi đi ngang trảng về lấy xe đậu bên lề con đường vòng, trong trảng không còn bóng người. Họ về thẳng Los Angeles. Họ đi khỏi vùng San Bernardino, vào lúc năm giờ. Sở dĩ họ không đáp ứng lời kêu gọi ra khai báo đăng tải trên báo và các phương tiện thông tin khác vì đang trên đường đi Argentina, đến Buenos Aires thăm con trai cả Richard làm việc ở đại sứ quán Hoa Kỳ. Và mới trở lại được mười ngày.
— Nếu chúng tôi biết được chuyện này...
Cả hai ông bà đều tỏ ra tử tế làm chúng tôi cảm động. Tôi đi ra ngoài cùng gã người Anh. Sau một hồi im lặng tưởng chừng vô tận anh ta mới nói:
— Tôi đã hỏi bà nhà ta. Bà không còn nhớ được tí gì về cuộc gặp gỡ vợ chồng Strong.
Anh ta đã hỏi vợ tôi. Còn tôi thì không có cách nào tiếp xúc với cô ấy.
— Vợ tôi ra sao?
— Không ổn lắm. Bà nhà tin rằng cậu con đã chết rồi... và lỗi tại bà.
— Hiện đang ở đâu?
Anh lưỡng lự, rồi nói: “Thưa ông Cimballi, tôi chỉ gặp được bà nhà trong điều kiện không có ông ở đấy. Ở Paris, trong đại sảnh một khách sạn. Bố mẹ của bà, nhất là ông bố, canh chừng bà... có thể nói là hết sức cẩn mật...”
Chúng tôi lên xe về New York.
— Dù sao, - Gã người Anh nói tiếp, - xin ông biết cho là chúng tôi có đạt được những tiến bộ. Tất cả có mười sáu người lúc ấy có mặt trong vùng chưa xác minh được. Chúng tôi đã tìm ra hai người là cặp vợ chồng đã đi xa, và bây giờ là cặp Strong bên Argentina. Xin nhớ lại các con số: Trong một quãng thời gian đầu đã có bốn trăm lẻ bảy người đi qua vùng tìm kiếm đúng vào một thời điểm do chúng tôi xác định. Trong số bốn trăm lẻ bảy ấy, chúng tôi đã tìm ra ba trăm chín lăm người, lấy lời khai tỉ mỉ nhờ vậy đã lập lại đường đi của họ hết sức chính xác.
— Còn mười hai người nữa.
— Mà chúng tôi vừa ghi nhận thêm được vài đặc điểm, như có đàn ghita, và có lẽ cả harmonica.
— Nhưng anh không dám chắc chỉ có từng ấy. Hàng đông người đến đó anh làm sao biết hết. Nhất là nếu họ nấp kín.
Anh ta khẽ lắc đầu, với vẻ kiên nhẫn lịch sự làm tôi phát bực.
— Tôi không tin có chuyện đó, thưa ông. Chỉ có hai con đường dẫn đến túp lều: Từ con đường vòng thúng và từ con đường mòn leo lên đó nếu xuất phát ở Hai Chín Cây Cọ. Không đâu, tôi cho rằng người biết rõ số phận của con ông phải nằm trong mười hai người này.
Tức là một đôi còn trẻ và hai tốp cắm trại.
— Xin ông hãy tin là công việc của chúng tôi đang tiến triển. Chúng tôi đã sàng lọc kỹ tất cả những ai đã thuê mướn lều vải và đồ cắm trại, tất cả các hãng xe ca, các khách sạn, các nhà trọ thanh niên, các trung tâm YMCA[27], các nhân viên thu thuế cầu đường, thu tiền cắm trại, nhân viên kiểm lâm và cảnh sát địa phương. Ông có hình dung được số người chúng tôi đã hỏi từ đầu tháng hai đến giờ không? Đây là con số đến ngày hôm qua: Bảy ngàn hai trăm bốn ba. Thưa ông Cimballi, những kẻ bữa đó đến cắm trại không xa bà nhà ta vào lúc cặp Strong gặp bà không phải là những kẻ xuất hiện từ cõi hư không. Chúng tồn tại hẳn hoi. Chúng có lý do giấu mặt, sớm muộn sẽ tìm ra tung tích chúng.
Callaway điện về khách sạn Pierre ở New York:
— Chúng bám theo ông tới Harrison. Bọn của Maclves.
— Anh bám theo chúng?
— Vâng.
Anh ta gọi điện không phải để báo tin về cuộc bám đuôi tôi biết rất rõ. Anh tiếp:
—Tôi đã gặp Maclves. Tôi gọi cho hắn đàng hoàng tựa như vừa sực nhớ lại tình bạn cũ. Tôi rủ hắn cộng tác với tôi, để tiến hành cuộc điều tra lớn do một hãng ở Los Angeles đặt, vì hãng có những quyền lợi cả ở bên bờ biển phía Đông, cả ở bên California. Tóm lại, rủ hắn cùng hợp tác làm ăn chung với nhau. Hắn tỏ ý tiếc phải từ chối: Cả 2 kíp đang kẹt trong một vụ bận rộn đến nỗi đã phải tuyển thêm người trong suốt hơn một năm qua, đến bây giờ mới vãn. Tôi hỏi: Còn kẹt bao lâu? Ít nhất ba tháng nữa, có lẽ đến tháng chín. Hứa hẹn trả tiền công hậu hĩ để mồi chài hắn ta nhưng không ăn. Hắn vừa cười vừa đáp: Hiện cũng đang được trả xấp xỉ chừng ấy để thực hiện một cuộc bám đuôi dễ ợt, chỉ phải cái đối tượng di chuyển không ngừng. Đối tượng là ông.
— Hiểu rồi. Đừng kể lể cuộc đời của anh nữa.
— Tôi hỏi ai trả hắn bộn tiền thế để thuê làm công việc tầm thường ấy. Tất nhiên hắn không chịu nói. Ông dặn tôi đừng tiếc tiền; tin này sẽ làm ông tốn thêm vài ngàn đôla nữa: Một cô thư ký đã phun ra là Maclves gửi các tin tức về ông cho một luật sư Chicago tên là Henry Goldwater. Tôi liền cử người tới ông luật sư. Có kết quả khá nhanh: Người của tôi vừa từ London báo cáo về: Goldwater ăn trưa ở đó với một người ông biết rõ...
— Còn ai khác ngoài Erwin Horst.
Callaway bảo:
— Không phải, Người gặp luật sư Goldwater ở London tên là Alec Jeffries.
Có phải bố dượng vợ đấy không?
*Ngày 2 tháng tư tôi đổ bộ xuống Paris, hai gã thợ ảnh của Yates đã chực sẵn, bộ mặt lãnh đạm như những phó nhòm nhà nghề xưa nay vẫn coi tất cả những gì lọt vào ống kính đều là chuyện ở thế giới khác, dù đó là cảnh khủng khiếp nhất của các cuộc chiến tranh. Đã quá quen gặp họ từ bao lâu nay rồi nên hầu như tôi không trông thấy những kẻ câm lặng đó nữa. Tuy nhiên không phải lúc nào họ cũng bám gót tôi; họ xuất hiện thất thường có khi hai ba tuần không ló mặt, trái lại có khi họ lẵng nhẵng theo tôi trọn một ngày, có khi mấy ngày liền.
Như mọi bận thường như vậy tôi vừa trèo lên taxi là họ ngừng quấy rối tôi. Tôi vào quán cà phê gần Trường Quân Sự, trên đại lộ Suffren. Một chị hầu phòng nhấc máy:
— Tôi muốn gặp bà Jeffries.
— Ông là ai ạ?
Từ bữa Catherine tỉnh lại trong bệnh viện Palm Springs, tôi chưa hề gặp lại bố mẹ vợ. Trên kia tôi đã nói: Tất cả mọi báo cáo về cuộc điều tra vụ con tôi mất tích do gã người Anh gửi tới đều được tôi chuyển về chỗ họ nhưng họ không thèm trả lời. Tôi đã ba lần thử gọi điện cho mẹ vợ, một lần gửi thư. Không kết quả. Lần nào cũng nghe trả lời: Bà ấy không muốn tiếp chuyện, thư cũng không được phúc đáp. Nhưng hôm nay theo Callaway cho biết, bố dượng vợ thân thương đang ở bên Anh. Tôi trả lời chị hầu phòng.
— Tôi là Goldwater. Henry Goldwater.
Im lặng hồi lâu, rồi tiếng bà mẹ Catherine: “Ông là Henry Goldwater? Tôi không được quen biết...”
Tôi vội cướp lời nói thật nhanh: “Xin đừng cắt. Điều tôi sắp nói với bà rất quan trọng”.
Im lặng. Được cái là liên lạc không bị cắt. Tôi nói tiếp: “Nhất thiết tôi phải nói với bà. Xin bà nghe cho”.
Im lặng.
— Tôi van bà.
Bà không muốn tôi lên nhà, nhưng nhận lời tới gặp tôi. Bà đang đứng trước mặt tôi trong quán cà phê nơi tôi gọi điện, cố tình quay mặt nhìn chăm chú qua cửa kính trông ra đại lộ La Motte Picquet. Vì đây là câu chuyện tôi nắm vững nhất nên tôi mở đầu bằng cách tóm tắt điều gã người Anh gọi là sự tiến bộ trong cuộc điều tra. Bà lặng lẽ ngồi nghe, mắt hơi mở rộng. Bà gầy và già đi nhiều. Cuối cùng lắc đầu: “Này Franz, tôi không còn hy vọng gì. Cháu tôi đã chết thật rồi, tự dối mình làm gì nữa?”
— Tôi sẽ không bỏ cuộc. Không bao giờ.
— Chính đó là điều làm chúng ta xa cách nhau.
— Tôi đâu có lỗi trong tất cả những chuyện xảy ra. Bất công quá!
Bà vẫn tránh né mắt nhìn của tôi, uống một ngụm nhỏ nước chè. Im lặng. Tôi hỏi: “Bà không nghe thấy tên Henry Goldwater sao?”
Bà khẽ nhún vai tỏ ý coi thường, khinh bỉ. Cái tên Goldwater chắc là của một nhân vật trong thế giới riêng của tôi nhung nhúc cá mập ngành tài chính, bọn phiêu lưu xảo quyệt và bọn quá khích. Thế giới riêng của bà ở đại lộ Suffren, ở Fournac hoặc những nơi tương tự. Ở đó không ai đầu cơ, không ai giầu sụ lên trong có ba bốn năm bằng những mánh khóe “khó thú nhận”, của cải có trong tay đều là do ông nội hoặc cụ kị để lại cho, đều là những khoản có được nhờ làm ăn lương thiện, tất nhiên. Những người của thế giới ấy không bỏ thì giờ chạy khắp trái đất cùng với một gã Thổ, một cô gái Đan Mạch hoặc những chú Tàu, họ chỉ sáng sáng đến văn phòng đọc tờ Le Figaro (thậm chí tờ Người Quan sát Mới để biểu thị cảm tình đối với chủ nghĩa xã hội).
— Không nghe thấy tên ấy.
Tôi bèn thuật lại tất cả những điều Callaway cho biết, cả mối quan hệ kỳ quặc giữa chồng bà với những kẻ theo dõi tôi từ một năm rưỡi qua.
Nhiều lúc rất lâu, tưởng chừng bà không để tai nghe tôi nói. Nhưng cuối cùng bà thản nhiên, lạnh lùng bảo: “Anh bịa ra tất cả. Xưa nay anh vẫn căm ghét Alec”.
Bà chậm rãi, mệt mỏi cầm túi xách và găng tay.
— Nhưng tôi sẽ kể cho nhà tôi nghe. Nếu ông ấy thực sự làm cái trò khiến tôi rất ngạc nhiên là bằng cách này cách khác chú ý đến anh để trả mối thù nào đó, tôi sẽ bảo ông ấy thôi đi. Tôi chỉ có một mụn con gái. Con của nó đã chết rồi, nó tự coi là phải chịu trách nhiệm nên đã có ý định tự sát. Tôi đã nói với anh hết lời, Franz, tốt hơn hết là anh nên chấm dứt viết thư, gọi điện cho tôi.
*Adriano Letta đến Paris tìm tôi. Mấy tháng gần đây anh đã nhiều lần liên lạc chủ yếu để báo cáo tình hình triển khai Quần Vợt Trên Trời. Ngoài ra tôi còn yêu cầu anh tìm hiểu xem Hassan Fezzali ra sao, vì sao anh biết tiếng Ả Rập. Anh ta chả biết được gì, hoặc biết không đáng kể.
— Nhưng cảnh sát đã mở cuộc điều tra! Làm sao có thể biến mất tăm như thế được.
— Cảnh sát có điều tra, chính thức mà nói, cuộc điều tra chưa kết thúc.
Thực ra cảnh sát Ai Cập tìm mọi cách tránh né. Sáng ngày 22 tháng giêng Hassan Fezzali có mặt ở Cairo, điều này là chắc chắn. Lão đã ở - tôi vô tình dùng thì quá khứ: Đã ở - trong căn nhà nhỏ tại phường bình dân Zeïnhoun. Từ đó lão ra đi và biến mất một cách hết sức bí ẩn. Lão có văn phòng chính thức thuê hai thư ký tại phố Faggalah trong khu Syria - Liban của thủ đô Ai Cập. Bình thường ra lão phải tới văn phòng lúc chín giờ ba mươi. Các thư kí không thấy lão đến. Họ biết đến trưa ông chủ họ phải bay sang Ý. Tuy vậy họ không lo ngại mấy vì lúc gần trưa Fezzali đã tự mình gọi điện báo cho họ biết lão sẽ không tới văn phòng vì mắc một cuộc hẹn khác và sẽ lên thẳng máy bay. Rồi không thấy đâu nữa.
Adriano lắc đầu. Anh đã hỏi kỹ các thư kí, đã nói chuyện với viên thanh tra đang thận trọng mở cuộc điều tra chính thức.
— Điều đã biết chắc chắn là Fezzali không lên máy bay đi Roma. Điều chưa rõ là: Lão làm những gì từ lúc rời khỏi nhà, tự tay lái xe đi. Và không rõ lão từ đâu gọi điện cho thư ký, thậm chí có đúng lão gọi không.
— Xe lão ra sao?
— Tìm thấy trang bãi đậu xe của Shepheards. Một khách sạn.
— Biết rồi. Sao anh cho rằng cảnh sát Cairo thận trọng trong vụ này?
Vì cách đây năm sáu năm, Hassan Fezzali đã từng có chuyện mắc mớ với các người Palestine của Habache. Họ đã bắn vào lão, lái xe bị thương nặng, còn lão vô sự. Cảnh sát Cairo cho rằng - như thế đỡ mệt hơn mở cuộc điều tra kỹ lưỡng - hồi đó Fezzali đã bỏ tiền mua sự yên thân, và bây giờ có thể bị khảo tiền thêm. Nhưng lão không chịu chi. Trong trường hợp ấy họ đã thủ tiêu lão, và chôn dưới chân kim tự tháp (tuy cảnh sát không thực tin lắm) hoặc đã bắt cóc lão và giữ lão cho tới khi nhận được tiền chuộc.
Adriano đọc thấy sự hoài nghi trong mắt tôi. Anh nhún vai: “Đó là cách giải thích của cảnh sát Cairo. Để tránh khỏi mệt xác điều tra”.
— Đã xảy ra chuyện như thế bao giờ chưa? Với những nhà kinh doanh khác?
— Nhiều rồi. Nhất là với những người Syria và người Liban. Tất nhiên không phải lần nào cũng do người Palestine ra tay. Dư luận nói nhiều đến bọn Sicilia, bọn Mafia. Nhưng nói chung những người bị bắt thường nộp tiền chuộc rất nhanh. Nếu không xác họ sẽ được bỏ vào trong hòm.
— Thuyết của anh không đứng được, Adriano. Không thể có sự trùng hợp kỳ lạ thế được: Fezzali có hẹn với Lavater ở Sorrente, hắn vừa cầm mười triệu đôla của tôi, số tiền tôi chuyển vào tài khoản chung, thế mà lại cho rằng, hắn bị bắt cóc? Không đúng.
Vả lại trong công việc chung này, điều có lợi cho tôi và cho Marc, cũng có lợi cho Hassan: Lão cũng đã góp mười chín triệu đôla số tiền ấy cũng bị giam và không sinh lời.
Tôi chợt nhớ ra.
“Có người gọi điện cho Marc Lavater ở khách sạn tại Sorrente báo tin Fezzali không đến theo hẹn và sẽ không xuất hiện nữa. Người đó là ai?”
Chẳng ai biết, Adriano đã ghi âm tiếng nói của hai viên thư ký mở băng cho người gác đêm khách sạn Parco Principi nghe. Không kết quả.
— Cú điện thoại ấy từ Cairo tới?
Người ta lần theo dấu vết: Nó cũng được gửi đi từ khách sạn Shepheards, nơi tìm thấy ôtô Fezzali trong bãi đậu xe. Nhưng nhân viên quên hẳn không biết ai đã nhờ họ nối liên lạc với Sorrente. Tin đồn bọn Mafia và các toán biệt kích cực đoan người Palestine nhúng tay vào vụ này cũng không giúp họ nhớ lại được tí gì.
Sự thực đã rành rành, Fezzali mất tích trong ngày 22 tháng giêng Nhưng người ta đã cố ý - tôi cũng nghĩ như Marc rằng Hassan có khả năng là nạn nhân hơn là kẻ chủ mưu trong vụ này - cố ý không báo với Lavater rằng sự mất tích này là vĩnh viễn. Không nghi ngờ gì nữa: Người ta đã hành động để giam chặt mười triệu đôla của tôi. Lúc này chúng chẳng còn tác dụng gì nữa, coi như tôi không có.
Và không được sử dụng, dù có cần đến chúng trong một công việc sinh tử.
*Marc Lavater nằm ngửa trên giường. Bảo tôi phải nằm bất động như thế hăm bốn giờ trong ngày. Anh khẽ mỉm cười buồn bã.
— Khó lòng đi xa được.
— Thử chơi quần vợt xem. Tôi sẽ làm cho anh một sân bóng, tôi có bạn bè quen biết trong nghề.
Ngôi nhà ở Chagny tối và yên tĩnh, chỗ nào cũng thấy gỗ sồi đen bóng dưới dạng rui, mè, sàn nhà, đôi khi là những tấm phủ tường nhà, nhiều hơn cả là các đồ gỗ nặng nề, chạm trổ; những đồ gỗ này đã chứng kiến hết thế hệ này đến thế hệ sau ra đời và chết đi mà không thèm đếm xỉa. Phòng khách lớn có chất lượng âm thanh đặc biệt tạo nên bởi những tiếng rung nhẹ của gỗ vây bọc quanh ta vẫn đang sống, tuy ba bốn trăm năm đã trôi qua. Tôi thấy lại mình trong căn phòng này, trong ngôi nhà này, nơi tôi đến ẩn trước khi cưới vợ, lúc vợ chồng Lavater đi nghỉ và nhường nhà cho tôi.
— Anh đã đi với chị Françoise về Yucatan. Tuyệt thật! Đi Yucatan!
— Nơi rất đẹp.
Hòa lẫn mùi thơm xi đánh gỗ có một mùi thơm khác, tôi chịu không biết mùi gì.
— Hoa dừa cạn đấy! Marie Thérèse và Françoise buộc mình phải uống đến hàng chục lít. Đồ uống của các cụ già xứ Bourgogne.
— Tinh thần anh rất vững, thật đấy.
Cannat người giúp việc Marc cùng đến Chagny với tôi, chở tôi trên xe của anh. Marc bảo: “Để hai chúng mình ngồi riêng với nhau một chút được chứ Pierre?” Cannat rời phòng, sự im lặng tiếp theo đó kéo dài đến mức chúng tôi có đủ thì giờ nhìn qua cửa sổ thấy anh ta đi vào dưới bóng cây. Marc hỏi: “Cậu ấy đã nói cho anh biết làm thế nào để rút tiền ở Liechtenstein chưa?”
Tôi gật đầu: “Cậu ấy còn cho biết: Phải mất nhiều tháng, có khi nhiều năm”.
— Trừ khi ta chứng minh được Hassan đã chết.
— Không bao giờ chứng minh nổi. Tính đến chuyện đó thật vô tích sự.
Đến lượt tôi thuật lại những tin tức do Adriano Letta lượm được.
— Chúng mình bị sa bẫy rồi, anh Marc.
— Lỗi tại tôi cả.
— Đúng, lỗi tại anh. Còn tất cả những chuyện xảy ra ở nơi khác thì do lỗi của tôi, kể cả trận động đất mới đây. Tôi đề nghị tổ chức một lễ chuộc tội tập thể giữa anh và tôi, ta sẽ tự cầm roi quất và người, rồi tưới xăng và quẹt que diêm. Đồng thời tự mổ bụng nữa cho chắc ăn.
— Bình tĩnh nào.
— Vậy, đừng rên rỉ nữa.
Tôi đứng lên, chân như có kiến bò, bắt đầu đi lại trong căn phòng dài và thấp, cuối phòng có thư viện rất đẹp nối vào. Tít trong cùng có lò sưởi xây đá, cành nho khô đang cháy đượm.
— Anh Marc, tôi có trong tay bốn lăm triệu đôla.
— Tôi không biết anh giàu đến thế cơ đấy.
— Giàu thật sự.
— Có tính mười triệu bên Liechtenstein không?
— Không. Có bốn lăm triệu đôla tức hai mươi tỉ hai trăm năm mươi triệu xu, chưa tính khoản kia. Cạm bẫy nào giết được tôi? Không thể có. Nói để anh biết tôi sẽ làm gì. Trước hết tìm cho ra thằng con, nhất định nó còn sống vì tôi tin như thế. Tìm được rồi tôi sẽ xông thẳng vào bọn nó: Yahl, Horst, Yates và tay bố vợ thợ săn gà gô. Nện vỡ mặt chúng nó, không còn sót gì nhiều trên đường tôi qua.
Anh đáp lại với vẻ hung hăng chưa bao giờ có:
— Ai địch nổi Cimballi! Ai ngăn nổi anh ta? Xưa nay đã có ai chặn được anh ta?
— Cứ nói nữa đi, tôi bỏ ngoài tai hết.
Nhưng Marc không kìm lại được nữa: “Này Franz, xét đến cùng cậu chẳng khác gì Martin Yahl. Cũng cuồng nhiệt đến điên rồ và vô nhân đạo như nhau. Cậu và lão ta sinh ra để hòa hợp với nhau chứ không phải để chống đối nhau. Các người...”
Tôi bỏ ra ngoài, ngồi vào tay lái chiếc xe chở tôi tới đây. Mặc kệ Cannat xoay xở lấy.
Callaway gọi điện: “Chúng bám ông về Chagny. Đi theo ông từ khi ông trở về Paris và bốn ngày sau đó không rời nửa bước. Sau đó chúng nhả ra.”
— Không bám tôi nữa?
— Không.
— Tôi muốn tin chắc như vậy.
— Ông có thể tin. Chúng đã thuê hai gã người Pháp giúp sức chúng trong thời gian ông ở lại Pháp. Nhưng vừa nói hủy hợp đồng. Hai tên của Maclves cách đây non một tiếng đã lên máy bay trở về New York. Chưa hết, đích thân Maclves vừa điện cho tôi, hỏi về việc cộng tác làm chung có còn thực hiện nữa không. Hắn nói từ giờ trở đi hắn được rảnh rang.
Kết quả sự can thiệp của bà mẹ Catherine với ông chồng? Hay là do một nguyên nhân nào khác tôi không đoán ra?
— Callaway, tôi yêu cầu anh chú ý đến luật sư Goldwater.
— Rồi. Một luật sư của giới kinh doanh. Trong các thân chủ của lão, có bọn ở Chicago đã từng cạnh tranh với ông trong môn quần vợt.
— Nghĩa là Goldwater quen biết Erwin Horst?
— Nhất định rồi.
*Tôi đi xuống phía Nam, về St. Tropez. Ngôi nhà tôi chào đời ở ngay rìa bãi tắm Pampelonne sát gần bờ cát, chỉ ngăn cách bằng bức tường rào mở ra mấy bậc thang và cánh cửa thấp. Catherine đã định sửa sang lại đôi chút, phá bỏ vài bức vách, thay đổi chỗ này chỗ nọ. Tôi phản đối, cuối cùng cô chấp thuận, nên hiện giờ La Capila hoàn toàn giống hồi tôi tám tuổi, lúc bố tôi qua đời. Nguyên vẹn hơn tất cả mọi chỗ khác là phòng làm việc, nơi bố tôi gục ngã vì cơn đau tim ngày 28 tháng tám. Tôi thu dọn chỗ ở. Vẫn chưa có dự định rõ rệt, về St. Tropez chỉ là một cách để tôi trấn tĩnh lại một chút, kiểm điểm tình hình trước cuộc tiến công cuối cùng. Và để chuẩn bị cuộc tiến công đó. Chỉ một mình Gã người Anh được biết tôi đã về St. Tropez. Ngày 15 hoặc 17 tháng tư anh gọi điện tới.
— Chúng tôi đang lần theo dấu vết một trong hai toán cắm trại đã nói với ông.
— Lần theo vết nghĩa là?
— Chúng có thể có bốn tên. Người nước ngoài thì phải.
Các tốp nhân viên của Gã người Anh: Bảy chục người cộng thêm bốn kỹ thuật viên máy tính làm công việc tổng hợp các tin tức thu lượm được trên hiện trường nhồi vào máy tính để nó sàng lọc để ráp vào nhau. Các tốp này đã khám phá được dấu vết của bốn thanh niên đã lần lượt vào nhiều khu cắm trại (ở Hoa Kỳ, phải trả từ một đến năm đôla cho mỗi lều vải hạ trại một đêm trong các khu đất cắm trại).
— Ở bốn địa điểm khác nhau, họ đều tả hình dáng bọn chúng gần giống nhau. Đối chiếu trên bản đồ, thấy rõ lộ trình của chúng: Chúng xuyên qua California từng chặng ngắn, có lẽ từ San Francisco đến Los Angeles. Bây giờ chúng tôi đang thăm hỏi các viên chức chuyên về cắm trại, cả của nhà nước lẫn tư nhân, và tất cả các tiệm thực phẩm chúng đến mua đồ ăn thức uống. Đề phòng chúng có thể đi nhờ xe vẫy, chúng tôi đang hỏi tất cả các lái xe đã đi qua vùng đó.
— Một công việc khổng lồ.
— Vâng thưa ông Cimballi. Nhưng kết quả đã hiển nhiên, cách đây chưa lâu tôi báo cáo có mười sáu người chưa xác minh được. Từ mười sáu còn mười hai.
— Và bây giờ thêm bốn nữa...
Một cơn nóng hừng hực lan khắp người tôi. Biết đâu anh ta đúng?
St. Tropez những ngày tháng tư gần như vắng ngắt, dù thế nào cũng khác hẳn cái thành phố điên dại vào mùa hè. Rong rêu đầy mặt cát và cũng đã có vài nhà yêu thích thiên nhiên coi ánh nắng nhợt nhạt kia đã đủ cho họ phơi hết thân thể lõa lồ. Đáng lẽ tôi nên mời Thibodeaux. Tôi không bật hệ thống sưởi, chỉ đến tối mới nhóm lửa trong lò. Trong nhiều ngày tôi không gặp gỡ, không nói năng với ai. Những người trông coi ngôi nhà, ở cách đây sáu bảy trăm mét đâm ra lo ngại trước sự cô đơn của tôi và cố nài tôi một phần thức ăn do họ nấu. Ngày lại ngày trôi qua.
*— Được rồi, ông Cimballi! Tìm ra chúng rồi.
Gã người Anh nói về bốn gã thanh niên bữa nọ. Hai trai hai gái, người Thụy Điển, lùng sục mãi cuối cùng đã tóm đúng người cung cấp được tin tức: Viên quản lý cái mà ở phía tây Hoa Kỳ gọi là một Dude Ranch, một loại trang trại cho thuê vào những ngày nghỉ phép với giá rất rẻ. Bốn thanh niên Thụy Điển đã ở đây một tuần. Không phải trong bang California mà ở Utah, trong thành phố Cedar gần khu rừng quốc gia Zion. Một cậu đội chiếc mũ rất đặc biệt (sau này mới biết đó là kiểu mũ người xứ Lapponia), mũ này được ba nhân chứng ghi nhận, theo máy tính xác định. Chỉ căn cứ vào có mỗi chiếc mũ này mà tìm ra họ.
— Họ đều ở Vasteras bên Thụy Điển. Tôi đã tới đó mang theo market và ảnh chụp. Quả thật họ có ngủ đêm 29 rạng 30 tháng giêng trong vùng núi San Bernadino cách túp liều chưa đến một dặm về hướng Đông Nam. Họ không thấy bà nhà ta và cậu con. Không chơi ghita và harmonica. Nhưng có trông thấy một người...''
Giọng điềm tĩnh mọi ngày của Gã người Anh bỗng như phấn khích hẳn lên.
— Một cô gái, thưa ông Cimballi. Thuộc về tốp kia. Họ cho là một cô gái Mỹ. Chúng tôi đã phác họa một tấm ảnh robot rất giống cô.
Một lát.
— Chúng tôi gần tới đích, ông Cimballi.
*Ngày 27 tháng 4. Tôi bị chia xẻ, bị giằng xé giữa hai tình cảm: Hy vọng như điên, và sợ hãi được biết sự thật. Marc Andrea mất tích đã ba tháng kém ba ngày.
Tôi lên máy bay ở Nice để qua Lisbon sang Hoa Kỳ. Tuy Gã người Anh hết lời khuyên tôi nên bình tĩnh vì chưa có gì rõ ràng và còn mất nhiều tháng nữa anh ta mới xác định được nốt sáu người mà máy tính khẳng định có mặt trong vùng núi San Bernardino, tôi vẫn lo lắng.
Ở New York, Rosen đang băn khoăn: Có nhiều tin đồn về thị trường cà phê, trái ngược nhau hàng ngày. Lúc đồn sẽ có băng giá khác thường nhiều năm nay chưa từng thấy và sẽ làm giá cà phê tăng kinh khủng, lúc lại đồn năm nay sẽ trúng vụ cà phê, giá cả sẽ tụt mạnh. Tôi chỉ nghe một bên tai, gần như hờ hững, đầu óc nghĩ tới chuyện khác hẳn.
— Franz, có nhiều khả năng phải ký quĩ bổ sung. Anh đi vắng làm tôi lo quá. Bây giờ, có thể phải nộp trong ngày một ngày hai thôi.
Chính anh ta cũng không ngờ mình nói đúng đến thế: Ba mươi sáu giờ sau khi tôi tới nơi, việc đó đã xảy ra. Lần bổ sung thứ nhất không lớn: Độ ba trăm năm chục ngàn đôla. Tôi làm các thủ tục, đầu óc vẫn nghĩ đi nơi khác đến nỗi quên đề ngày tháng vào tờ lệnh quyết xác nhận lệnh gửi qua điện thoại cho ngân hàng của tôi ở Nassau, kèm theo mã số bí mật để làm tin. Tôi sửa ngay sai lầm này, cho rằng không thể tái phạn lần thứ hai trong đời.
Khốn thay, lệnh ký quỹ bổ sung mà tôi tiếp nhận với thái độ thờ ơ như vậy lại chính là nấc sập đầu tiên của chiếc bẫy tôi đang nhảy bổ vào.
Chú thích:
[27] Tổ chức thanh niên Công giáo (P.L.S).