← Quay lại trang sách

Chương 3

Ocoee, gã Séminole tế nhị quay lưng về phía tôi, thực sự tôi chỉ lờ mờ nhìn thấy bóng dáng anh ta. Đêm tối, hai chúng tôi ngồi trên chiếc thuyền độc mộc trong hồ Blue Cypress bên Florida. Thuyền lướt trong im lặng, ngoài tiếng rào rào gần như không nghe thấy và tiếng mái chèo của anh ta nhẹ nhàng khuấy nước từng nhịp rất đều. Tối mù mịt đến thế, làm cách nào anh ta thấy đường? Tôi chẳng nhìn thấy gì hết ngay cả hai bàn tay đang đặt trên đầu gối. Tôi đặt tay lên đầu gối từ lúc một con rắn ngoi lên lướt đầu qua mạn thuyền. Hơi hoảng.

Bơi như vậy độ hai mươi phút, không ai nói câu nào. Màn đêm chợt như sáng ra, thuyền tới một khoảng rừng sú vẹt, thân các cây đước trổ từ dưới nước sâu chỉ độ ba bốn mươi centimètres. Ocoee để thuyền lướt theo đà. Tôi hỏi:

— Anh có bàn bạc với anh ta không?

Đang nói về anh bạn Bồ Đào Nha ở Mombasa, anh chàng Joachim được tôi mời từ Kenya sang làm việc ở Safari nhưng chỉ sau hai tháng đã bỏ đi, không đợi tôi về để bàn bạc, giải thích tại sao lại quyết định như vậy.

— Bàn nhiều rồi.

— Anh ta có cho biết tại sao không ở lại?

Ocoee cười khẽ trong bóng đêm. Tôi mường tượng cuộc đối thoại giữa gã Séminoles ranh ma như quỉ sứ, chỉ cao bằng ba quả táo, gầy guộc nhưng đủ sức ôm một con cá sấu còn sống nguyên trên tay, đối diện với anh chàng Joachim thô kệch, man dại và rụt rè, to lớn, có bộ mặt sát nhân, cựu lính đánh thuê được tha thứ, hằng đêm vẫn cầu nguyện lăn lộn cả Đức Mẹ Fatima, Chúa Hài Đồng Jésus của các nhà truyền giáo và cả cầu thủ bóng đá Éusebio. Có khi chính viễn ảnh cuộc đối mặt này đã thúc đẩy tôi với Joachim đến tận đây. Ocoee vẫn cười, bảo: “Anh thừa biết rõ tại sao”.

Tại vì Joachim là con khủng long từ quá khứ xa xưa còn sót lại. Hoặc vì tôi đã ngớ ngẩn định tuyển mộ anh ta vào chốn Safari đã tiệt trùng của tôi, nó chỉ lù chiếc vòi nước máy lắp trong bếp so với dòng thác trong rừng núi thiên nhiên. Hoặc chắc chắn hơn hết, là vì ta không thể sai khiến bạn bè như thể họ là người thuộc quyền sở hữu của ta với cái cớ ta muốn chứng tỏ tình bạn thân thiết.

“Thôi được. Ta quay về”.

*

Tôi cùng với Flint bay trên công trường rất lâu. Tôi gần như thất vọng, không nhìn thấy gì đáng kể, ngoài những cỗ máy màu vàng đang đào lỗ, đào hào rải rác trên nhiều kilomètres vuông. Tôi không thấy hưng phấn gì hết. Với tâm trạng lúc này, tôi tự hỏi liệu có cái gì làm tôi hưng phấn được?

Quay về khách sạn vừa đúng lúc để nhìn bản báo cáo ba tuần một lần của gã người Anh nói qua điện thoại. Anh ta đã đặt bản doanh ở Los Angeles để tổng hợp các kết quả điều tra vụ San Bernardino. Không có gì mới. Nói cho đúng, không có gì thật mới. Anh ta bảo: “Rất lấy làm buồn”. Và có lẽ cảm thấy ái ngại trước sự im lặng nặng nề của tôi, anh nói thêm: ”Theo một ý nghĩa nào đó, thất bại của chúng tôi từ hôm đó đến giờ lại có thể là dấu hiệu tốt.

— Tôi không hiểu.

— Thưa ông Cimballi, xin nói thẳng tuột thế này: Cậu con ông mất tích đến nay đã bốn mươi ngày đêm. Giả thiết bị bắt cóc lấy tiền chuộc bị loại hẳn ra. Giả thiết gặp tai nạn chết người cũng mỗi ngày một giảm giá trị, vì càn đi quét lại rất tỉ mỉ vẫn không thấy xác. Nhưng xin được nói về những việc đã làm. Chúng tôi đã xác minh lai lịch mấy trăm người vào một lúc nào đó từ mười ba giờ ngày 29 tháng giêng đến trưa 30 đã vãng lai đến khu vực tìm kiếm. Nhiều người là dân từ ngoài California tới đây nghỉ ngơi vài ngày. Tìm được người nào là chúng tôi lập lại thời gian biểu của họ, từng giờ, thậm chí từng phút một, có sử dụng đến những market và ảnh chụp trên hiện trường để xác định thật chính xác vị trí của họ ở từng thời điểm, phương tiện đi tới đấy, gặp và trông thấy ai, tính chất của từng sự cố họ đã gặp dù chỉ là sự cố nhỏ nhặt. Nhờ vậy đã thu thập một khối lượng thông tin khổng lồ đang đưa vào máy tính diện tử. Nhằm tái hiện, có thể nói gần như trong khuôn khổ một hộp thức ăn, tất cả những gì đã xảy ra từ lúc bà nhà ta đến nơi cho đến lúc tìm thấy bà.

— Kết quả?

— Nhờ đó chọn ra được chừng ba chục người không chịu ra mặt tuy đã có nhiều lời kêu gọi, vì nhiều lý do khác nhau, ví dụ những ông và những bà đáng lẽ không chính thức được phép cùng nhau tới đó. Đã tiến hành điều tra từng người một nhưng cho đến hôm nay vẫn chưa tìm được gì.

— Nói cách khác, anh chẳng nắm được gì trong tay.

— Tôi không nói như vậy. Chúng tôi đã chia vùng đất ấy thành những ô vuông mỗi cạnh mười mét bất kể địa hình ra sao và đưa vào máy tính. Sau khi đã khoanh vùng cần tìm kiếm, tức là quãng đường dài nhất mà bà nhà có thể đi được từ lúc chiếc Range Rover bị kẹt đến lúc bà ngã xuống. Vùng đó rộng nhiều kilomètres vuông, nói chính xác là chín nếu tính cả độ lồi lõm nhấp nhô của địa hình. Tuy vẫn còn một nghi vấn: Con đường vòng men theo một phần dãy San Bernardino ở cách chỗ tìm thấy bà nhà một ngàn năm trăm mét. Thưa ông Cimballi, tôi nói ra điều này để làm ví dụ chứ không phải để khoe khoang đầu óc thông minh của chúng tôi: Máy tính đã vẽ lại vệt chạy của chú hoẵng từ lúc bốn giờ mười lăm phút chiều đến mười bảy giờ hai mươi phút ngày 29 tháng giêng. Dựa vào lời thuật lại của hai mươi bảy nhân chứng đã trông thấy con vật.

Trước đó tôi đã biết gã người Anh đang mở một cuộc điều tra rất đúng bài bản nhưng không ngờ lại công phu đến thế.

— Thưa ông Cimballi, đến hôm nay chúng tôi biết chắc có những người lúc đó có mặt trong vùng tìm kiếm nhưng vẫn chưa lộ diện. Chưa tìm ra nên chưa thẩm tra được họ. Chỉ biết vào khoảng mười lăm giờ ngày 29 tháng giêng họ có ở đây. Trong số đó có những người đã lên tiếng với bà nhà ta.

Cổ họng tôi tắc nghẹn.

— Bao giờ các anh xác minh được họ?

— Có lẽ chẳng bao giờ. Hoặc trong vài tiếng nữa. Chúng tôi đã có vài yếu tố: Tất cả có ba cặp riêng lẻ mà chúng tôi mới nắm được rất lơ mơ. Một cặp đã đứng tuổi, hai cặp kia trẻ hơn, cả ba đi xe hơi chưa rõ hiệu và màu sơn. Có một gã trẻ bận blouson da ngoài sơmi carô đỏ trắng, hình như có quấn khăn quàng cổ, cao khoảng một mét bảy lăm. Và có hai toán nữa mỗi toán ít nhất ba bốn người. Trong mấy toán này có một hoặc một số người hút cần sa. Tất cả chừng mười lăm người cả thảy, đối chiếu lời khai của hàng trăm thậm chí hàng nghìn nhân chứng họ đều công nhận sự có mặt của những người đó. Ông có muốn biết thêm những chi tiết do máy tính cung cấp? Một phụ nữ lạ đội mũ len hai màu đỏ và lục; một nam giới lạ hết sức to béo đi lại khó khăn; một kẻ thứ ba - có khi là một trong hai người vừa kể - hát một bài đã cũ của Pery Como vào lúc trời chập choạng tối.v.v... Thưa ông Cimballi, ông đòi chúng tôi làm cái không thể làm nổi, chúng tôi đã cố thử làm xem. Nhưng ở đất Hoa Kỳ này có đến hai trăm ba chục triệu cư dân, không kể khách du lịch nước ngoài.

Im lặng.

— Tất cả mười lăm người?

— Tôi cho là mười sáu. Phải tìm ra mười sáu người. Và tôi thành thực tin rằng ít ra có một trong số đó biết điểu gì xảy ra với con trai ông.

***

Hai ngày sau tôi để Flint ở lại Breakers, thuê chiếc xe và lên đường. Qua Tallahassee và Mobile, đi về hướng New Orleans.

Do tình cờ tôi phát hiện có xe bám đuôi. Đi qua Orlando nhờ có những đoạn đường thẳng băng dài vô tận mà tôi chú ý đến nó: Chiếc Ford màu kem sữa có hai gã đàn ông ngồi trên. Không nghi ngờ gì cả. Tôi đang bị chúng bám theo. Chúng dừng xe khi tôi dừng, đỗ lại cách khách sạn ôtô tôi nghỉ đêm độ hai trăm mét. Tôi thầm lượng định tầm quan trọng của phát hiện này: Từ khi Horst nhập cuộc đây là lần đầu tiên tôi chôm được những tên bám đuôi bí ẩn chưa bao giờ rời xa tôi.

Từ khách sạn ôtô, tôi gọi điện cho Callaway ở San Francisco. Từ bữa tôi chuyển việc điều tra vụ con tôi mất tích từ tay anh ta sang cho équipe gã người Anh, giữa hai chúng tôi đã có chiều lạnh nhạt, nhưng lúc này anh đáp lời ngay lập tức: “Ông đang ở đâu?” Tôi cho anh ta biết tọa độ: Đường liên quốc gia số 10, cách Tallahassee bốn lăm dặm về phía Tây, ở nơi tên là Sycamore. Anh ta hỏi tên khách sạn ôtô, tính toán rất nhanh: “Sáng mai nếu ông chưa lên đường trước tám giờ, tôi sẽ có mặt cùng với hai người của tôi” - “Tôi sẽ đợi đến tám rưỡi”. Chúng tôi thỏa thuận ”anh ta sẽ gọi về Royal Sonesta ở New Orleans để báo cáo cho tôi biết kết quả săn tìm.

Sáng hôm sau chiếc Ford kem sữa đã biến mất, tôi chẳng nhận thấy gì hết cũng chẳng trông thấy ai, cả Callaway, cả những kẻ bám theo tôi mà đáng lẽ anh phải bám theo. Nhưng khi tới New Orleans vào khoảng bảy giờ tối đã có bức điện chờ tôi sẵn, ký tên Callaway báo tin “công việc tiến hành thuận lợi”. Nói cách khác, anh ta cùng với các người giúp việc đã tóm được bọn bám đuôi tôi, còn chính tôi thì lại mất hút chúng.

Hơn nữa, đến tối Callaway lại gọi cho tôi:

— Không có vấn đề gì, bọn tôi đã theo sát chúng. Bốn tên ngồi hai xe. Chúng dõi theo ông từng bước. Hiện tôi ở cách chỗ ông đang đứng có năm chục mét.

*

Ở “chỗ tôi đang đứng tối hôm ấy”. Tôi đang phân vân tự hỏi không biết từ bữa chia tay nhau, liệu ông ta đã lúc nào rời khỏi chiếc ghế bành này chưa. Đó là Thibodeaux trong vinh quang, có dáng vẻ của con người đang sống hạnh phúc nhất trên cõi đời này. Ông ta bảo tôi:

— Tôi cứ ngỡ sẽ gặp lại anh sớm hơn.

— Tôi bận quá.

Ông nhìn tôi thật kỹ: “Có vẻ không được...”

Tôi đáp: “Không đến nỗi”. Ông gật đầu, nói tiếp: “Tôi có đọc báo. Một đòn bẩn thỉu”. Ông với tay kéo chiếc vò vẫn đặt trên sàn hiên đưa cho tôi.

— Không, cảm ơn.

— Anh có thích tôi lại chơi chiếc đàn guimbarde cà khổ kia không?

— Không, nếu tôi may mắn thoát khỏi nó.

— Vậy thì uống đi.

Tôi uống một hớp whisky. Ông ta buồn bã lắc đầu: “Thật đáng thương! Tôi bảo anh uống ra uống chứ không báo nếm thử. Nào, hớp một ngụm đầy tràn, cậu cả”. Lần này tôi nuốt hẳn một ngụm đầy tràn. Rồi tuyên bố: “Tôi sắp lăn quay như hòn bi đến nơi. Không quen nhậu đâu”.

Ông ta gật gù tỏ ra buồn phiền vì điều tôi vừa tiết lộ. Tôi ngồi xuống chiếc ghế xích đu thứ hai ngay trước mặt ông và cùng nhau vừa đung đưa trên ghế, vừa chuyền tay vò rượu. Không khí nồng mùi bùn, thêm vào đó là mùi nhạt thếch của mưa, vì mưa bắt đầu rơi thật nhẹ nhàng, có thể nói giọt mưa đậu xuống trên đầu ngón chân, gõ êm lên mái hàng hiên.

— Có nghe nói đến tên cướp Jean Lafitte?

— Lơ mơ.

— Căn cứ của nó ngay gần đây, ở Barataria.

— Thú vị nhỉ! Tôi phát điên lên được.

— Uống đi. Ngon chứ, hả?

— Kinh khủng, sắp mê nó đến nơi.

Không biết có phải vì rượu không, tôi thấy hơi thư giãn ít nhiều. Thibodeaux mỉm cười với tôi, nhắm mắt lại và lẩm bẩm hát. Có lẽ tôi thư giãn hơi quá. Chợt muốn khóc, rồi khóc thực sự không sao kìm nổi... Tôi không nhầm lẫn, tuy không giải thích nổi nhưng thực quả là như thế: Tôi đã đương đầu đúng mức trước loạt đòn của nhiều sự kiện nối tiếp: Tai nạn của Marc Lavater, chuyện xảy ra với Catherine và việc hai chúng tôi xa nhau, vụ con tôi mất tích; nhưng chính sự đào ngũ của Joachim một người không mấy thân thiết tôi có thể không nghĩ tới nữa, chính sự đào ngũ ấy làm tôi hoàn toàn gục đổ. Có thể vì nó đã bồi tiếp vào tất cả những chuyện kia. Và tôi biết rõ mình đến tìm kiếm cái gì ở chỗ ông già Louisianais đang ngồi trước mặt tôi, người tôi mới chỉ gặp có một lần trong đời: Một chỗ ẩn náu trong tình cha con. Dưới cái cớ: Nhờ ông già giúp Paul Hazzard và tôi tìm ra dầu mỏ.

Im lặng. Tôi cũng nhắm nghiền mắt, không mở ra trong lúc ông tạm ngừng không đung đưa ghế - nhưng không ngưng câu hát ư ử trong mồm mím chặt - Ông vào nhà rồi trở ra:

— Anh nghĩ gì về việc chỉ có hai ta mà đã uống cạn một vò. Những chiếc vò bây giờ không còn như xưa. Hồi tôi còn trẻ, chúng cạn chậm hơn nhiều.

Tôi nói: “Dù sao tôi cũng say mèm rồi. Bằng chứng: Nhìn chỗ nào cũng thấy toàn cá sấu”.

Ông ta tợp một ngụm, chuyền vò thứ hai sang tôi. “Cậu cả ơi, đúng là chỗ nào cũng có cá sấu thật đấy”.

Tôi mở choàng mắt. Ông nói đúng: Có đến năm sáu con đang thản nhiên dạo chơi giữa các cụm hoa trong vườn. Nếu hiên nhà không được tôn cao và có hàng lan can quây kín, chắc đã có một chú nhảy lên đầu gối thè lưỡi liếm mặt tôi.

Có thể Thibodeaux đã trông thấy tôi khóc nhưng ông làm như không biết, chỉ nói:

— Cá sấu canh giữ giếng dầu tốt hơn chó nhiều. Nhưng còn một lý do khác.

Ông nhấc chiếc vò tôi vừa đưa trả, ướm nặng nhẹ.

— Khi cậu thấy chúng có màu hồng, đó là lúc nên ngừng uống rượu. Thôi, bây giờ hãy kể về đời cậu nghe chơi...

Ngày hôm sau nữa, ông vểnh ngón tay cái chỉ vào tôi bảo Paul Hazzard:

— Thật khó tin nhưng đúng là cậu này còn giỏi phịa hơn cả mình. Nếu anh biết cậu ta đánh lừa tôi với những chuyện gì, nào là cùng với các chiến binh Masai Châu Phi trong một cái hố, một gã Tàu lăn trên bánh xe ở Hong Kong, rồi một gã bị lột da sống trong Thung lũng Chết. Cậu ấy có đầu óc tưởng tượng thật khác thường. Thế các anh cho rằng dưới kia có dầu à?

Chúng tôi bay trên bang Oklahoma đã từng thuộc Pháp trong một trăm năm mươi năm sau đó ngẫu nhiên trở thành đất Mỹ: Khi Thomas Jefferson[26] đến Pháp hỏi mua vùng New Orleans, ông ta kinh ngạc thấy được mời mua luôn toàn bộ vùng Louisianais thuộc Pháp hồi ấy, kéo dài đến tận dãy Núi Đá. Chúng tôi cất cánh từ Dallas, nơi Thibodeaux và tôi cùng đến tìm Hazzard và hội đàm với một tay địa chất và một kỹ sư.

Từ sau lần gặp trước. Paul đã mở rộng mục tiêu. Hồi ấy định đầu tư hai triệu đôla, trong đó năm trăm ngàn tức một phần tư do hai chúng tôi bỏ ra, số còn lại sẽ do một ngân hàng ở Dallas cho vay sau khi có kết quả của những giếng khoan đầu tiên. Sau đó, số đất mua được đã từ bảy tăng thành hai mươi mốt khoảnh, số vốn cần có cũng tăng lên tuy không theo tỉ lệ đó. Bây giờ cần sáu triệu.

— Nhưng anh Franz, trong mười năm ta sẽ thu lãi khoảng hai lăm đến ba chục triệu. Và có khả năng thu hồi lại vốn ban đầu sau mười bốn tháng.

— Phải bao nhiêu?

— Một triệu rưỡi. Mỗi người bảy trăm năm chục ngàn.

— Gấp ba số anh nói lúc đầu.

— Tôi đã giành thêm được nhiều phần đất nhượng, một cơ may đấy.

Và là vận hội không thể bỏ qua, theo công thức. Chúng tôi bay trên một hồ lớn, được biết là hồ bảo tồn Eufala. Dãy núi Ozark ở bên phải, rất rõ nét dưới bầu trời quang quẻ. Hôm nay là mùng 10 tháng ba.

— Nếu anh không chịu, tôi sẽ tìm một người thứ ba để cộng tác.

Ngay trước lúc rời phòng trọ ở khách sạn Fairmont tại Dallas tôi nhận được điện thoại của gã người Anh: Trong số mười lăm người mà máy vi tính xác nhận có mặt tại hiện trường, trong “vùng tìm kiếm” và chưa thẩm tra được, nay đã tìm ra hai người. Cặp đứng tuổi. Tại sao họ không đáp lại các lời kêu gọi trình diện? Vì miền Nam California chỉ là chặng đầu trong chuyến du lịch dài ngày của họ trong vùng Thái Bình Dương, họ chỉ lướt qua đây thôi. Gã người Anh: “Thưa Ông Cimballi, họ cung cấp rất ít thông tin. Nhưng việc tìm ra họ chứng tỏ công việc của chúng tôi tiến triển. Thế là chỉ thiếu có mười bốn người nữa...”.

Máy bay hạ xuống Tulsa. Tiếp tục hành trình bằng xe hơi, các mảnh đất nhượng đều nằm trong bán kính khoảng sáu mươi kilomètres, có những mảnh ở tận cùng bang Kansas, những mảnh đầu tiên nằm ở lưu vực sông Cimarron, một nhánh của Arkansas. Đây là xứ sở của Jesse James và họ Dalton, những lúc này có ngọn gió lạnh thổi xuyên qua thịt. Riêng mình Thibodeaux cắm mũi xuống đất đi như người hái nấm trong dãy Pyrenees bên Pháp, thỉnh thoảng vốc một nắm đất đưa lên mũi hít hà. Mỗi khi có ai trong bọn nhận xét điều gì ông ta lại bực dọc lắc đầu quầy quậy. Còn Paul và các chuyên gia chính thức đi thành nhóm riêng tuy thỉnh thoảng lại đi ngang qua ông già Louisianais. Cuối cùng tôi thấy rét buốt thấu xương đành vào ngồi trong xe, tự hỏi mình dấn thân tới đây làm gì, việc quái gì phải đi tìm dầu mỏ là thứ tôi cóc cần đến. Người đầu tiên đến gặp tôi là Thibodeaux: “Anh có vẻ dửng dưng thật. Thế anh tưởng tôi rời chiếc ghế xích đu chỉ vì có thiện cảm với anh sao?”.

— Còn vì tôi đã hứa mời ông đến St. Tropez nữa.

— Và vận động bầu tôi làm chủ tịch hội đồng giám khảo tuyển chọn “Hoa hậu St. Tropez Cởi Truồng”.

— Xin thề.

— Liệu có quá đáng không, hử?

Tôi lái sang chuyện khác: “Thế có dầu không?”

— Có. Không phải ở tất cả các điểm mà bọn chuyên gia nửa mùa của anh chỉ ra, nhưng có dầu đấy. Bãi tắm ở St. Tropez tên là gì ấy nhỉ?

— Pampelonne.

— Anh sinh ra ở đó?

— Trong ngôi nhà sát mép nước.

Đột nhiên như có một cánh cửa vừa bật mở, phả mạnh hương thơm rừng sồi miền Provençale, rất đậm đà rất dịu ngọt. Ngôi nhà tôi chào đời vụt hiện ra trước mắt tôi, rõ nét đến tàn nhẫn. Một cách nào đó, nó đã là cái ăn thua trong cuộc chiến của tôi với Yahl; hơn nữa khi về ở đây cùng với Catherine tôi đã cho rằng nó đánh dấu sự kết thúc cuộc chiến đó. Nếu tôi ở lại đấy thì sao?

— Tôi đi về đây, - Thibodeaux nói. - Đã làm cho anh nhiều hơn cho bất cứ ai khác. Chỉ có Chúa mới biết vì sao. Anh bao nhiêu tuổi?

— Vừa tròn hai lăm vào tháng chín năm ngoái.

Hôm sau ông già ra đi sau cuộc bàn luận cuối cùng với các tay địa chất. Theo ông trong hai mươi mốt phần đất của Paul Hazzard có mười bảy phần sớm muộn sẽ có dầu phụt lên. Những mảnh còn lại không bỏ công cắm mai. Ông căn cứ vào cái gì vậy?

— Vào cái mũi, cậu cả ạ. Mà đừng quên lời mời tôi đến Pampelonne.

— Pampelonne.

Ngay tối hôm đó, cú điện thoại của Callaway gọi tới Tulsa. Anh ta cũng đang ở Tulsa, nghĩa là bọn bám tôi cũng ở đây rồi. Sau đó là những bình luận kỹ thuật về nghệ thuật bám đuôi. Ngoài ra còn có nhiều thông tin thú vị hơn.

— Chúng làm thuê cho một hãng ở Chicago...

Tôi chợt nhớ ra: Cái bọn bữa trước nhanh chân chèn tôi trong áp phe Quần Vợt Trên Trời cũng là bọn ở Chicago. Callaway tiếp:

— Chủ chúng tên là Maclves. Điều đáng ngạc nhiên là tôi biết rõ hắn ta, đã cùng làm việc trong các cơ quan tình báo quân đội, có dạo hắn đã dưới quyền tôi.

— Ai trả tiền hắn?

Callaway không rõ. Chỉ biết équipe Maclves đã bám tôi hơn một năm nay, gần một năm rưỡi rồi. Tuy nhiên đã xảy ra một điều khó hiểu: Việc chúng theo dõi tôi chấm dứt từ cuối tháng giêng vừa qua, nghĩa là từ khi con tôi mất tích trong vùng núi San Bernardino. Chúng nghĩ thế là xong việc. Nào hay đến 15 tháng hai ông chủ lại bắt tiếp tục. Callaway không biết lý do gián đoạn và lý do tiếp tục bám đuôi tôi.

— Chỉ được biết: Bắt đầu từ 15 tháng hai, chủ của chúng đã giảm bớt kinh phí, chỉ còn thuê bốn tên thay vì tám tên trước kia. Tám tên trong mười lăm mười sáu tháng liền! Người ta đã chi như điên để giám sát ông!

Chẳng tốn kém hơn tôi thuê gã người Anh và anh ta, Callaway. Tôi bảo:

— Cần biết Maclves làm cho ai.

— Không dễ.

— Nếu dễ, tôi đã hỏi người gác cổng khách sạn.

— Đúng thế.

Tôi trở về Dallas với Paul Hazzard. Xác định hoàn chỉnh các chi tiết cùng nhau cộng tác thăm dò dầu - thuật ngữ tiếng Anh đối với tôi có vẻ khêu gợi hơn: Oil venture. Tôi ký tờ chèque gần tám trăm ngàn đôla tiền góp vốn của riêng tôi và phần tiền trả công các tay địa chất, các chuyên viên đủ loại khác. Paul rất khoái. Anh ta phác ra nhiều dự định kỳ diệu cho cả hai chúng tôi và đòi đưa tôi về liên hoan mừng sự kiện này tại nhà riêng ở San Antonio. Các lần trước tôi đã khước từ, lần này chẳng lẽ lại làm anh ta thất vọng nữa, vả lại lúc này tôi chẳng còn biết đi đâu, chẳng có nơi nào chờ đợi tôi, càng chẳng có nơi nào chào đón. Tuy tôi vẫn cẩn thận gửi cho bà mẹ vợ các báo cáo tình hình tìm kiếm Marc Andrea, nhưng người ta chẳng buồn phúc đáp, Catherine hiện đang ở đâu tôi cũng không biết.

Mà tôi cũng chẳng có việc gì khác ngoài việc chờ đợi. Hiện giờ: Theo Rosen, Lupino, gã Thổ, mọi mặt trận đều yên tĩnh. Adriano Letta đang tiếp tục điều tra vụ Fezzali biến mất chỉ gửi cho tôi những bức điện cộc lốc: Công việc của anh ta không tiến triển, và cả hai chúng tôi đều thấy không vội gì phải bắt anh ta bay qua Đại Tây Dương để nói với tôi rằng anh ta chẳng có gì để nói.

Tôi nhận lời mời của Paul Hazzard, đến ở San Antonio vài ngày. Nhà riêng của Paul rất đẹp, xây kiểu Tây Ban Nha ở cửa ngõ Đông Bắc thành phố, trên đường đi Corpus Christi. Anh sống chung với mẹ và hai cô em, cô lớn nhất vừa tròn đôi mươi. Tôi đi thăm viếng rất kỹ vùng Alamo nơi xảy ra các trận đánh cùng tên và là nơi James Bowie và Davy Crockett tử nạn, tôi tản bộ dọc các con đường dành cho khách bộ hành ở Paseo Del Rio, tôi còn cưỡi ngựa nữa.

Tại đấy, nhận được lời của gã người Anh: “Có tin mới”.

Chú thích:

[26] Thomas Jefferson (1743-1826), Tổng Thống thứ ba Hoa Kỳ.