Chương 8
Đây là một bãi biển hiu quạnh ở miền Nam Mexico, tân cực Nam, quá Acapulco trên bờ Thái Bình Dương, một nơi không có du khách, không du khách nào nghĩ tới chuyện tới đây; đó là nơi tận cùng thế giới, rất hẻo lánh, cách biên giới California đến hơn hai ngàn hai trăm kilomètres theo đường chim bay, một ngôi làng bé tí bị những đỉnh cao của dãy Sierra Madre Sud ép xuống phía đại dương.
Viên thám tử tư đến đón tôi ở sân bay Oaxaca dừng xe khi vừa chớm bãi biển. Dọc đường chúng tôi nói với nhau có vài câu: Anh ta chẳng nắm được gì hết. Anh tát máy. Bảo tôi:
— Trong nhà kia, cuối bãi biển.
Tôi đặt tay lên núm cửa. Anh ta tiếp: “Có thể chạy xe đến tận đấy, nhưng phải đi vòng đường mòn. Mất hai mươi phút.”
— Khỏi.
Tôi lắc đầu:
— Không cần.
Căn nhà - nó chỉ hơn túp lều một tí thôi - cách chỗ này chưa tới hai trăm mét. Từ nhà có con đường nhỏ len lỏi qua các tảng đá đổ xuống bãi biển. Tôi mở cửa, xuống xe, hơi nóng như lò rang lập tức choàng lên người cùng với sự im lặng của Ngày Sáng Thế. Viên thám tử hỏi:
— Tôi đợi?
— Không, mặc tôi.
Gần như không nghe tiếng xe anh chạy đi. Đứng yên dưới nắng, tôi thấy ngạt thở, gần rơi vào một cơn choáng váng mà nguyên nhân không phải chỉ vì quá nóng, người run lên vì cảm động. Tự nhiên, ngoài ý muốn, một bộ phận trong não dựng lại những hình ảnh, những lời nói, những âm thanh của cuộc tìm kiếm tưởng chừng vô tận kéo dài suốt hai mươi tháng vô vọng. Những ngọn núi San Bernardino ngàn lần lùng sục không kết quả; Callaway mở đầu cuộc điều tra, gã người Anh nối gót, mở rộng điều tra đến hết mức, săn lùng ráo riết trên quy mô cả một lục địa. Gã người Anh này tối ngày gọi điện cho tôi: “Ông Cimballi, chúng tôi đã tới gần đến đích...”, vẫn gã người Anh cách đây mười tháng khi thấy tôi nói không còn tiền trả công đã đáp lại: “Tôi rất phiền lòng, chúng tôi đã làm tất cả những gì con người có thể làm...”; tôi nghe thấy tiếng tất cả: Cảnh sát California, nhân viên FBI, bố mẹ vợ, các luật sư, các bạn tôi, cả Marc và Françoise, cả Catherine nữa, nhất là Catherine, tất cả đều nói, hoặc không nói nhưng nghĩ bụng: “Franz, anh điên rồi, có điên mới tiếp tục mong đợi. Cháu bé chết rồi. Và anh sẽ không bao giờ biết nó đã gặp chuyện gì...” Bây giờ cuộc tìm kiếm dài đằng đẵng đã kết thúc.
Trên đầu đường dốc thấp thoáng bóng người. Ba người hiện ra. Gã người Anh đi trước, dừng lại, nhìn về phía tôi, giơ tay ra hiệu quay lại và đi thẳng, công việc đã hoàn thành.
Người thứ hai là Sarah... Thứ ba, một bóng dáng bé con. Tim tôi bật ra tôi nghiến chặt hai hàm răng. Sarah đạt chân lên con đường dốc, tay dắt đứa bé. Tôi bứt ra khỏi tư thế bất động. Đi trên nền cát bỏng, đi nhanh hơn, rồi chạy, cắm đầu chạy như thằng điên dọc bãi biển. Cho đến lúc đứng sững lại. Khựng hẳn lại cách đứa bé hai mét.
Sarah buông tay bé. Cô lùi bước, quay lưng lại chúng tôi, đi ra tận mép nước, giả bộ chăm chú đứng nhìn Thái Bình Dương.
Tôi chăm chú nhìn Marc Andrea, nó cũng mở to cặp mắt ánh vàng nhìn tôi. Thằng bé trần truồng, nâu bóng, tràn trề sức khỏe. Cổ đeo tấm mề đay có một không hai trên thế giới của Joachim ở Mombasa cho nó: Mặt trước là hình cầu thủ bóng đá Eusebio, mặt sau là Đức Mẹ Fatima.
Tôi không sao cất tiếng lên được. Thành ra lại là thằng bé lên tiếng trước, nó ngoẹo cổ nhìn tôi nghiêm trang và hỏi bằng tiếng Anh:
— Ông là bố hả?
Lần đầu tiên trong đời tôi được nghe nó nói. Rất chậm chạp, tôi vượt qua ba bước chân ngăn cách hai bố con, quì xuống, nhưng vẫn không dám sờ vào nó, người đột nhiên cứng đờ, đột nhiên thành nhút nhát rất kì lạ.
— Sarah bảo ông là bố. Ông bố tôi?
Tôi òa khóc, trong đời tôi chưa bao giờ khóc như thế. Trong một lúc lâu tôi chỉ có thể gật gật đầu thế thôi, cổ tắc nghẹn. Mãi mới ôm chầm lấy nó, cả vũ trụ khép lại trên mình hai bố con. Tôi nói:
— Yes, ừ! Bố của con đây!
*Sarah bảo: “Chắc em phải có đôi lời giải thích nhỉ!”
Tiếng Anh gọi cái đó là understatement, còn tiếng Pháp là litote, nghĩa là cách nói giảm nhẹ. Nói vắn tắt, cứ tạm gọi là đôi lời giải thích. “Do gã người Anh của anh đấy”. Vả lại vừa nãy tôi cũng thoáng thấy anh ta phải không? Gã người Anh đã tới Montego Bay gặp Sarah từ cách đây một năm, khi mới bắt tay vào điều tra, anh đến hỏi Sarah như hỏi tất cả những người quen biết tôi ít nhiều và có thể dính dáng cách nào đó về vụ con tôi mất tích. “Em dặn anh ta đừng nói gì với anh về em. Có lẽ khách sạn của em làm anh ấy thích...”. Tháng chạp anh ấy trở lại, lần này đến nghỉ phép cùng cả gia đình. Anh cho Sarah biết cuộc tìm kiếm phải ngừng, chủ yếu vì chuyện tiền nong. “Nghe vậy em thấy bực, hơn nữa thấy ngao ngán quá. Em không tin là đã hết hy vọng”.
Và cô đã nài gã người Anh tiếp tục cuộc tìm kiếm. Không tìm ở những chỗ cũ, mà ở chỗ khác. “Bằng tiền em bỏ ra à, Sarah?” - “Tiền của em. Anh tưởng sao? Em có tiền, sống rất đầy đủ. Em không cho gã người Anh nói cho anh biết. Để làm gì, nếu ngộ nhỡ không có kết quả?”.
— Tìm ở chỗ chưa tìm, nghĩa là ít nhất cũng lùng sục khắp miền Nam Mexico rộng lớn. Nếu như bọn cắm trại bí ẩn mà máy tính đã phát hiện có mặt ở hiện trường nhưng chưa xác minh được tung tích, nếu như bọn đó đã bỏ trốn ra ngoài phạm vi thủ đô Mexico. Vì gã người Anh và các toán thám tử của anh ta đã truy lùng đến tận thủ đô, cũng như bên Canada.
“Em bảo anh ta phải xuống tận Chiapas và đến cả Guatemala. Anh ta đã làm đúng như thế, trước hết chú ý đến những người Mỹ còn trẻ, có một đứa bé cùng đi. Sau nhiều tháng vẫn chưa thấy gì, thật là nản. Bỗng dưng cách đây vài ngày, nhận được tin có hai thanh niên chết vì dùng quá liều ma túy. Ở ngay chỗ này, Puerto Escondido…”
Hai thanh niên quốc tịch Mĩ nhưng gốc Mexico, nói thạo tiếng Tây Ban Nha. Ở trong lều gỗ cùng ba người khác đã vội vàng bỏ trốn. Sau tai nạn ma túy. Như chúng đã bỏ chạy khỏi San Bernardino sau khi chích cho Catherine và tưởng cô bị chết. Khi bỏ chạy họ mang theo thằng bé, không nỡ để nó lại một mình trong núi cạnh xác mẹ nó.
“Về sau, được tin Catherine sống sót. Cho dù họ có nhận được tin đó, phỏng họ làm gì được? Tự thú chăng? Họ sẽ bị kết tội bắt cóc và tội sử dụng ma túy. Họ sợ. Dù sao chính họ đã cung cấp thuốc và chích thuốc. Mấy lại, có thể dần dần họ thấy gắn bó với thằng bé...”.
Chúng tôi đi trên bờ biển. Marc Andrea chen vào giữa.
— Con giống anh ghê, - Sarah nhận xét.
Trừ cặp mắt ánh vàng, giống mắt Catherine.
— Con giống anh thật cơ, - Sarah nhắc lại.
Cô gượng cười.
— Chú thỏ con này thật không may...
Bỗng cô bật khóc, tôi cũng xúc động chẳng kém.
Chúng tôi lên xe, trở lại Acapulco ở ba ngày, thỉnh thoảng Sarah lại thốt ra với giọng thiếu tự tin “Em phải trở về Jamaica đây, việc ở khách sạn đang chờ”, còn tôi thì đáp lại: “Quỷ tha ma bắt cái khách sạn của em”. Giá vào lúc khác, thế nào cô cũng cho tôi một cái tát và đi thẳng. Nhưng lần ấy, cô rất dịu dàng nhượng bộ, cô biến đổi đến không nhận ra được nữa, thả mình trong hạnh phúc có ba người bên nhau.
Chúng tôi không hề vội vã. Có Marc Andrea còn sống và rất đẹp bên mình sau từng bấy lâu tìm kiếm chưa phải là tất cả. Tôi còn phải học cách khám phá ra nó, và cũng mong nó sẽ học cách hiểu được tôi nữa. Vẫn theo đường bộ, chúng tôi rời bờ Thái Bình Dương để lên cao nguyên Mexico, ở đấy hai ngày nữa, la cà các cửa hàng, cả Sarah và tôi đều tràn ngập niềm vui sướng.
Sau đó là Kingston, Jamaica và Montego Bay. Tại đây, tôi nhận được hồi âm bức điện tôi gửi từ Acapulco báo tin cho gia đình nhà Jeffries. Họ xin gặp. Tôi trả lời ngắn gọn: “Con trai tôi mạnh khỏe”.
Chỉ một mình tôi mãi mãi tin nó còn sống trong lúc tất cả bọn họ đều cho rằng nó đã chết. Vậy thì từ nay nó sẽ sống với tôi mãi mãi. Nhà Jeffries không thể làm cách gì bắt được nó của tôi, sau những hành động bỉ ổi của ông bố dượng vợ tôi trong thảm kịch này.
Ngoài ra còn có điện của vợ chồng Lavater, của Li và Liu, của Rosen và Lupino, của rất nhiều người khác, Rosen và Lupino còn dặn tôi gọi cho họ.
Tôi ném tất cả vào sọt giấy lộn.
*Không hiểu vì sao trước đây tôi cứ hình dung khách sạn của Sarah chỉ là một chỗ be bé kiểu nhà trọ gia đình. Thực ra ở Montego Bay, cô phụ trách không phải là một mà những hai khách sạn. Chưa hết, cô còn giám sát cái thứ ba trên đảo Cayman lớn cách đây ba trăm năm mươi kilomètres, và và ba cái khác ở Spanish Town, Kingston và Savannah. Một tiểu vương quốc khách sạn, do cô điều hành với bàn tay sắt, cô có cả máy bay riêng. Và ngôi nhà riêng.
Trong đó điện thoại hỏi tôi vào ngày 25 tháng sáu. Lupino.
— Rõ khổ, Anh biến đâu mất rồi, Franz? Chúng tôi tìm ông mấy ngày rồi đấy.
Đúng vào tích tắc Lupino hổn hển, phân khích đến cực độ loan báo cho tôi biết cái tin sắp là đảo lộn tất thảy, tôi đang ở trên bãi biển Montego Bay thanh thản nhìn thằng con đùa nghịch. Thành ra những lời vị luật sư của tôi nhắc đi nhắc lại luôn mồm phải mất một lúc mới tới tai tôi:
“IT'S FREEZING”, - Lupino gào lên lần nữa. - Franz nghe rõ chưa? IT'S FREEZING. BĂNG GIÁ! Có BĂNG GIÁ đấy!”
Lật nhào hết. Thay đổi hết. Cơn băng giá vừa ập xuống các đồi cà phê Nam Mỹ làm hại các nhà hái quả, kéo theo nó một sự đảo lộn chỉ riêng định mệnh muốn có. Sự biến động khởi đầu ngay từ 20 tháng sáu, ngày Sarah từ Mexico gọi điện thoại vô tuyến cho tôi. Tiếp tục có biến động trong cả tuần lễ, Rosen và Lupino đi tìm tôi, vì sau khi nhận được điện của Sarah tôi đã rời khỏi Maria Cay mà không báo cho ai biết tôi đi đâu.
Các con số, sứ giả của sự giàu có đang đến với tôi, nói lên rất rõ: Giữa tháng sáu một livre cà phê giá một trăm ba mươi xu Mĩ, sau mười ngày tăng thêm sáu mươi điểm, lên đến một trăm chín mươi, giá tôi mua cách đây ngót hai năm. Mỗi ngày giá lại tăng thêm một ít theo đà xác nhận có băng giá tại các vùng trồng cà phê báo về, một đợt băng giá tệ hại nhất từ mười lăm năm trở lại đây.
Ngày 27 tháng sáu, hai trăm xu một livre, ba ngày trước khi hết hạn bán đợ, trước khi bọn Tàu Thượng Hải chủ ngân hàng Hong Kong trở thành sở hữu chủ vĩnh viễn chỗ cà phê của tôi.
*Nhưng ngày 27 đó tôi ở Boston, đối diện với ông chủ ngân hàng, chú ruột Philip Vandenberg, con người có đủ cả tình người nồng nhiệt, sự bồng bột điên cuồng, tính vui vẻ bốc đồng và thói ngông của cậu cháu. Vandenberg Chú (không phải tên ông ta như vậy đâu) liếc con mắt lạnh như băng nhìn tôi.
— Cháu tôi nói nói nhiều điều tốt về ông, thưa ông Cimballi.
— Tôi không ngạc nhiên: Chúng tôi rất quý nhau.
— Trước đây tôi đã từng có ý định cho ông vay 25 triệu đôla.
— Tôi đã tăng giá: Cần 30 triệu. Có gánh nặng gia đình rồi.
Tôi đưa cả con vào phòng, bất cứ giá nào tôi cũng không rời nó nửa bước, lúc này nó đang vui vẻ tung tăng trong văn phòng rộng lớn trên đường Berkeley, bạ cái gì cũng sờ vào.
Tôi tủm tỉm cười nụ với Vandenberg Chú.
Hẳn là ông vui lòng chấp thuận.
Chắc chắn ông ta đã có dịp nhìn thấy tờ thông điệp truyền hình của tôi, ít ra cũng đã được nghe nói lại, ví dụ bản thông điệp gửi đi tối qua: “Sau bốn ngày nữa, Cimballi không còn một hột cafe nào”. Và ông chẳng làm được gì khác ngoài việc đọc các bài phóng sự viết về Cimballi Bố và Con, đã sum họp bên nhau. Tôi lại cười với ông Chú:
— Ông có đánh cuộc với tôi không ạ?
Ông chú chấp nhận thật.
Một phần nhỏ là tất cả những sự rùm beng quanh câu chuyện của tôi đã khiến ông có dịp biểu thị tấm lòng cao thượng của ngân hàng ông trong công luận, tôi đang được gió. Nhưng cái chính là ông sắp vớ bẫm. Một năm trước, tôi chạy long sòng sọc khắp thế giới hỏi vay món tiền đủ giữ vững hợp đồng với các tay môi giới. Tất cả đều từ chối vì Martin Yahl chọc gậy bánh xe và vì hồi đó tôi đến gặp họ trong dáng vẻ một kẻ cùng đường mạt vận. Bây giờ 14.752 tấn cà phê của tôi có giá hơn bao giờ hết. Tôi trở thành một khách hàng sộp. Họ yêu quý tôi.
Ngay với một con chó có nhiều tiền, họ cũng kính cẩn: “Thưa ông chó”...
Nhưng bạn đọc có thể hỏi: Tuy vậy, làm sao tôi có thể vay được tiền vì nhân viên của ngân hàng Tàu nọ vẫn không một giây nào rời mắt khỏi nó và chỉ sau ba ngày nọ nó không còn là của tôi nữa?
Tình huống bất ngờ. Các ngân hàng hiểu rất rõ loại tình huống này. Ông chú điềm tĩnh đọc bàn hợp đồng bán đợ, đưa cho các chuyên gia nghiên cứu.
— Ông chi bao nhiêu ông Cimballi?
— Hoàn lại cho ông 30 triệu sau ba tháng, cả vốn, thêm lãi và phụ phí, cộng thêm 2 phần trăm tiền bán cà phê
Ông chú tham khảo ý kiến của các cộng tác viên. Vài cú điện thoại, xác minh đích thực giá cà phê đã tăng, chiều hướng tăng là chắc chắn, sẽ còn tăng nữa. Mất một giờ tất cả, tôi đưa Marc Andrea sang phòng bên chơi golf bằng chiếc máy tập đẩy tạ trong nhà. ông Chú quay trở lại:
— Dĩ nhiên ông hiểu là chúng tôi phải thêm vào giao kèo vay tiền của ông một điều khoản giám sát.
— Chính tôi đang định yêu cầu ông.
Nghĩa là kể từ phút này đến khi tôi trả xong nợ cho Vandenberg Chú, ông ta sẽ, tạm gọi là: Giám sát tôi. Chuyện bình thường. Ngân hàng Boston của ông sẽ trả cho bọn Tàu số liền tôi nợ họ và do ngân hàng của ông cho tôi vay, đồng thời hủy bỏ tất cả các quy định của hợp đồng bán đợ, hủy bỏ toàn bộ bàn hơp đồng đó, và như vậy tôi được hoàn toàn sử dụng số cà phê đó theo ý mình.
*Vận đỏ tiếp tay thêm.
Tôi có thể bán cà phê ngày 1 tháng bảy, thậm chí ngay từ tối 29 tháng sáu là ngày ngân hàng Boston trả tiền bọn Tàu, trả quyền sở hữu cà phê cho tôi.
Nhưng tôi cứ đợi, tuy Rosen và nhất là Lupino lo sốt vó. Cứ đợi vì tuy không giải thích nổi, nhưng tôi rất có cảm giác hiện thực, rất hứng khởi là từ nay về sau số phận sẽ ủng hộ tôi.
Đầu tháng chín một livre cà phê giá 380 xu Mĩ. Nhưng tôi đã đợi hơn bảy tuần lễ. Các luật sư, cố vấn của tôi đã phát điên hết cả, nên trước đó vài ngày tôi đã bán hết. Được 350. Tổng cộng được 113 triệu rưỡi đôla.
Trừ tiền nợ ngân hàng Boston đi, tôi còn lại 78.000.783 đôla và 28 xu. Nhưng vì còn phải chuộc lại St. Tropez, phải chi nhiều khoản lệ phí, tiền hoa hồng, các thứ tiền đã ứng ra, cộng các khoản thuế má, nhưng lại tăng thu nhờ các khoản lãi sắp có về Quần Vợt vào khoảng độ...
— Anh Franz.
...Tổng quát lại, tôi sẽ có...
— Anh sẽ cớ một cục bướu tướng trên đầu, nếu không mau mau chấm dứt việc tính toán sổ sách lằng nhằng quái quỷ ấy đi!
Sarah bảo thế. Sarah còn tiếp:
— Nhân thể nói luôn nhé, Anh Franz Cimballi. Nếu anh đã bắt tay xây dựng những kế hoạch ngu ngốc nhằm mục đích phục thù Yahl, Horst và ông cựu bố dượng vợ, cần biết rằng trước hết anh phải qua người em...
Tôi nhìn cô, toàn thân nâu bóng, mảnh áo tắm bé tí màu trắng cũng không còn trên thân thể, cô trần truồng như bàn tay, cảnh tượng ấy đẹp vô cùng. Tôi nháy mắt nhìn thằng con áo quần cũng chẳng nhiều nhặn hơn Sarah, và tuy nó tất nhiên cũng sáng dạ, nhưng tỏ vẻ chẳng hiểu gì cả, tôi bảo con.
— Một sáng kiến tuyệt diệu!
*Lúc ấy chúng tôi ở dưới vùng trời Bahamas, rất xa về phía Nam, chỉ có chúng tôi trên đảo nhỏ của mình, gần ngôi nhà phủ đầy hoa có mái hiên bát ngát ríu rít đàn chim bay lượn trong những chiếc lồng mở rộng, trong im lặng và bình yên sáng thế.
Như qua cuốn phim chiếu nhanh, tôi thấy lại các khuôn mặt đang diễu qua: “Fezzali trước vại kem lạnh ở Thế giới Disney, Lão ra sao rồi? Liệu có bao giờ tôi được tin về lão? - Horst đốt tờ séc của tôi trong gạt tàn tại căn phòng ở Biltmore. - Catherine nằm bệnh viện Beverly khi sinh con. - Marc Lavater bất tỉnh sau vụ tai nạn Sorrente. - Ute mang cho tôi bốn triệu đôla. - Maria De Santis ở New Orleans. - Người giống hệt Yahl đang la hoảng trước họng súng của tôi. - Li và Liu trong vai Tarzan - Thibodeaux dập dình trên ghế xích đu. Và tất cả: Gã Thổ, Joachim, Rosen, Lupino, Vandenberg Hazzard, Callaway, Flint, gã người Anh...”
Tất cả đều dính líu vào cuộc chiến tài chính đồ sộ do mối hận thù của Martin Yahl và sự phản trắc của bố dượng vợ tôi Alec Jeffries thúc đẩy.
Quên sao được trang trại hiu hắt, Catherine bất tỉnh giữa núi rừng Bernardino, vụ bắt cóc Marc Andrea và hai mươi tháng khổ đau, tìm kiếm, lo âu?
Các hình ảnh chen lấn xô đẩy nhau, ám ảnh, khuôn mặt và địa điểm trộn lẫn vào nhau.
Lúc ấy, hồi tưởng lại các sự kiện trong mấy tháng cuối cùng, tôi mới thật sự hiểu rõ câu bố tôi viết cho tôi, tìm thấy trong tập giấy tờ của bố tôi ở St. Tropez. Đối với tôi đó là lời di chúc duy nhất của bố tôi để lại:
Xin hãy nghe cho rõ:
«Trong cuộc đời doanh nghiệp của con, dù làm bất cứ việc gì, dù thận trọng đến đâu, dù có mạnh mẽ đến chừng nào, con cũng phải luôn luôn sẵn sàng vì sẽ có một ngày nào đó con phải trả giá: TIỀN MẶT, TRẢ NGAY. Cash!
ANDRÉ CIMBALLI
St. Tropez ngày... tháng Bảy 1956»
HẾT