Chương 7
Thế đấy! Công việc đâu có đơn giản, chẳng mấy chốc tôi đã thấy rõ cái mà Li và Liu, Lavater, Lupino, và Vandenberg đồng thanh gọi là ý nghĩ điên rồ của tôi nó điên đến mức nào.
Xế chiều ngày 18 tháng chín, thủy phi cơ do Flint lái đã xuống biển gần Maria Cay. Chưa đến một tiếng sau, Flint và tôi đã đứng trên cầu tàu xây giữa vùng nước sâu để những người Anh ở trên đảo trước tôi buộc du thuyền, tránh vùng biển cạn đáy san hô bên bờ phía Tây.
Tôi đi ra đầu cầu cúi xuống nhìn. Thật chóng mặt, dường như Đại Tây Dương không còn đấy, nó đã rút hết đi, tôi như đứng bên bờ một vực thẳm khổng lồ vách thẳng đứng sâu đến năm kilomètres. Trên tôi đã nói: Đặc điểm chính của đảo là vị trí địa lý đặc biệt của nó, nó tựa chiếc ban công to rộng ở phía Đông, phía sau là biển Caraibe tương đối nông và thân thiện hơn. Tôi hỏi Flint:
— Theo anh tàu hàng cập bến đây được chứ?
Anh ta đáp: Anh lái máy bay, không phải thủy thủ. Nhưng vì tôi hỏi, anh trả lời: Theo anh thì được. Thế là đã có hai người nghĩ giống nhau, bao giờ cũng thế. Flint bật cười, đưa tay chỉ túp lều ván đã rã rời, công trình xây cất duy nhất trông thấy trên bờ cát sỏi. Giữa hai tiếng nấc:
— Dù sao, anh không thể chứa mười lăm ngàn tấn cà phê trong kia.
Thật ngộ.
Chúng tôi nghỉ đêm trong ngôi nhà cổ của người Anh hưu trí. Các việc tu sửa tôi yêu cầu trong lần đến đây chín tháng trước, vào ngày 15 tháng chạp, đã hoàn tất. Máy phát điện khởi động ngay khi mới quay một phần tư vòng, bốn căn phòng hầu như đã sẵn sàng tiếp nhận người vào ở, mọi chỗ đều được lau rửa - nhìn qua cũng thấy vừa mới dọn dẹp chưa lâu, nhất là hành lang chữ u mênh mông dài bốn mươi rộng sáu mét, chi chít những chiếc lồng không lắp cửa có hàng trăm con chim tự do ra vào. Cái lùm cây lần trước tôi đến còn phủ gần kín ngôi nhà nay đã tỉa bớt vừa đủ. Flint không ngớt ngạc nhiên, không ngờ lại tươi đẹp đến thế!
Hôm sau, ngày 19, tôi tới New Orleans sau chặng dừng ở Nassau. Gọi diện về New York, nhận tin mọi công việc đều trôi chảy: Rosen đã làm mọi việc cần thiết, đã thanh toán đúng hẹn số tiền mười bảy triệu sáu trăm năm chục ngàn đôla; còn lại, cộng cả tiền của ngân hàng Tàu và vốn vừa tròn một triệu đôla. “Anh vẫn đòi nhận cà phê sao?” - “Hơn bao giờ hết”. Gặp Thibodeaux ở New Orleans. Ông và đàn con trai đông như kiến giúp tôi đắc lực không thể tưởng tượng được, trong thành phố quê hương của họ. Vì tôi phải chạy thi với đồng hồ. Cần phải trong thời gian kỉ lục, trước hết sát định bờ phía đông Maria Cay thực sự dốc đứng, tiếp nhận được tàu trọng tải trung bình cho cầu tàu. Làm xong việc này ngày hai mươi mốt do một chuyên viên hàng hải đáp máy bay của Flint thực hiện. Sau đó phải tu sửa cầu tàu, kéo dài thêm ra, tìm kiếm và mua vật liệu xây kho, thuê thợ đến xây, tuyển thợ bốc xếp có đủ thiết bị thích hợp, sau hết là thuê nửa tá bảo vệ, xây nhà cho họ ở.
Diện tích Maria Cay khoảng hơn mười hai kilomètres vuông. Tôi đã hỏi kĩ (Thật đúng lúc!) về các điều kiện bảo quản cà phê đóng bao, nguyên vẹn như khi các nhà sản xuất giao hàng. Tin mừng! Không cần có những điều kiện đặc biệt về nhiệt độ, độ ẩm và các yếu tố khác, tóm lại, rất là đơn giản: Chỉ cần xếp các bao trên sàn gỗ thưa không cho chạm đất, lợp mái che cho nó. Tường không cần xây. Cà phê tử tế quá! May mà tôi không đầu cơ được. Vậy là nhờ có Thibodeaux và các cậu con, được cuộc phiêu lưu điên rồ này làm cho hết sức thích thú, nên mọi việc đều thực hiện nhanh như chớp. Ngày 24 tháng chín những người thợ đầu tiên đặt chân lên Maria Cay, ngày 26 mọc lên bãi kho lợp mái đầu tiên dựng bằng vì kèo sắt; ngày 23 bắt đầu khởi công cầu tàu; ngày 30 thợ bốc xếp tới; chuyến tàu đầu tiên chở cà phê hiện ra ngày 31 tháng mười. Sau đó việc bốc dỡ hàng tiến hành đều đặn. Đến 11 tháng mười một, xong toàn bộ. Mới ít lâu trước đây tôi đã tự hỏi không biết 14.752 tấn cà phê đựng trong từng nào bao, lúc này tôi đã biết câu trả lời: 324.324.
Dĩ nhiên, cảnh tôi tự ngắm mình và chúng tôi - tức là tôi với núi cà phê của tôi ngắm nhau trên hòn đảo nhỏ hiu quạnh ở tận cuối dãy Bahamas và cảnh không đến nỗi buồn. Không ít người còn bỏ công đi tới đây chỉ cốt để tận mắt trông thấy cảnh này và ôm bụng cười thoải mái. Ví dụ các tay phóng viên, họ không bỏ lỡ thời cơ, trong hai tháng đầu không tuần nào không phải tiếp một toán. Đúng là không buồn, nhưng khi những phút vui cười qua đi, tôi buộc phải quay về với thực tế tàn nhẫn.
Xin nói rõ. Nếu là một tay đầu cơ bình thường trong một hoàn cảnh bình thường, đến ngày 18 tháng chín tới tôi sẽ làm gì khi buộc phải trả 60 triệu một lượng cà phê lúc đó trị giá có 36 triệu vì bị sụt giá ghê gớm? Và đã thực chi tổng cộng 42.350.000 đôla không kể các khoản hoa hồng, phụ phí?
Câu trả lời rất rõ (về nguyên tắc). Ngay hôm ấy, vào cùng giờ ấy, tôi bán 15.000 tấn cà phê lấy 36 triệu (không đến, nếu trừ các hoa hồng, phụ phí) và với 36 triệu đó tôi thanh toán nốt 17.650.000 đôla (hơn thế, vì vẫn phải nộp các khoản hoa hồng, phụ phí vào) còn thiếu để chính thức là sở hữu của số cà phê trên. Có thể cho là việc được quyền bán lại món hàng mình chưa mua xong hẳn là chuyện lố lăng quá đáng, nhưng thực tế nó như thế. Các trò giấy tờ của ngân hàng và thông lệ cho phép được làm thứ xiếc nhào lộn này.
Hoàn tất mọi việc, đến tối 18 tôi sẽ còn lại trong tay 6.350.000 đôla. Cái tát đau điếng nhất trong suốt cuộc đời, vì riêng về khoản cà phê tôi đã mất đứt chừng 36 triệu đôla, tức 16 tỉ 200 triệu xu Pháp. Thêm vào đấy còn mất hết quyền lợi trong Safari và Quần Vợt. Và phải bán chạy, chịu lỗ to, tất cả các bất động sản. Được cái là chưa đến nỗi khánh kiệt.
Nhưng không một lúc nào tôi dự tính đến giải pháp đó. Nó sẽ có nghĩa là thắng lợi hoàn toàn của Mactin Yahl. Không thể chấp nhận được. Đối với tôi, vốn không phải là tay đầu cơ bình thường, và đang giao tranh trong một trận chiến không phải chỉ đơn thuần tài chính. Gã Thổ rất có lý khi nói: Không được kinh doanh tài chính với những tình cảm trong lòng, dù tốt hay xấu. Nhưng địch thủ của tôi là Yahl, địch thủ của lão là tôi, nên chúng tôi đều kinh doanh tài chính với những động cơ tình cảm. Với lòng thù hận.
Đáng lẽ tôi đã nổ tung từ ngày 5 tháng chín khi có lệnh bổ sung thứ sáu. Sự tiếp tay kỳ diệu của Ute đã cứu tôi đúng vào giây phút lâm chung. Phép lạ này khiến tôi tin chắc định mệnh đứng về trận tuyến của tôi. Nếu tôi đã quyết định không đẩy cà phê đi, mà mua thực sự bằng hiện vật, bất chấp những rủi ro khủng khiếp nhất. Và vì không vay được tiền do bị lão Yahl khôn ngoan chặn trước, tôi đã dùng miếng đỡ liều mạng: Bán đợ. Chỉ để tranh thủ thời gian.
Bây giờ, sự thật đang lộ rõ: Hậu quả của đòn đỡ này thật nguy hại. Vì số cà phê tôi vẫn coi là cà phê của tôi, đang chứa trong kho trên hòn đảo của tôi, không thực sự là của tôi, mà chỉ trên lý thuyết thôi. Trong thực tế nó đã gần thuộc quyền sở hữu của ngân hàng Trung Quốc ở Hong Kong, đã trả giá 18 triệu đôla. Có thể nói, họ tạm thời giao nó cho tôi bảo quản (phí tổn do tôi chịu) và nếu đến 30 tháng sáu sang năm tôi không thanh toán được 18 triệu cộng thêm 5 triệu lãi thành ngót nghét 23 triệu, tôi sẽ đi đứt.
Moi ra 23 triệu ở chỗ quái quì nào? không thể có, tôi biết rõ. Bọn Tàu cũng không lầm. Tuy người gác kho Maria Cay là người của tôi, nhưng đó chỉ là cách đề phòng vô ích. Ngay đầu tháng mười, Hong Kong đã cho biết họ sẽ cử người của họ đến canh giữ. Ý hẳn họ sợ tôi lợi dụng đêm tối lỉnh mất, cắp theo 15.000 tấn cà phê dưới nách.
Chưa hết: Các phí tổn tu sửa bến cảng, bãi kho, nhà ở, công thợ, công bốc xếp, thuê thiết bị, thuê tàu hàng bỏ đường hàng hải thông thường để chở cà phê đến đảo, cộng với phí bảo hiểm (do hợp đồng bán đợ quy định) tất cả các khoản đó đã móc hết mắt tôi. Đã vậy, sau khi nhập kho, các phí tổn bảo quản cứ tiếp tục nối đuôi nhau tháng này qua tháng khác, ngày càng tăng cao không có cách gì hãm nổi.
Ngày 15 tháng mười một, thấy trong quỹ chỉ còn vài chục ngàn, tôi cố uốn lưỡi thuyết phục Li và Liu hãy vì tình bạn và nhất là để trả công mấy sáng kiến tôi đã mớm cho họ trong vụ đồ chơi mà cho tôi vay một triệu. Họ đồng ý, lấy lãi mười lăm phần trăm. Không ai kinh doanh tài chính với tình cảm.
Nhưng vẫn chưa đủ. Đến nỗi vào khoảng 25 tháng mười một, tôi dành chấp nhận nỗi dau xé lòng cuối cùng: Bảo Cannat rao bán dinh cơ St. Tropez. Cannat báo cho Marc Lavater, anh này nổi loạn: “Đừng làm chuyện đó, Franz!” - “Tôi không có quyền chọn lựa, anh biết đấy”. - “Làm thế vẫn không tránh nổi thảm họa cuối cùng. Bán St. Tropez đi, anh mất mát nhiều cái còn hơn cả tiền bạc”... Cứ làm như tôi không biết!
Ba tuần sau Cannat gọi tới Nassau cho tôi. Lavater đã cùng anh đấu đá quyết liệt và đạt được thỏa thuận. St. Tropez cũng chỉ đem bán đợ, tới hạn ngày 1 tháng chín sang năm. Cannat: “Tôi biết như vậy anh được ít tiền hơn bán đứt nhưng ít ra còn được kỳ vọng sẽ chuộc lại. Nếu có phép lạ xảy ra. Mà đặc tính của phép lạ là nó thường xảy ra khi ta cho là không thể có. Thưa ông Cimballi, ông Marc đã khăng khăng như thế”.
Tôi đồng ý, vừa nhẹ mình vì được nghỉ ngơi vừa buồn rầu tự nhủ, sẽ chẳng có phép lạ nào cứu thoát mình. Bán St. Tropez là tôi bắn nốt viên đạn cuối cùng. Sau đó chỉ còn việc ngồi lên bất cứ chiếc nào trong 324.324 bao cà phê mà đợi. Ví dụ may ra có thế chiến thứ ba đến cứu (và còn hơn thế nữa)...
... Đợi giờ hành quyết.
Tôi bảo Marc Lavater:
— Anh chi tiền ăn, được, nhưng để tôi chi tiền cà phê. Tôi muốn thế.
Anh không cười. Tôi cũng không, khi ngẫm nghĩ kỹ
— Franz này, anh tự đặt vào một tình thế nan giải.
— Đừng chọc tức tôi.
Đáng lẽ không nên gây gổ với anh. Anh vẫn phải chống nạng, vẫn đau, lần anh đi xa đầu tiên, cùng chị Françoise, là để thăm tôi. Gặp lại nhau ở Nassau, hai anh chị vui vẻ mời tôi cùng vui các ngày lễ lớn. Tôi làm sao giấu nổi họ rằng tôi thực sự đã rơi gần tới đáy. Một tuần trước, tòa đã xử cho Catherine và tôi li hôn. Mà đây cũng chưa phải là sự kiện duy nhất khiến tôi ủ rũ: Gã người Anh cất công đến tận Bahamas báo tin anh là đã cho dùng hết các tốp nhân viên, thôi không tìm kiếm Marc Andrea nữa. Vả lại, tôi cũng hết sạch tiền trả công rồi. Anh ta bảo đây không phải lý do chủ yếu khiến anh quyết định như vậy. “Thưa ông Cimballi, chúng tôi đã làm tất cả những gì con người có thể làm. Và không thành công. Còn lại việc xác minh một cặp và một nhóm cắm trại. Cặp này có thể coi như đã tìm thấy: Đôi vợ chồng trẻ bị tử nạn gần Salinas tối 30 tháng giêng vì tai nạn xe hơi. Trước đó họ lưu lại ba ngày ở Palm Spring. Cặp chúng tôi tìm đúng là cặp này. Ngược lại, toán cắm trại thì biệt vô âm tín. Rất tiếc”.
Lúc ấy nếu không có Marc Lavater ở bên, không hiểu tôi sẽ hành động ra sao. Chỉ biết rằng, đây quả thật là những ngày, những giờ tôi chìm nghỉm dưới đáy. Suốt những tuần qua, tình hình tài chính của tôi biến động nhanh chóng, liên tục xảy ra những đột biến lạ lùng tuy không làm tôi quên thằng con mất tích nhưng cũng làm vết thương dịu lại tí chút. Câu nói cuối cùng của gã người Anh, lời thông báo này không còn gì nữa, khác nào dội axít vào vết thương trơ thịt đỏ lòm của tôi...
Nhờ tình bạn không thể quên của Marc mà tôi rũ được nỗi đau.
Lễ Giáng Sinh năm ấy thật khủng khiếp. Tuy Sarah sau nhiều cú phôn của tôi gọi đến dự Noel, đã tới bên tôi ngày 26 tháng chạp. Vào dịp này, khách sạn của cô đông nghịt không sao bỏ đi được. “Đêm Mừng Năm Mới cũng thế nốt. Anh luôn luôn quên là em phải làm việc”. Cô rủ tôi sang Jamaica với cô. “Anh sắm vai Robinson Crusoe khốn khổ vì thiếu bình pha cà phê phỏng được ích gì? Thôi đi, đừng hòng em coi chuyện này là thảm kịch. Anh phá sản à? Có vì thế mà chết đâu nào! Vả lại, em đang sợ anh sẽ trở lại giầu có nữa cơ. Chàng trai khốn khổ của em ơi, anh chẳng biết làm việc gì khác đâu”. Cô liếc sang tôi cặp mắt trêu ngươi quen thuộc ”Ô! em biết rồi! Chàng hiệp sĩ dũng cảm kiên cường chỉ về ngôi tháp của tổ tiên họ cai quản sau khi quật ngã được rồng. Khốn nỗi lúc này hiệp sĩ đang bị rồng giết cho một trận tơi bời nên chàng buồn rầu tha thẩn trong rừng, trường hợp này là rừng cọ trên đảo Maria Cay”.
Tôi phá lên cười ầm ĩ. “Có lẽ sống với những người thông minh thú vị ở chỗ lúc họ ngốc nghếch thì không ai có thể ngốc bằng họ. Làm tình cho em đi nào! Chàng Hiệp sĩ dũng cảm, không biết em tới đây để làm gì sao? Nhưng lần sau, tự anh phải đến Montego Bay đấy”.
Ký ngay, Sarah Kyle về. Vợ chồng Lavater cũng về Châu Âu ngay những ngày đầu tháng giêng. Sau khi hết lời nài tôi cùng đi. Khác hẳn mọi khi, Marc nổi cáu: “Mẹ kiếp, hết rồi, không mở mắt nhìn xem! Kiếm đâu ra ba chục triệu? Tự nhiên đùng dùng bán cả St. Tropez đi! Việc gì phải thế, nghĩ mà lộn ruột. Thế mà tôi cứ tưởng anh gắn bó với nó hơn tất cả mọi thứ. Thật không hiểu nổi. Quá đáng. Franz, anh thật quá đáng”. Rồi lặp lại cũng những lý lẽ như Sarah, Paul Hazzard và mọi người khác: Tôi còn trẻ, mới hai mươi sáu năm ba tháng tuổi, tôi còn đủ thì giờ làm lại từ đầu, tôi đã chứng tỏ mình có thể thành đạt, tôi sẽ còn thành đạt nữa...
“Và tôi sẽ thú nhận lão Yahl đã nghiền nát tôi. Chịu phép”. Mối thù hận xưa cũ, không kiểm soát nổi, lại ngoi lên mãnh liệt.
Nếu cho rằng tôi không thử vận may thì oan quá. Nhưng nếu cho rằng có một lúc nào đó tôi đã hy vọng có cơ tìm được ba chục triệu đôla thì cũng không phải. Tuy nhiên tôi đã cố bám víu như đã từng bám vào ý nghĩ sẽ tìm thấy Marc Andrea. Sau khi gã người Anh rút lui, không tháng nào tôi không sang California vào vùng núi San Bernardino. Trở đi trở lại đều đặn nơi xảy ra vụ mất tích như thế chẳng có nghĩa lý gì. Nhưng tôi phải làm một việc gì đó để tự chứng minh vẫn còn hy vọng. Tôi rất sợ cuối cùng mình phải tin theo gã người Anh, anh ta từ chối không cần bảy trăm ngàn đôla còn sót lại của tôi để tiếp tục cuộc tìm kiếm, vì anh cho là sẽ chẳng có kết quả.
Tôi đến Louisiane với Thibodeaux, định ở đấy vài ngày nhưng lại kéo dài thêm. Như thể gắn hẳn mình vào đấy, dưới sự chăm sóc ân cần của ông. Ở đây hết tháng hai, sang tháng ba, cho đến lúc Paul Hazzard đến tìm. Anh ta tỏ ra bối rối khi báo tin các giếng khoan ở Oklahoma cho kết quả rất tốt.
— Franz, chúng ta sẽ làm ăn với nhau trong những áp phe khác. Sau khi anh phục hồi.
Theo thói quen gần như thành tật, một lần nữa tôi lại tính sổ: Trừ hết các phí tổn bảo quản cà phê ở Maria Cay và các khoản bây giờ rất nhỏ nhoi để duy trì cuộc sống của mình, tôi chỉ còn hơn bẩy trăm ngàn một chút.
Tôi lao vào các cuộc đầu cơ mang đầy chất cuồng nhiệt và có thể dẫn đến mọi khả năng trong lĩnh vực làm ăn đầy bất trắc này. Tôi tung hứng với ca cao, chuyển sang đồng, đậu tương rồi bạch kim. Ví dụ với bạch kim, tôi thử làm một cú trong hai tháng, ký quỹ tất cả số vốn 700.000 đôla trong túi để làm một hợp đồng 7 triệu đôla. Cách làm ăn cổ điển, nhưng tôi gia giảm thêm bằng cách: Không trả tiền đôla mà bằng tiền lires Ý (Adriano Letta cho biết nó sắp mất giá). Do đó tôi được lời trên cả hai bảng, trước hết được lời về khoản bạch kim do nó xuống giá đúng như tôi dự tính, sau nữa về khoản tiền lires vì nó cũng mất giá 12 phần trăm. Tôi vay số tiền lires này với lãi suất 16,8 phần trăm, tức 1,4 phần trăm, tháng, vay trong hai tháng thành 2,8 phần trăm, tôi làm ăn bằng đồng lires nên được lãi: 12 trừ 2,8 còn 9,2 phần trăm...của 7 triệu, giá trị bản hợp đồng bạch kim.
Áp phe này mang lại cho tôi 1.288.000 đôla tiền lãi... Nhưng lại để mất gần hết khi tôi chuyển sang món đồng (cũng định làm cú đúp: Đồng pesesta Tây Ban Nha, nhưng không thành).
Mất thêm một phần của số còn lại trong cặp cacao - florin Hà Lan.
Còn lại một triệu. Cóc sợ, tôi thu hết sức lực (giữa quãng, Gigi đã giúp tôi chơi một cú dựa vào sự sụt giá của đồng cruzeiro, được kha khá), lao vào món đậu nành.
Tôi gượng dậy. Lại có trong tay - tôi nhớ kỹ đến cả số lẻ vì hồi ấy tôi mắc tật luôn luôn tính toán như bị ma ám - số tiền 395.000 đôla.
Vốn liếng tăng gấp đôi nhờ khoản vàng, gần gấp bốn nhờ khoản đường.
Trở lại một triệu, cần số tiền này, tôi cộng tác với một tỉ phú miền Trung nước Pháp có bè bạn thân thiết sau Bức Màn Sắt. Sự cộng tác rất hữu hiệu: Nhờ nó tôi có chân trong một áp phe kỳ quặc có bốn bên tham gia. Tôi mua nước hoa Pháp bán sang Liên Xô, họ trả bằng dầu lửa (trong có vài ngày dầu lửa tăng giá đến 15 phần trăm) tôi bán ngay dầu đi (thật nhanh, có chuyến chỉ sau có vài giờ) đổi lấy thực phẩm, biến thực phẩm (mỗi chuyến ít ra lãi được từ 3 đến 5 phần trăm) thành tơ lụa... Biến tơ lụa thành dầu lửa, bán cho Rotterdam.
Không kịp thở!
Vào đầu tháng sáu, tôi có 2.650.000 đôla. Nếu Marc Andrea không mất tích, tôi có thể sướng phát điên lên được. Tuy đến ngày 6 tháng sáu, sau khi tính toán chi li theo thói quen, tôi đi đến kết luận còn hụt mất số tiền khiêm tốn 20.350.000 để cứu được cà phê của tôi. Đã thế việc lo toan làm ăn còn bị đứt đoạn theo nhịp đều đều của những cuộc viếng thăm đau xót vào vùng núi San Bernardino.
Đúng vậy, tôi đã thử làm tất cả, kể cả cái tuyệt đối không thể thực hiện nổi: Thuyết phục một ngân hàng hoặc một người nào đó đồng ý cho vay 25 triệu đôla, cược bằng 14.752 tấn cà phê đã bán đợ. Vay được món đó tôi sẽ hủy được vụ bán chác nguy hại này.
Van nài, chạy chọt đến mức có thể thuyết phục Yahl cũng phải xiêu lòng, tuy lão thường xuyên rong ruổi trên mình ngựa để tìm đánh tôi. Đã thế tôi lại không gặp may. Từ tháng giêng, do nhiều tin đồn sẽ có bội thu. Cà phê sẽ còn trúng hơn vụ trước nhiều, giá cà phê lại tụt mạnh. Bỏ qua các chi tiết, chỉ cần nói là đến tháng tư, một livre giá có 105 xu Mỹ, thấp nhất trong nhiều năm nay. Nghĩa là 15.000 tấn của tôi chỉ đáng giá 33 hoặc 34 triệu.
Riêng bản thân tôi thị giá lúc này ở mức số không. Trước đây tôi có nói với Li và Liu: Hay giúp tôi bán đợ số cà phê này đi, tôi sẽ tranh thủ được thời gian. Có tranh thủ được thật, nhưng thời gian đã qua đi mà chẳng mang lại điều tốt lành, phép lạ vẫn không hiện ra. Vậy là tôi chỉ còn được chọn giữa hai giải pháp.
Giải pháp thứ nhất là tìm chỗ nào đó mà chui xuống đất, hoặc ở nhà Lavater, Thibodeaux, hoặc sang San Francisco với Li và Liu, hoặc nữa, đến San Antonio với Paul Hazzard. Giấu kín nỗi nhục và nhất là nỗi căm tức đã bị đánh bại. Mặc cho thời gian trôi qua và nghiền ngẫm một kế hoạch viển vông để rửa hận.
Tôi chọn giải pháp thứ hai.
*Ngày 7 tháng sáu, hai mươi ba ngày trước khi hết hạn với bọn Tàu của Trung Quốc Nhân Dân quy định, tôi từ San Francisco trở về. Ở đấy tôi vừa mới hợp tác với bọn Li và Liu trong áp phe đồ chơi đang phát triển. Nói hợp tác cho oai: Tôi nợ họ một triệu, số vốn tôi góp chỉ bằng gấp đôi con số đó thôi. Họ cho tôi năm phần trăm, không hơn một xu. Li và Liu không phải những nhà từ tâm bác ái. Có thể làm trò hề, nhưng không đời nào sắm vai hề trong chuyện tiền bạc.
Trước khi gặp họ tôi có ở mấy ngày ở Arizona, rồi ra vùng biển Cortès. Có thể coi đây là cuộc hành hương cuối cùng, lần theo dấu vết xa xưa của hai bố con, từ thời tốt lành đã qua, hồi đó chỉ cần nhìn con dưới nắng tôi đã thấy kinh ngạc lạ lùng. Thấy lại con thuyền buồm tôi thuê hồi đó, nơi con đã sống với tôi lâu nhất trước khi mẹ nó đưa sang Châu Âu. Tôi làm đủ mọi cách, đấu tranh với chính mình để cố víu đôi chút hy vọng, nhưng mỗi ngày qua ý nghĩ sẽ không bao giờ thấy lại mặt con càng len sâu vào tâm trí. Có lẽ tâm trạng ấy chi phối hành động sau đây của tôi, khi từ San Francisco về...
Tất nhiên Li và Liu nài tôi ở lại đến lúc kết thúc, và lâu hơn nữa trong ngôi nhà của họ trên đồi Telegraph. Vô ích.
Rất kịch, rất trẻ con, rất tức cười, chuyện này sẽ cả Hoa Kỳ và các nước lân cận cười bò ra, nhưng tôi cóc sợ: Không ai trên đất nước này làm được tôi từ bỏ ý định điên rồ cuối cùng của tôi, và tôi sẽ thực hiện đến cùng.
Ghé qua New York, tôi dám chơi sang mời bộ ba Rosen, Lupino và Vandenberg ăn tối. Tôi long trọng cảnh cáo trước: Tên nào dám đưa ra một câu cợt nhả về món cà phê sẽ uống sau bữa tiệc sẽ bị nện bình cà phê vào đầu. Jo Lupino cười đến nghẹt thở. Philip Vandenberg đĩnh đạc bỏ đi, bảo: Không mất thì giờ vào những chuyện trẻ con, làm ăn là chuyện nghiêm túc không phải chuyện đùa như tôi nghĩ. Cuối cùng chỉ còn Lupino đi theo tôi. Chả là anh có bạn bè làm ở truyền hình, tại ít nhất hai trong ba hệ thống lớn nhất của Hoa Kỳ: ABC, CBS và NBC. Anh đi theo tôi và mở cho tôi nhiều cánh cửa, theo nghĩa bóng. Nhờ anh, tôi được đón tiếp trên mức lịch thiệp, nói thẳng ra là trong không khí bông phèng.
— Anh sẵn sàng bỏ tiền mua giờ phát sóng để làm trò đó à?
— Sẵn sàng?
— Mất vào đây cả một gia tài, không ít đâu.
Tôi phá lên cười.
— Các anh không biết chứ, tôi đã mất vào đó nhiều hơn không biết bao nhiêu mà kể.
*Ý định như sau:
Đưa cuộc hành quyết - tất nhiên, cuộc hành quyết về tài chính, tôi không có ý định tự sát - mà tôi đang chịu đựng lên màn ảnh. Trước hết, trong hai tuần lễ trước ngày 29 tháng sáu (một ngày trước khi hết hạn hợp đồng bán đợ) cả ba hệ thống truyền hình cuốc gia của Mỹ mỗi ngày sẽ phát một đoạn phim rất ngắn (mười giây đồng hồ) quay cảnh tôi ngồi chót vót trên đỉnh núi cà phê giữa hòn đảo của tôi. Dĩ nhiên tôi phải làm vẻ mặt buồn rười rượi (không thường xuyên, kịch bản có dự tính vài đoạn vui cười) quần áo rách rưới, tả tơi, vá chằng vá đụp, trông thật thảm hại, đúng cảnh một nạn nhân đáng thương xót. Mỗi lần tôi xuất hiện người xướng ngôn lấy giọng ồm ồm ảo não thông báo: “Sau 14 ngày nữa, Cimballi không còn một hột cà phê nào“. Đó là ngày 15 tháng sáu, vì sang ngày 16 xướng ngôn viên sẽ nói: ”Sau mười ba ngày nữa, Cimballi không còn một hột cà phê nào”. Cứ như thế đến ngày 29 một ngày trước khi cà phê của tôi biến thành cà phê Tàu.
Theo tính toán số học, điều đó sẽ làm vùng phụ cận đáy san hô của đảo Marai Cay bị tắc nghẽn vì các đặc phái viên báo chí truyền hình đủ loại hè nhau kéo đến. Tôi muốn kết thúc thật đẹp. Đã mất hết, nhất là mất thằng con, tôi sẽ thành một “Samurai”[29] trong giới tài chính cao cấp.
Tính toán quả không nhầm. Tắc nghẽn ra tắc nghẽn. Mới sau ba buổi phát hình “Sau mười hai ngày nữa, Cimballi không còn một hột cà phê nào”, các bãi biển trên đảo đã nhung nhúc nhà báo. Họ hỏi đủ thứ, có câu: Kẻ đưa anh vào tình thế đáng buồn này có phải là một tay chủ ngân hàng Thụy Sĩ không? Tôi đáp no comment, miễn bình luận, với vẻ làm như mình bình luận đủ thứ. Mời những người phỏng vấn uống champagne, lại có nắng vùng Caraibe nữa thành ra không khí thật vui nhộn. Tóm lại, tôi có vẻ vui thích như một thằng điên.
Ngày 20 tháng sáu, có người gọi tôi trên điện thoại vô tuyến. Lúc ấy tôi đang đồng thời dùng ba thứ tiếng kể cho ba nhà báo các bước thăng trầm trong vụ cà phê, sự ra đời của dự án Săn Thú Safari và Quần Vợt Trên Trời nữa (ít ra cũng quảng cáo cho Li và Liu, cho Ute và Gã Thổ!). Tiếng người trong máy vô tuyến giục. Tôi tạm ngưng thuyết trình:
— Gì thế Sarah?
— Anh Franz, vứt hết đấy, đến gặp em lập tức.
Đáng lẽ nghe giọng cô tôi phải đoán được ngay. Nhưng đang bận quá. Cô nói tiếp:
— Con anh mà. Con đang đứng bên em.
Chú thích:
[28] Aristotle Onassis: Tỷ phú Hy Lạp.
[29] Samurai: Có nghĩa là người theo Võ Sĩ Đạo.