2- Những tiếng nói thầm của người chết
Đêm hôm ấy bầu trời mây ám, nửa mặt trăng khuyết không mấy khi hiện hẳn được ra. Trông đó đây toàn là đồng ruộng, chỉ thấy xa xa mập-mờ mấy đám cây cối, im lặng một cách say đắm mơ-màng.
Trời bỗng thêm mây đen phủ đặc, gió lốc bắt đầu cuốn, khách rảo cẳng mà vẫn không thấy tiến mau. Trên đầu ầm-ỳ sấm động, lại lấp-loáng chớp giật liên hồi: Mưa to sắp đổ xuống, mà làng xóm lại xa, đi chậm thế này chưa chắc đã kịp đến nơi mà ẩn náu. Khách vừa lo ngại vừa gấp bước, nhưng gió cứ táp mãi vào mặt phải giữ chặt lấy cái nón lá cho khỏi bị lật ra sau gáy, rồi lại phải bỏ ra cầm ở tay. Cũng không xong. Gió mạnh lắm, như cố tình thổi cho khách phải giật lùi. Người đã nhọc quá. Dè chừng không thể tránh khỏi mưa, mới chậm chân để mà thở. Bỗng thấy một đám cây cối đang cót-két ngả nghiêng ở cạnh một cái đầm con. Nhìn kỹ thì đó như là một cái miễu lớn, ở trong lại hình như có chùa hay miếu, hay không có gì chăng nữa thì cây cối um-tùm thế kia cũng che đỡ cho mình được ít nhiều. Khách liền dấn bước về nẻo miễu. Nhờ có chớp nhoáng nên tìm lối vào cũng không lâu. Trong miễu quả có một cái chùa cổ, nhưng khách không dám vào. Trong chùa vắng ngắt, mà tối tăm lắm. Chớp có nhoáng lên được lát nào thì mới thoảng thấy một cái bệ phẳng trần giữa những cột to sù, và một vài tượng bụt cụt đầu nằm ngổn-ngang dưới đất. Sau cái bệ ấy là bóng tối, cái tối sâu âm-thầm, sâu thăm-thẳm, người ta không biết trong ấy có những gì; người ta cũng không biết sợ những gì mà không dám liều bước vào chỗ đó. Không những không dám vào tận đấy, khách lại không dám bước qua cửa chùa. Vả ngoài hiên cũng còn rộng, cũng đủ để cho khách ẩn mưa. Khách ngả nón ngồi đó, không lo ngại sợ hãi gì, nhưng không hẳn được yên lòng.
Bấy giờ hạt mưa đã lác-đác, rồi ào-ào trút xuống, nước hắt vào gần chỗ ngồi. Khách phải thu hình lại lấy nón che chân. Trông ra chỉ thấy một màu đen tối. Trong cái khoảng đen tối chốc chốc lòe lên sáng ấy, chỉ nghe tiếng rầm-rập rào-rào nối vào những tiếng soẹt tiếng đùng như cả một phương trời chuyển động. Sấm dồn, sét nổ, gió réo, mưa gầm…. Bấy nhiêu cái kinh-hoàng cho cây cỏ khiến cho khách chẳng kịp nghĩ ngợi gì; trong lòng khách bồi-hồi lắm. Nhưng biết làm thế nào? Trời mưa, đành phải cố ngồi đây mà đợi cho tạnh hẳn.
Khách là một người bộ-hành đi từ phương nam đi lại. Khách từ nhà đến đây ròng-rã mất một ngày đường, mới rồi nghe thấy mới ở Bắc-thượng có ông Cao-sĩ sống từ đời Lê mạt tới bây giờ đã ngoài một trăm tám mươi tuổi ; cụ biết được nhiều điều mầu nhiệm, đoán được các điều hậu lai. Khách nghe thấy thế, không quản xa-xôi đi ngay tới Bắc-thượng ở gần thôn này để xin điều chỉ giáo. Ở nhà đi từ sáng, định đến chiều tới nơi, tìm vào nhà một ông họ Đàm là bạn học cũ, nghỉ ở đấy một đêm sáng hôm sau sẽ đi tìm cao-nhân. Khách đi chẳng may lạc đường, lúc biết ra thì trời đã tối. Hỏi thăm cặn-kẽ rồi cứ đi, không muốn trọ đỗ ở đâu. Gần đến Bắc-thôn thì trời mưa, khách phải miễn-cưỡng vào ẩn trong miếu.
Khách ngồi ở hiên chùa đợi tạnh, tuy có bồi-hồi thật song chỉ là cái bồi-hồi của mọi người gặp phải những lúc này thôi, chứ khách có biết đâu đến cái tai nạn ghê gớm khách sắp phải gặp!
Chùa này có tiếng là thiêng lắm. Chùa dựng lên đã lâu, nghe nói là của một ông quan triều Đinh, cáo lão sai làm để đến tu niệm. Bây giờ tuy là nơi bỏ hoang cách xa hẳn làng xóm, nhưng trước kia, quanh năm vẫn tấp-nập nghi-ngút, khách thập-phương qua lại kêu cầu rất nhiều.
Tự nhiên mấy năm chùa này xảy ra một việc rất kỳ dị. Sáng hôm rằm tháng chín năm ấy, những người đi lễ đến chùa thì cửa chùa còn đóng. Đợi mãi đến lúc mặt trời đã cao mà chưa thấy nhà sư thỉnh chuông. Đẩy cửa chùa thì cửa không cài then trong, mà từ tượng bụt bát nhang, cùng giá bình, trên phương-trượng đều đổ vỡ. Lạ một điều là các tượng bụt bị quăng cả xuống đất, pho nào cũng cụt mất đầu. Đang kinh ngạc thì người ta lại lôi ở trong xó tối ra mấy cái thây cũng cụt đầu, là xác hai vị sư và hai chú ticu.
Đi trình huyện-quan. Huyện-quan đến khám-xét và tra-vấn nhưng không ra được manh mối, mà kỳ quá, trong chùa ngoài những thủ cấp của bụt và sư ra thì không thấy mất mát chi. Không biết hung-thủ làm gì bằng những của ấy. Không tài nào khám-phá được. Đành phải bỏ. Rồi dần dần việc đó cũng bẵng đi. Nửa năm sau trong chùa lại có hai nhà sư khác đến ở. Hai nhà sư chưa kịp thu dọn, mới đến hôm trước, hôm sau một ông trốn đi đâu mất, còn một ông thì chết lăn ra sau phương-trượng, không biết được tên họ, vì ông ấy cũng cụt đầu. Còn đương tầm bắt ông sư đi trốn, chưa tìm được tăm tích, đến sáng thứ ba đã thấy ông ta chết treo lủng lẳng ở cây đại lớn trước cửa chùa! Khắp vùng đó nôn-nao lên vì sự quái gở. Ngay từ ngày xảy ra mấy cái án mạng ấy, người bàn đi, người bàn lại, phần nhiều người tin rằng chùa này phát hung-thần. Vẫn biết nói thế là lạc lẽ, nhưng bảo là quân gian đồ làm nên chăng? — Vô lý, chúng giết những người tu-hành vô tội ấy làm gì? Mà những vị sư ấy ai cũng biết là người chân-tu, thì bảo rằng có tay đến giết để trị tội ác cũng không có lý. Vậy thì đành nhận là chùa đó hoặc bị hung-thần chiếm, hoặc bị yêu quái ám vào. Nhân đó, mấy người chú ý riêng về việc này đều nói quả-quyết rằng: thường thường những đêm ầm-ỷ mưa gió; trong chùa thấy lập-lòe một ngọn lửa xanh, họ cố rình xem thì thấy hiện lên những hình thù rất là quái-gở, xúm quanh ngọn đèn mà rì-rầm nói chuyện với nhau. Câu chuyện nói ra ai cũng lấy làm sợ-hãi, nhất là đàn bà con trẻ thì lại càng thất kinh. Chùa đó vì thế thành ra một nơi ghê-rợn lâu ngày không ai dám bén mảng.
Ba bốn năm trời không nhang khói, không người qua lại, không ai dám biết đến những việc xảy ra ở trong. Miễu thành ra rậm rạp, chùa thành ra bí-hiểm, chốn này coi như một nơi tụ-họp của vong-hồn người chết hay một cái cửa xuống âm-phủ, lù-lù hiện ra đấy để nạt người trần-gian.
Người ta lại kể chuyện rằng: « Một hôm, có một bọn người đi buôn ở xa đến không biết là trong chùa có yêu quái nên rủ nhau vào ngủ đó một đêm sáng hôm sau không thấy ra nữa. Ai cũng biết là bọn người ấy tất thành ma không đầu. Rồi mỗi năm lại thêm một điều kỳ-dị: Khi thì mấy người táo-tợn bị thiệt mạng và mất xác vì đòi vào khám phá trong chùa ; khi thì ông lý-trưởng làng trên, vì dám nói động đến chùa này, nên tự nhiên bỏ nhà đi đâu mất; khi thì bọn tuần tráng trong làng gặp thấy trong lúc đêm hôm những con yêu tinh tóc xõa áo trắng đi lại vẩn-vơ quanh miễu. Bao nhiêu bịnh tật, bao nhiêu tai nạn ở vùng đó người làng đều cho là các hồn người chết làm ra cả.»
Nguy hại là thế, nhưng khách có ngờ chi. Có lẽ khách chưa bao giờ có ai bảo cho biết việc trong miễu. Bên ngoài mưa đã ngớt, khách còn ngồi dốn để đợi cho tạnh hẳn, đã toan tìm chỗ nằm ngủ đến sáng mai. Bỗng nghe ở phía sau có tiếng sột-soạt, khách ngảnh nhìn thì thấy trong xó tối hai con mắt lè-lè sáng. Hai con mắt tuy nhỏ nhưng trong xó tối trông thực là ghê người. Lại nghe thấy tiếng gừ-gừ lẫn với tiếng nhai ngâu-ngấu. Khách «suỵt!» một cái thì một con cáo chạy bổ ra lẫn vào trong một đám bụi cây. Con cáo vừa chạy thì một con rắn to ở phía ngoài bò lần qua. Khách vừa đứng phắt dậy thì đã thấy dưới ánh sáng mờ-mờ của mặt trăng soi xuống, con cáo nhảy ra chập-chờn chực vồ con rắn. Hai con đang gầm-gừ phì phò sắp đuổi nhau thì khách nhảy xổ ra dẫm lên đầu con rắn. Nó oằn oại rồi chết ngay, còn con cáo thì chạy biến mất. Bấy giờ mưa đã tạnh hẳn, chỉ còn tí-tách mấy hạt đọng ở cành cây mái chùa rơi xuống thôi. Khách thấy trời đã quang-quẻ, mà ở chốn này lắm rắn rết như thế chừng không ngủ yên được, nên xách nón lững-thững đi ra.
Lạ thật! khách là ai, mà lại thoát khỏi được bao nhiêu nạn ghê-gớm ở đây như thế? Hay là số chưa đến lúc chết, nên trời đất che chở không cho những loài yêu quái phạm được tới mình? Khách đi ra, bao nhiêu cảnh dữ tợn âm-u như đe với khách rằng sẽ báo-thù có ngày, mà khách vẫn thản nhiên không chú ý tí gì cả. Tiếng gió trên cây rung động. Tiếng chân khách dẫm lên cành gẫy ngoài sân… Ta không phải lo cho khách nữa, trên con đường nhỏ hẹp bùn lầy kia, khách đã rảo bước đi về thôn Bắc.
Ông họ Đàm phì lên cười:
– Nguyễn tiên-sinh lẫn mất! Bao nhiêu chứng cớ hiển nhiên còn đấy, ai dám bảo là không có? Chính tôi đây cũng không còn ngờ vực nỗi gì. Thế thì tiên-sinh cho lời tôi nói là vu-khoát sao?
– Chẳng dám thế… Nhưng mà đến câu chuyện này..
Câu chuyện này là câu chuyện khách thuật lại cho bạn cũ nghe: Ông họ Đàm nhứt quyết không tin việc Nguyễn tiên-sinh ẩn mưa trong chùa bỏ hoang mà còn sống được mà ông Nguyễn thì lấy làm lạ lắm, lại bực rằng bạn cho lời nói của mình là lời bịa đặt để kinh-ngạc mọi người.
Hai ông bạn ngồi đối diện trên mâm rượu, vừa chén tạc chén thù vừa cãi nhau về câu chuyện yêu quái. Ông họ Đàm người xương-xương, búi tóc nhỏ, gò má cao, trán gồ, mắt bé mà sắc-sảo. Cách nhau đã hơn mười năm trời — kể từ ngày còn theo học cụ bảng Đản — bây giờ mới gặp mà hai người không quên nhau; hai ông vẫn giữ được nét mặt ngày còn đồng học. Ông Đàm thấy ông Nguyễn, vẫn nước da đo-đỏ, vẫn đôi mắt nghiêm trang, vẫn cái miệng măm-mắm trên cái hàm vuông của người chính-trực quả quyết, bây giờ lại thêm hoa râm cái bộ râu ba chòm, mà trước kia bạn học vẫn gọi đùa là râu ông« Trình-tử » ; ông Đàm thấy ông Nguyễn đến, xem chừng vồn-vã, vui mừng.
Sau khi hỏi nhau về cuộc đời mười năm về trước, ông Đàm thở dài mà than trách thân-thế của ông. Nay ở thôn Bắc, ông chả muốn làm gì cả ; cái công luyện tập sách đèn bấy lâu đã tính đem ra răn bảo đàn sau, nhưng nghĩ có điều bất-đắc-chí nên lại thôi. Phó thác việc gia đình cho « bà nó » chăm chút. Bà là người đảm, thắt lưng bó que làm lụng, nuôi dạy con cái, cung-phụng ông chồng. Ngày dài tháng rộng ông chỉ văn thơ ngâm vịnh cho tiêu khiển, cái công-danh sự-nghiệp khiến cho ông đã chìm nổi lắm nước mà không kiếm được chút chi, thôi thì ông cũng không cần nữa. Mặc kệ! đời nó xoay vần, đời nó sóng gió, ông chán lắm rồi. Ông nghỉ ngơi, ông thơ phú, ông châm chọc đời chơi.
Nhưng cái ông chán đời để yên ấm trong điền-viên ấy lại liên quan đến truyện cái miễu. Ông thấy Nguyễn tiên-sinh nói đến, ông không «rũ áo » mặc kệ việc đời, ông lại đem bao nhiêu điều kỳ lạ kể cho bạn biết; rồi lại tiếp:
– Thế-gian lắm điều kỳ lạ, song không kỳ lạ bằng truyện này. Mấy năm nay, bên tai tôi không lúc nào ngơi được những điều kinh-dị người ta kể. Trước vẫn cho là việc bầy đặt, sau cũng đến phải tin. Vả «thế-gian chẳng ít thời nhiều » vạ gì bịa đặt ra những điều người la không trông thấy! Huống chi việc lại xảy ra ngay gần đây, các người thôn này đều rùng mình kinh hãi, ai cũng lo sẽ gặp phải cái tai vạ tầy trời…. một người đặt để ra nói còn có lẽ, chớ có đâu cả mấy thôn gần đây ai cũng nói đến những điều không có để nạt nhau ư?…. Tiên-sinh ở xa đến, đành là thấy các điều kể trên này là lạ lùng lắm, nhưng lạ lùng mà có thật, lại thật hơn cái việc ẩn mưa trong chùa của tiên-sinh vừa kể cho tôi nghe…
Ông Nguyễn không muốn cãi lại, ngồi lẳng-lặng ngẫm nghĩ hồi lâu. Có lẽ ông cũng hơi chột dạ, có lẽ ông đang tìm cái cớ vì sao ông không phải làm con ma cụt đầu trong chùa. Nhưng ông đặt chén rượu xuống sẽ lắc đầu mà nói:
– Người ta vẫn bảo rằng ma quái chỉ đến nạt những người yếu bóng-vía. Còn tôi thì tôi cho là những người ấy tự nát mình thì phải hơn. Trời đất sinh ra người, có thâm thiểm gì mà tạo ra những vật ấy để hại người ta? Chẳng qua bụng mình bao giờ cũng chứa sẵn cái sợ, trong trí lúc nào cũng tưởng có các vật thiêng-liêng độc ác nó chỉ chực ám ảnh mình. Bởi thế, một tiếng động trong đêm tối, một tiếng chim kêu trong lúc đêm tăm đều khiến cho mình trông thấy những hình-thù không có. Một bọn người đi ngoài đồng ban đêm thường có người kêu rú lên rằng « ma », mà những người kia thì lấy làm ngạc- nhiên, không thấy gì cả. Thế thì ma ấy ở đâu, chẳng là ở cái nát đảm của người nhát, ta vẫn gọi là yếu bóng vía ấy hình dung ra trước mắt hay sao?
Ông Đàm:
– Trong trời đất có nhiều việc ta lấy lý-tưởng mà đoán biết được, lại có nhiều việc cao sâu ta không thể lấy tri-thức mà đo-lường. Vậy chỉ nên tin là những điều ta cho là vô-tý nhất cũng có thể được … Này xem như cái việc oan-hồn hiện lên bảo mộng cho Bao-long-Đồ khi trước ngoài những mưu-kế Bao-Công bày ra, còn nhiều điều vẫn chép trong dật-sử. Lại như việc thần Xương-Cuồng ăn thịt người trong cái miếu hãm hại Bất-Vi ở nước ta ngày xưa, ai dám bảo là truyện mơ-hoặc? Không nói đâu xa, không nói đâu đến truyện cũ trong đó đầy dẫy những tích oan-hồn hiển-hiện …. nói ngay những điều tôi mắt thấy tai nghe ở trong miếu cũng đủ chứng rằng các quỷ thần hoặc tà hoặc chính, là có thật. Tạo-hóa dựng nên, hay là cho phép những linh-hồn ấy được ở lẫn với người trần-thế, là ý thế nào ; bất-tất phải cố bóp tâm nghĩ những điều mầu-nhiệm ấy vội. Bây giờ chỉ nên biết: Những hung-thần hay yêu quái đến đột nhiên chiếm cứ ở đấy; một là để phạt lũ tăng-ni làm nhiều điều hắc-ám trong nơi thanh tịnh, mà tội ác chỉ giấu được người trần-gian ; hai là để làm hại những người tà, người đến số chết như thế và người vô phúc lạc vào đó. Ví bằng việc sát-hại trên này không do ở lòng trời khiến ra, mà lại do ở cái quái ác của các linh-vật kia, thì chỉ một lưỡi tầm-sét đánh xuống là tan nát hết. — Một lẽ nữa là các vong-hồn đây là những hồn đơn quỷ đói, đi tìm tòi các người tận-số, hoặc phải chết vì nước lửa, hoặc chết vì rắn rết, vì sấm sét hay vì cách nào ; thì run rủi đến đây mà chết. Những người chết đó xác thì bị các quỷ đói chia xé, còn hồn thì lại vẩn-vơ quanh miễu, lâu ngày thảnh tinh, chính là những con tinh tóc xõa áo trắng lừ-lừ trong những lúc đêm hôm mà thỉnh-thoảng bọn tuần-đinh trông thấy đó..
Ông Nguyễn vuốt râu cười lạt:
– Tiếc thay! Bộ Liễu-Trai không thấy chép những lý-luận như tiên-sinh vừa giải đó. Người đọc Liêu-Trai có lẽ vì thế sẽ kinh khủng hơn nhiều….
– Thế ra tiên-sinh vẫn chưa tin ư? Trước kia tôi cũng không thể tin được lời họ thuật lại. Mãi về sau, vì suy nghĩ vừa dò xét, lúc « chính mắt được thấy » cái ánh lửa xanh lè trong chùa với những yêu tinh quanh chùa mới không nghi-ngờ gì nữa.
Nguyễn-công thấy ông Đàm nói quả quyết lắm, đã bắt đầu kinh dị, cho là việc lạ thường. Ông cau mày một lúc, rồi hỏi:
– Hay Đàm tiên-sinh cũng lại bị cái lỏng yếu đuối nó mê-hoặc chăng?
– Không phải, trước khi tôi chưa được thấy những điều tôi vừa nói thì lòng tôi vững-vàng lắm, nhưng mắt thấy rõ ràng, mà cùng thấy một lúc với các người đi rình với tôi đêm hôm đó! Những hình thù trong chùa thì trông không rõ, chỉ thấy xanh lè với tối đen thôi, còn ở quanh miễu thì không còn bảo rằng trông lầm được nữa.
– Thế thì lạ thật! trong trời đất lại có điều lạ đến thế ư?... Nếu vậy đêm nay tôi thử vào chùa rình xem ẳ…
– Tôi can tiên-sinh đấy. Tiên-sinh để mặc họ, hơi đâu mà trêu họ cho mang vạ vào mình….
Nhưng ông Đàm khuyên bạn thế nào cũng không được, ông Nguyễn cứ một mực rằng:
– Tôi vì nghi hoặc lắm, không đành tin một việc huyền hồ như kia. Nếu có xảy ra điều gì bất-lợi cho tôi, tôi cũng không oán thán.
Cơm nước xong ông Đàm chỉ lối cho ông Nguyễn đi lên Bắc-thượng tìm cao-sĩ, và hẹn đến chiều sẽ lại hội diện ở nhà.
Chiều hôm ấy, ông Nguyễn lên Bắc-thượng và lại thăm ông Đào-Đình Văn-Khê là huyện-quan ở gần đó, đã xong. Hai ông (Đàm và Nguyễn) lại vừa uống rượu vừa nói chuyện. Ông Đàm rất lấy làm lo ngại cho bạn, vì ông bạn cứ nhất quyết đi khám-phá việc trong chùa.
Can ngăn thế nào cũng không được, ông Đàm ngại ngùng tiễn bạn ra khỏi thôn. Lúc chia tay lại cạn lời khuyên lần nữa. Ông Nguyễn phải bật cười mà rằng:
– Sao tiên sinh sợ hãi quá như thế? Người xưa đã bao phen nguy khổ mới biết được những điều hay. Đây chả là một điều biết ư? Tôi muốn tin lời tiên sinh mà vẫn còn chưa hiểu việc lạ, vậy thì tôi di cho hiểu chớ có quan ngại gì.
– Nếu vậy, xin vĩnh biệt, thân người là trọng, tiên-sinh không muốn giữ gìn, tôi cũng không dám can ngăn.
Nguyễn-công thì mỉm cười mà lên đường, còn Đàm-công đứng trông theo, cau mày lẩm-bẩm mấy câu rồi trở bước.
Bấy giờ vào gần trống canh ba.
Khu miễu trơ-trơ ở giữa khoảng đồng không bát ngát kia, phản chiếu cái hình lù lù đen sẫm xuống mặt nước của cái đầm bên cạnh. Mảnh trăng trên trời không bị mây khuất, tỏa ánh sáng lạt-lẽo xuống khắp miền đó đang lặng lẽ như tờ. Trong không trung hây-hẩy một làn gió lạnh thoang-thoảng đưa những hơi thở của cảnh vật ban đêm.
Sáng trăng. Trong miếu vẫn âm tối. Lác-đác ở dưới đất chỉ thấy những mảnh sáng lọt qua những kẽ hở của đám cây lá chen sít với nhau. Tối thì tối um, lại có sáng, sáng xanh mà lạnh-lẽo. Thỉnh-thoảng gió lay cây cựa trong miễu bao nhiêu sáng tối cùng đưa-đẩy, cùng nhấp-nháy, như có tay sai khiến cho những bóng ấy cử động chập-chờn … Mà yên lặng lắm! Yên như say, yên như chết, yên như tất cả cùng nín hơi nín tiếng, cùng tê tái mà sợ hãi, sợ hãi các yêu-tinh quỷ-quái, các vong-hồn những người cụt đầu, người thắt cổ, người mất xác trong chùa.
Trong chùa cũng đen tối: Ngọn lửa xanh ở giữa không đủ sức soi ra ngoài cái vệ phẳng lỳ. Ai thắp ngọn lửa ấy? Không có ai. Trước khi ngự lơ-lửng trên bệ, ngọn lửa cứ từ-từ từ trong cái tường không trông thấy mặt đi ra.. đi như con đom-đóm, đi đến gần cái bệ có trông kỹ thì mới biết là một cái đèn. Cái đèn trông cũng lạ: Không có bầu không có bóng chỉ thấy một ngọn lửa lè-lè ở giữa một cái đĩa sắt cực to. Có lẽ là ngọn lửa của người chết nêm không thật là lửa, đốt lên đây có lẽ là để hù các vong-hồn.
Trong xó có tiếng chuột rích, ngoài hiên có tiếng lá rơi. Thế rồi im, không còn tí gì là hoạt-động của sinh- vật nữa. Có chăng cũng chỉ văng-vẳng, tợ như tiếng nhạc nhong-nhong mãi tít trên thượng tầng không khí, hay ở mãi thế giới hư-vô nào. Rồi lại tiếp đến tiếng vo-vo rất nhỏ, nhỏ lắm, nhỏ quá, tiếng vọng kêu hay tiếng ma khóc trên lưng chừng trời mây? một bàn tay đen sì to tướng thò ra, năm ngón quều xuống như chực quào lấy ngọn đèn. Rồi cứ yên đó, không co lại, để một cái tay nữa đặt lên trên. Tức thì bốn năm con quỷ ở đâu đến ngồi quanh bệ, che khuất ngọn lửa xanh và châu đầu vào nói chuyện với nhau, nói không ra tiếng, chỉ thấy lắp-bắp phì phào mấy cái, rồi cùng nhe hai hàm nanh ở trong cái mồm rất lớn, dưới đôi mắt trợn thao-láo, trên cái mặt mầu lửa lè xanh.
Ông họ Nguyễn can-đảm đến thế bấy giờ trống ngực cũng đánh thình-thình. Ông ta núp một xó gần đấy, chỗ ấy tối đen như mực, các con quỷ không trông thấy,… hay là chưa muốn trông thấy ông ta.
Bấy giờ các con quỷ gật-gù rồi liếc mắt cho nhau trông về chỗ ông Nguyễn nấp, rồi lại rì-rầm nói nhỏ hồi lâu, cố ý chưa nghe rõ được gì thì bỗng thấy một con « hà-hà » mấy tiếng. Rồi lại im rồi lại rì-rầm một hồi nữa. Sau một con (ý chừng con chúa-quỷ) thì-thào một thôi một hồi nói như người hết hơi. Lũ quỷ liền rút năm con dao sáng giơ lên trước mặt và đứng dậy cùng nhau cười khàn:
– Hà-hà..!
– Hà-hà! hà-hà..!
Ông Nguyễn không còn hồn vía nào nữa, khẽ đứng dậy vùng chạy ra ngoài cửa thì đã bị một con quỷ nữa ở ngoài xổ vào, nắm chân kéo lại. Bấy nhiêu con liền khiêng để lên bệ và khêu to ngọn lửa lên. Ông Nguyễn kêu không ra tiếng, nhắm nghiền mắt lại, sẵn sàng da thịt đợi cho dao sắc và ngón tay ghê gớm của lũ quỷ xé tan tành. Bỗng nghe thấy một con nói, nói tuy khẽ, nhưng lần này là tiếng người:
– M…ở mắt….ra…a. Mở…mắt…!
Ông Nguyễn vô tình vâng lời, mở mắt ra thì mặt một con quỷ ghé gần vào mặt ông ta. Nhìn kỹ. Càng nhìn càng kinh-hòn. Ông ngơ ngác liếc quanh rồi lại nhìn trở vào mặt con quỷ ấy. Nó liền cầm ngọn lửa gần vào mặt nó, ông ta liền điên tiết quát lên:
– Chúng bay tụ nhau ở đây để giết người ăn thịt đấy phỏng?
Một con rền-rĩ trả lời:
– Chín…ph…ải…chính…phải..rồi…!
– Thế thì chúng mày ăn thịt tao đi!
– Hãy yên… sắp đến nơi rồi ….!
Ông liền quát rất to:
– Thì giết ông đi! giết đi!! giết đi!!!
Con chúa quỷ đáp:
– Không nói to, đợi đó ….
Bấy giờ ông ta bị một tay ấn cổ, một tay ấn hai chân, người rủn cả ra rồi. Các con quỷ thì lại phào-phào nói nữa. Ông biết là nó bàn nhau giết mình, liền hăng máu vùng lên thét lo một tiếng. Các con quỷ túm lấy ông giơ dao chực chém. Ông né mình được khỏi thì ngọn đèn một con đang cầm tắt hẳn, rồi lửa đuốc bỗng sáng rực lên, rồi có tiếng xôn xao, rồi năm con quỷ đều bị trói chặt. Ngoài cửa chùa đến hơn một chục người tay đuốc tay gươm xông vào.
– Các người là lính của Đào huyện quan sai đến phải không?
Lính thưa:
– Bẩm, cả Đào đại-nhân cũng đến.
– Đâu?
– Bẩm ngài, quan cùng mấy người xông vào trong kia bắt thêm.
Nói dứt lời thì huyện-quan và mấy người đi theo dẫn con chúa quỷ lúc nãy ra. Huyện-quan cười và nói với Nguyễn-công:
– Bây giờ tiểu-đệ mới biết mặt vong-hồn.
– Nếu không có đại-nhân đến, thì tiểu-đệ cũng bị các «vong-hồn» giết chết, tiểu-đệ xin đội ơn mãi-mãi.
– Nhân-huynh dạy quá. Đó là chức-trách của tiểu-đệ, khi nào dám nhận ơn của ngài.
Huyện-quan lại ngảnh trông lũ quỷ:
– Các «vong-hồn» oan uổng đói khát quá, nay ta đem về huyện cho nơi ăn chốn ở hẳn hoi. Quân bay! «rửa mặt» cho chúng!
Tức thì bằng ấy con quỷ đều bị rứt nanh, vặt râu và chùi hết phấn nhọ bôi trên mặt. Nguyễn-công trông vào con chúa-quỷ kinh ngạc kêu lên một tiếng: « Đàm tiên- sinh! »
Huyện-quan gật đầu, cười mà nói:
– Phải Đàm tiên-sinh, hay là Ba-Đen,(vì trong bọn vẫn gọi thế). Bọn này Ba-Ben đứng đầu, tất cả có mười hai đứa, nhưng đây mới là những tên ghê gớm nhất, cả bọn thì một nửa là quân cường-bạo hợp lại, còn một nửa là tuần đinh ở mấy làng gần đây. Cái ý kiến giết sư lấy chùa làm sào-huyệt và bày ra những việc yêu-quái một cách khôn khéo ghê gớm như thế, là Ba-Đen nghĩ ra. Sào-huyệt của chúng ở đây, nhưng chỗ chúng đến ăn cướp lại xa lắm, bởi thế sau những án giết người lấy của, dò xét thế nào cũng không ra. Ai có ngờ đầu rằng bọn cướp kia chính là lũ yêu-quái — yêu quái giả-mạo!
Đàm tiên-sinh (hay là Ba-đen) khôn khéo như thế, song vẫn có điều khuyết-điểm: Ba-Đen cứ tưởng rằng trong bọn ai cũng sợ hắn, và tin rằng thủ-hạ hắn đã uống máu ăn thề rồi thì không ai dám làm phản. Nhưng mà Đàm tiên-sinh lầm, cái lòng tham lam chỉ muốn vơ cho đẫy, muốn cướp hết cả phần của thủ-hạ mình, với cái lòng nham-hiểm chỉ khát giết cho nhiều nhân mạng kia ; đã khiến cho một con yêu giả trong chùa này sinh ra căm hờn, và hối hận. Con yêu ấy tên là Trần-văn-Thình, tuần-tráng ở làng trên. Chiều hôm nay bản-chức đang ngồi trong công-đường thì lính dẫn nó đến. Nó đến để thú tội và tố cáo các việc «hiển-hiện» ở chùa Đầm. Bởi thế bản-chức mới đem lính đến chận lấy cửa sau mà tóm được …
Đàm tiên-sinh chịu trốn, không muốn cho bản-chức được cái hạnh-ngộ tiếp kiến ngài, không muốn cho bản-chức biết ngài là Ba-Đen ….nhưng bản-chức hỏi tên thú tội ở huyện-đường nên đã biết các cửa ngạch bí mật trong chùa và đã sai lính vít hết lối trốn.
Nguyễn-Công lúc đó vừa thương, vừa giận, vừa buồn cười một cách chua chát mỉa-mai: ồ! có ai ngờ! có ai ngờ đâu rằng cái khoảng mười năm xa-cách đã thay đổi lòng người cố-hữu nhanh chóng đến như kia.. Mà là người văn-tự! Có văn-tự để mà quỷ-quyệt, để bày ra mưu sâu chước thiễm, để mà làm nhiều tội ác cho dễ dàng, để mà khéo rào khéo chống, đối với tội ác của mình làm ra như người đứng ngoài cuộc, lấy miệng lưỡi làm cho người non trí phải tin những điều vô-lý, những truyện ly kỳ!
Ông vừa nghĩ thế vừa trông vào Đàm tiên-sinh. Bấy giờ Đàm cúi gằm mặt xuống, búi tóc tuột ra rủ xuống vai. Nguyễn-Công toan mắng cho tàn tệ, nhưng nghĩ lại, lườm lườm không nói chi cả, ngoắt bước ra, ngảnh chào quan Huyện rồi đi.
Hừ! họa hổ, họa bì, nan họa cốt,
Tri nhân, tri diện, bất tri tâm!