Chương 1 (tt)
dịch giả: văn hòa
Chương 1 (tt)
ùa thu tốt đẹp kéo dài. Nắng hạn quá độ, các cây hoa cúc sống dai mà ông đặc biệt ưa thích, không lớn nổi, hoa nhỏ và không màu, một nỗi thất vọng ê chề không ai có thể làm gì được. Ông William rất bận tâm về những vụ “xì căn đan” trong quản lý thành phố đã nổ tung. Ông phải quyết định, bênh vực cho các bị cáo hay không, khi ông biết rõ là họ có tội. Dù sao đi nửa, họ vẫn có các quyền luật định của họ, ông sẽ bảo vệ cho các quyền ấy, nhưng liệu có thắng nổi không, hay vẫn còn nguyên tội trạng. Sự chọn lựa thật là tế nhị.
Một buổi sáng cuối tháng chín, trong cuộc tiếp xúc với số người mà ông dè dặt không gọi họ là phạm pháp, vì tòa án chưa phán quyết. Ông cần gặp họ để tìm hiểu về quan điểm của họ, cũng đơn giản thôi, bởi vì họ cho rằng, có khối người hành động như họ mà không bị buộc tội, thật là thiếu công bằng, họ không hiểu vì sao họ lại bị quấy nhiễu.
Ông William ngắm nghía ba gương mặt phì nộn, được tô điểm nhờ nhiều năm ăn uống ngon lành. Ông không cố tìm hiểu về dòng giống của họ, họ không giống nhau, nhưng cả ba cùng gọi lên nguồn gốc của tội ác trong hệ thông chính trị của đô thị lớn nhất thế giới này. Tuy nhiên ở đây không đặt vấn đề gốc gác, quê hương, nhưng là môi trường sống mà xã hội đã áp đặt thêm cho chúng. Những căn nhà ổ chuột, những tranh chấp của bọn găng-tơ, những thiệt hại, những đánh đấm, và cuối cùng là tội ác, đã tạo nên những cá nhân đang chạm trán với ông, kể gì đến sự biến chất của họ. Ông William cảm thấy xa cách họ, lương tâm ông trong sáng, dáng vẻ suy tư, ông từ vùng Vermont đến, đang đăm đăm nhìn họ từ sau bàn giấy của ông.
Ba cái mặt bự không nói lên được cái gì hết. Người đàn ông to lớn khẽ ho, nói:
- Chúng tôi biết những luật sư như ông đòi được trả công xứng đáng, và chúng tôi sẽ trả.
Ông ta có giọng nói dễ nghe đến đỗi ông William lấy làm lạ, quan sát ông ta qua sự bình thản thường ngày của mình, và nghĩ là mình đang có chuyện với một con người học thức.
- Chắc là tôi phải trông vào đồng tiền của các ông trả cho công việc của tôi làm, - Ông nói - nhưng tôi lại đặt câu hỏi: các ông mong gì ở tôi?
Con người nhỏ bé nhất mà phì nộn nhất ngồi giữa hai người đàn ông kia, nghiêng mình tìm cách làm mủi lòng ông luật sư:
- Nhờ vào lòng tốt của ngài. - Ông ta nói.
Giọng nói van lơn trầm buồn, giọng của một đứa con cưng xuất phát từ một cái miệng đẹp, miệng của em bé đang hờn dỗi. Từ trong nôi, mẹ của em đã từng nhượng bộ trước gương mặt trẻ thơ của em. Một lần nữa ông biết ơn bà Elinor, đã tỏ ra sáng suốt, không nhượng bộ con cái mình. Có đôi khi ông thấy bà hơi cứng cỏi, nhưng bà đã thương con cái phải lẽ, mà không mơn trớn. Sự chính trực của bà không dễ gì lay chuyển nổi.
Ông William lạnh lùng đáp:
- Các ngài không thuyết phục được tôi đâu!
Ba người đàn ông đã quyết định chấp nhận sự bào chữa đơn thuần, ông William đã bỏ cả ba buổi sáng để giải thích nội vụ cho ba người, để họ hiểu sự vô tội là một chuyện, còn quyền lợi công dân là một chuyện khác. Rất có thể họ có tội. Ông William không tìm biết điều đó, vì là việc của quan tòa và tòa án, nhưng dù sao đi nữa, thì họ cũng có quyền phải được bảo vệ.
Người bệ vệ nhất trong đám, người có nước da sẫm màu, bóng láng và ít nói nhất, đã thở ra như lợm giọng. Ông ta nói:
- Tôi nghĩ rằng, đó là điều tốt nhất chúng tôi có thể làm được.
Họ lấy làm chua chát mà nhận thức rằng, không có gì có thể lay chuyển nổi ông luật sư, cố thủ trong một vị trí không đánh vào nổi: hiến dâng tiền bạc, nịnh hót, thuyết phục, không được gì. Họ chấp nhận điều ông William nói, vì họ tin cậy ông và biết ông khéo léo, mà không hiểu ông đồng thời vừa nhận bênh vực quyền lợi của họ và vừa từ chối không bênh vực việc làm của họ, điều đó xem ra không ăn khớp với nhau. Ông William thấy được cái nét lẫn lộn ấy trên gương mặt có hai má phinh phính chảy xệ xuống của họ. Họ đứng lên một lượt, ngẩn ngơ, nửa khiêm nhường nửa phách lối, để ông William ở lại, họ chửi bới nhau, mắng nhau là ngu dại. Ông phải mất nhiều tháng để truy tầm, đưa các chúng cứ, đã phân tích các chi tiết, ông phải bênh vực những con người nói được là ông khinh rẻ, dù vậy, tất cả đều để tôn vinh luật pháp, đó là không ai bị xét là có tội mà không có các chứng cứ đi kèm. Ông đã từng biện hộ cho những tên giết người cho đến lúc lên ghế điện mới chịu thôi, vì nhiệm vụ ông đã hoàn tất.
Ông trở về nhà cuối tuần. Ông có thể thấy mình kiệt sức, nếu không nghĩ đến cái viễn cảnh nghiêm khắc của trách nhiệm đang đợi chờ ông. Còn nhiều tháng về sau nữa, ông không có quyền viện lý do mỏi mệt, vì ông phải đảm trách việc phân tích cái thế giới sâu kín tàng ẩn của một thành phố rộng lớn, nhiệm vụ ông đã được giao phó. Hãy ngợi khen Chúa, có lẽ ông đang nghĩ về lợi ích của tòa nhà lớn xa xôi và yên tĩnh, sự bình lặng của vợ ông, sự an toàn của tâm hồn ông.
Khi về đến nhà, Jessica mở cửa, thấy ông, cô cười hai má lúm đồng tiền. Ông cảm thấy cô rực rỡ trong chiếc áo dài xanh dương tươi mát, cái tạp dề trắng xếp li. Xem chừng không còn tiếng khóc ấm ức nào nữa, và ông tin ngày cưới đã gần kề. Cô đỡ lấy cái mũ và áo choàng từ tay ông. Ông thử nói một câu lịch sự với cô như nói với con gái ông:
- Jessica, ngày trọng đại bao giờ đến vậy?
Cô vẫn giữ vẻ hài hước:
- Thứ bảy tuần sau, đó là ngày sinh nhật của Herbert.
- Kết hợp như thế thật là đặc sắc?...
Ông đặt chân lên bậc cấp đầu tiên của cầu thang, thì nghe tiếng bà Elinor từ trên lầu vọng xuống, bà đã hát, vừa hát vừa làm việc gì đó. Jessica từ phòng áo nói ra:
- Đó là điều Herbert mong muốn.
Ông William bước lên cầu thang. Khi đến thèm nghĩ ở giữa cầu thang, ông dừng lại và nghiêng mình về phía tay vịn. Ông sửng sốt, lại thấy Jessica, trên đường đi đến nhà bếp, đã dừng lại nơi phòng khách phía Đông. Đó là lần thứ ba ông bắt gặp: lần thứ nhất, khi Jessica còn là một con bé, lần thứ hai khi cô ta đã là một thanh nữ và bây giờ có thể nói được là một người đàn bà. Cô ngồi trên ghế bành nhung màu hồng đối diện với tấm gương soi lớn, hình bầu dục, ông có thể nhìn thấy hình bóng Jessica phản chiếu trong gương. Cô ta mỉm cười, song không phải cái cười mỉm duyên dáng ngây thơ mà ông còn nhớ rõ, nhưng là điệu bộ nhăn nhó cô gởi đến cho một người xa lạ nào đó mà có lẽ cô nhìn thấy trong gương. Tuy mặt cô vén gọn những nụ tóc ngắn buông lơi, làm biến thể đầu tóc của cô, và tay trái như đang cầm cái quạt phe phẩy. Cô làm điệu bộ, uốn éo cái miệng xinh xinh như phải phát âm những từ mà không ai hiểu nổi. Cô chăm chú nhìn khuôn mặt của mình trong gương, với đôi mắt to màu xanh biếc, và diễn tả một màn đang cao hứng. Thói quen gì kỳ cục vậy? Ông bị thôi miên và đứng nhìn mấy phút. Rồi ông rón rén đi lên phòng. Ông không thích can thiệp và để cô ta một mình với cái tôi tưởng tượng, làm cho cô thành người ngoại cuộc cả với những gì liên quan đến chính cô. Khi cô ta tưởng có một mình, cô ta có hành động như vậy chăng? Khi bà Elinor và ông vắng nhà, cô ta có chạy luồng tuông trong ngôi nhà trống vắng, cô chọn phòng nào vừa ý để tha hồ mơ mộng, quên mất mình là ai chăng?
Ông bực mình khi nghĩ đến đó, và vừa đóng cửa vừa tự hỏi, ông có nhiệm vụ phải cảnh giác ngay bà Elinor chăng? Tiếng hát xa xôi với âm điệu dịu dàng của bà vẫn còn vẳng đến tai ông. Ông thường tự nhủ, giọng nữ trầm của bà nếu được tập luyện, có thể trở thành tuyệt mỹ. Một lần nữa, ông lại quyết tâm không đả động gì đến Jessica. Rủi bà Elinor cho sự việc là quá quan trọng thì sao, Vả lại, Jessica cũng đã gần đến ngày vĩnh biệt tòa nhà lớn rồi. Bà Bertha đã nhất định cho con gái bà về nông trại để được sống đàng hoàng, để bà có chỗ đi nghỉ hè, và có một nơi hưu dưỡng lúc về già. Cần gì khuấy động ngần ấy chuyện, trong khi chỉ còn một ít lâu nữa cô ta sẽ ra đi.
Ông mặc vội chiếc quần màu sẫm, và cái áo vét nhung màu hồng hạt lựu mà ông thường mặc vào buổi chiều, rồi đi tìm bà Elinor, cố gắng tạo ra vẻ mặt bình tĩnh. Tiếng hát đã ngừng, ông bắt gặp bà nơi phòng nhỏ để đồ vải, bà nói bà đang tìm tấm khăn ren để trải trên cái tủ côm-mốt. Ông chờ bà, sung sướng nhìn bà, và ông thầm vui vì đã không làm khuấy động sự yên tĩnh của bà. Những gì bà đã làm trong ngày, ông đều vừa ý, vì gương mặt của bà diễn cảm, linh động, thật là tươi mát và xinh đẹp. Bà mặc chiếc áo dài màu nhung khảm xà cừ lấp lánh. Hai ông bà bên nhau, và một lần nữa ông hối tiếc vì đã ở tận New York quá xa. Cái niềm hy vọng được bà theo ông lên thành phố lớn lúc con cái đã trưởng thành, ông không thể nào thực hiện dược. Bà không thích thành phố lớn, còn ông thì tiếp tục tính toán thì giờ sắp đặt cuộc sống, để đủ sức tra cứu những vụ án đã nhận bào chữa khi ở văn phòng Manchester, hay tại đây, nơi nhà ông, trong những ngày yên tĩnh mà ông hy vọng nhờ đó để đạt được những lý đoán vững chắc, cần thiết cho cuộc tranh chấp sắp đến, với sự hiện diện của thân chủ.
Ông nói:
- Khi anh về, nghe tiếng em nói đủ làm cho anh vô cùng thích thú.
- Suốt ngày, cái phần cuối điệp khúc cũ kỹ của bài hát mà anh và em đã nghe ở nhà tháng trước, cứ lẩn quẩn trong đầu tóc em hoài. Em tự hỏi, không biết tại sao.
Bà không chờ đợi trả lời, và thật nó đâu có câu giải đáp. Bà đã tìm được tấm khăn ren và trải nó lên một cái tủ com-mốt, rồi cả hai cùng đi xuống lầu. Phòng khách vắng tanh, chiếc ghế bành bọc nhung vẫn nằm chỗ cũ, tấm gương soi phản chiếu hình ảnh của hai người, tay trong tay, họ đứng bên nhau.
Sáng hôm sau, Jessica đón ông ở cửa thư phòng. Ông đã mang về nhà cái cặp da màu đen, đầy căng tài liệu, thư từ và các mẩu tin cắt trong các báo, mà các cộng sự viên trẻ tuổi của ông đã tập hợp cho ông trong tuần qua. Ông chỉ việc hấp thu tất cả số giấy tờ ấy, đến độ biết rõ chúng như biết rõ cuộc đời mình. Ông đã dậy sớm, vội vàng, vì trong giấc ngủ ông bị ám ảnh bởi bộ mặt của ba người đàn ông mà ông nhận bênh vực quyền lợi của họ.
- Xin phép ông - Jessica nói.
Ông William đứng lại, nhớ đến sự việc đã xảy ra chiều hôm qua, ông nghiêm nét mặt nhìn cô và nói:
- Cái gì đó?
Jessica vày vò cái tạp dề trong tay, rồi với một cử chỉ thật nhanh, cô ấp hai bàn tay lên đôi má ủng đỏ, nói:
- Thưa ông chủ, xin ông đừng bận tâm đến dự lễ cưới của con. Con biết bà chủ muốn đến, vì má con, phần con, con không muốn thế. Quả thật, thưa ông chủ, ông không đến thì con lại thích hơn.
Cô làm cho ông bực bội.
- Thế là? Tốt! Vậy thì tôi sẽ nói lại với bà chủ. Thực tình, lúc ấy tôi bận lắm!
- Còn điều này nữa, thưa ông chủ, - Cô lại van nài, ông thì sợ có chuyện gì khác dây dưa lôi thôi - ông không làm điều này cho con được sao? Trong cả nhà, ông là người tốt nhất. Phải, thưa ông, con không dám nói là bà chủ không tốt đâu, nhưng bà đứng về phía má con, ông có hiểu như thế không? Con không thể trách bà, vì má con đã ở đây quá lâu, cả trước khi con ra đời nữa, nhưng mà, thưa ông, sau này con có thể trở lại đây tiếp tục công việc con đã làm, như trước khi lấy chồng được không ạ?
Điều ấy hoàn toàn ngoài quyền hạn của ông. Không bao giờ ông bận tâm về công việc trong nhà, nhất là về kẻ ăn người ở đã phục vụ lâu đời trong dòng họ Winster. Qua trung gian bà Bertha mà ông bà có được Herbert, và Jessica lại là con gái của bà ta. Và qua những gì đã xảy ra trong ngày hôm trước, sự việc đâu con đơn giản nữa.
Jessica nhận thấy vẻ ngạc nhiên và do dự trên mặt gương mặt của ông William. Ông nhìn thấy đôi mắt màu tím tuyệt đẹp của cô gái đang van nài, với hàng mi dài màu hổ phách, sẫm hơn cả mái tóc cô, mà lấy làm buồn tiếc. Tội nghiệp cô bé, sắc đẹp thế này chắc rồi cũng uổng phí thôi.
- Thưa ông chủ, - Jessica nói tiếp - con xin thú thật với ông chủ, con coi nhà này như là nhà của con - Đôi mắt cô lướt qua các gian phòng rộng rãi, đẹp đẽ và nói - con còn nhớ lúc con còn bé tí, ba hay bốn tuổi gì đó, con xô cánh cửa này thưa ông, (cô đưa tay chỉ cánh của hông đi vào đại sảnh) và con đứng đó, tưởng chừng tất cả thuộc về con. Điều đó chẳng phải hay ho gì, nhưng nó lại như thế đó. Rồi khi con lớn lên thêm chút nữa, con còn táo bạo hơn, khi cả gia đình vắng mặt, ba con ở ngoài vườn, má con ở dưới bếp, con ngồi nơi ghế bành kia kìa, ghế bành bọc nhung hồng ấy, con kéo nó đến trước tấm gương soi lớn, con nhìn con đang ngự trị giữa muôn vàn sự xinh đẹp đó và mơ mộng đủ điều. Đúng thế đó, đúng là con đã nghịch ngợm, vì vậy má con mới gởi con vào tu viện khi con lên bảy, vì má con đã bắt được quả tang và bảo là con có những ý nghĩ hoang tưởng tự đại. Nhưng đơn giản đó chỉ là lòng thương yêu, thương yêu ngôi nhà này, thương yêu gia đình này và điều đó vẫn còn tiếp tục, tiếp tục mãi, bởi vì đây là nơi con đã sinh trưởng, sự thật là vậy.
Ông William sửng sốt và khó chịu vô cùng. Cô ta tưởng như tất cả là của cô? Cô có quên chăng là ông cũng đã thấy cô như thế?
- Được rồi, Jessica, tôi sẽ nói với bà Asher về việc đó.
- Ôi, xin ông, con xin ông đừng nói lại cho bà biết điều con đã nói. Đó là ảo mộng của con, con biết vậy, có lẽ bà không hiểu được, không như ông đâu, thưa ông, vì bà là thành phần của gia đình Winsten.
Ông William ít thích cam kết một điều gì mà không có vợ ông, nhất là việc đó có liên hệ đến cô gái này. Cô ta được tạo nên đâu có phải là để làm một nữ tì, ông nghi ngờ ở nơi này có biết bao nhiêu cách tế nhị, bao nhiêu trạng thái tinh thần chỉ có hại cho cô ta, vì gốc gác hèn mọn của cô. Ông không tin vào sự trường cửu của một vai vế nào đó trong xã hội, nhưng phương tiện để vươn lên đòi hỏi một nghị lực mà cô ta không có.
Ông cố ý làm ra vẻ lanh nhạt, nói:
- Này, Jessica, tôi sẽ làm hết sức mình, nhưng nếu bà chủ thấy mẹ cô buồn lòng vì chúng tôi vắng mặt, thì cô cũng không nên trách chúng tôi. Còn chuyện gì khác, cô nên chờ một thời gian. Điều ấy có thể thu xếp được dễ dàng trong mấy tháng hè, nhất là khi các cô cậu đã về đủ mặt, thế nào chúng tôi cũng cần cô giúp đỡ đôi chút.
Cô thoáng có được chút vui mừng, không tương xứng với hy vọng mong manh của cô.
- Ôi, con xin cám ơn ngài Asher. - Cô nói.
Và cô chắp hai bàn tay mảnh mai của cô lại trong một dáng điệu, sung sướng.
- Cô cũng biết, đây chưa phải là lời hứa. - Ông nhắc.
- Vâng, con cũng hiểu vậy. - Cô đáp.
Ông rảo bước đến thư phòng, quên hẳn Jessica khi ông nghĩ đến cảnh đồi trụy phô bày khắp thành phố. Cuối ngày ông có nhớ lại, nhung sự kiện có vẻ là trò trẻ con, có thuật lại cho bà cũng vô ích. Đã từ lâu ông hiểu được sự bình an trong gia đình đến từ những gì quên đi hơn là từ những gì giữ lại. Bà Elinor có thể phật ý vì chuyện Jessica xin trở lại làm việc như trước một cách quái lạ này, nó còn làm phật ý bà Bertha, một con người quan trọng. Ông không quên hắn được, vì cách mấy ngày, khi bà Elinor báo tin lễ cưới của Jessica đã gần kề, thì ông bảo, ông không đến được. Đúng như vậy. Dù thế nào, ông cũng khó có mặt ở nhà, nhất là vào lúc bây giờ. Ông nói:
- Em thân yêu, tuần này anh không xa rời thành phố được. Sáng thứ hai anh phải đi sớm, em chỉ gặp lại anh sau ngày thứ sáu hay thứ bảy. Anh đang chuẩn bị hồ sơ cho vụ án. Không có anh, các người khác không làm được, anh không thể nào đến dự lễ cưới, cho dù đó là lễ cưới của Susan, con gái của chúng ta.
Bà Elinor nói:
- Bà Bertha sẽ bất bình đấy! Con cái chúng ta cũng chẳng có đứa nào có mặt. Anh chị em của em thì lang thang đây đó, em cũng chẳng biết tại sao. Em mong lũ con mình đừng bắt chước họ, nhưng em đoán chừng dì Emma sẽ có mặt.
Ông nói với giọng nhẹ nhàng hơn:
- Anh tiếc rằng, biết đâu chính chồng em cũng lang thang như thế.
Ông thuật lại cho bà nghe những lời Jessica nói cũng dễ dàng thôi, nhưng ông thấy vô ích, vì ông chỉ bị cô tớ gái tâm tánh thất thường làm giao động trong giây lát. Ông bằng lòng để Jessica ra đi, và ông sẽ chẳng làm gì để cô ta dễ dàng trở lại. Ông lấy làm bất mãn khi nghĩ rằng cô ta coi cái nhà này, cái nhà hiện tại của ông, như là nhà của cô ta, ngay cả chỉ đề cập đến ngôi nhà này một cách thiêng liêng cũng vậy.
Lễ thành hôn đã cử hành không có ông, và khi ông về muộn trong buổi chiều thứ bảy, mệt mỏi, căng thắng do cố gắng quá sức, ông quên mất là Jessica đã ra đi, và chỉ nhớ đến điều này khi bà Bertha một mình hầu bàn bữa ăn tối.
Ông cảm thấy cần tỏ ra lịch sự đôi chút với bà Bertha, ông nói:
- Bertha này, như vậy không phải là chị đã mất đi một đứa con gái, mà là chị có thêm một đứa con trai, phải không? Tôi rất tiếc không về dự lễ cưới của cháu được.
- Herbert sẽ trở lại làm việc vào tuần sau, thưa ông, tôi đã bảo anh ta một tuần là đủ rồi. Hồi Heinrich với tôi, chỉ mất hai ngày thôi. Nhưng Herbert lại bảo cái nóc nhà nuôi gà phải lợp lại, và anh ta sẽ làm việc đó trong tuần trăng mật.
- Tốt! - Ông William vui vẻ kêu lên - Nhưng anh ta dường như không chỉ coi việc đó là tuyệt vời!
Bà Elinor kể lại:
- Khi bà Bertha rơi khỏi phòng, thì cuộc lễ xem ra khá thê thảm. Nhìn quanh, chỉ có anh chị của Herbert và dì Emma, tài xế của dì đã đưa dì từ New York đến. Dì đến như vậy là quá tốt rồi, nhưng sau đó dì cứ lớn tiếng lặp đi lặp lại rằng, gương mặt của Herbert làm dì phát nản.
- Dì Emma đi về ngay à?
- Không, dì ngủ đêm ở nhà mình, và em đã quả quyết với dì: Herbert đúng là mẫu người cần phải có cho Jessica, vì cô ta hơi ngớ ngấn. Anh thường ở New York nên anh không biết, đôi khi cô ta làm cho em bực mình. Mẹ em bảo: những con người có giáo dục không nên bắt kẻ khác phải lệ thuộc vào tâm tính vui buồn của mình. Heinrich và Bertha không bao giờ làm thế, Heinrich có khuynh hướng làm một người Đức mềm mỏng, giàu tình cảm, nhưng Bertha nắm vững anh ta trong tay. Em biết cha em chỉ cần ngó Heinrich một cách nghiêm khắc khi anh ta vụng về là đủ, sau đó thì Bertha có trách nhiệm làm tiếp.
- Dì Emma có mạnh khỏe không? - Ông hỏi vẻ còn lơ đãng.
Theo lẽ, ông phải ở lại New York chủ nhật này. Chứng nhân duy nhất của mọi đầu dây mối nhợ đã bị theo dõi, nhưng làm sao đủ tin vào những con người thành thị.
- Dì ấy đang xuống dốc, - Bà nói tiếp - em thường tự hỏi, dì Emma đã gặp chuyện gì trong cuộc đời của dì. Dì luôn nhắc đến Jessica lúc nó còn bé, dường như dì lưu tâm đến điều đó mỗi lần dì đến thăm chúng ta. Tuy vậy đời sống ở New York hợp ý thích của dì, như dì đã bảo, đó là thành phố của những bà độc thân, nơi họ có những thú vui như đi nghe nhạc, diễn thuyết, xem triển lãm. Em nghĩ dì nay đã trở nên hơi kỳ cục, nhưnng dì vẫn luôn luôn dịu dàng.
- Kỳ cục à?
Bà Bertha bưng đến một thứ bánh ga tô thật ngon. Bà Elinor lại nói tiếp:
- Dì ấy nghiêng mình xuống bên em như thường lệ, vừa đập nhẹ lên khuỷu tay em vừa nói: “Tôi có một bức tranh của Turner”. Nhưng làm sao có thể có được, anh nhỉ? Giá bức tranh đó có đến hàng chục ngàn đô-la, cho nên em hỏi lại: “Có thật thế không?” Dì ấy cười không ra tiếng và đáp: “Có chứ, tại phòng tranh của Frich. Ngày ngày tôi tới đó hàng giờ để chiêm ngưỡng. Không ai biết là nó thuộc về tôi, nhưng nó là của tôi đấy. Tôi làm chủ nó đấy” và dì ấy vỗ vỗ vào lồng ngực già cả, xẹp lép của dì.
Cha của bà Elinor đã chọn ông William trong số các luật sư làm người thi hành chúc thư cho cái di sản bé nhỏ của bà Emma.
Ông William uể oải nói:
- Anh phải xem sự việc như thế nào. Có thể dì ấy đã trở thành một con người vô trách nhiệm. Dì ấy sống cô độc một mình, phải không?
- Dì ấy sống trong cái khách sạn cũ kỹ đó. - Bà đáp - Nếu không quá xa xôi như thế, có lẽ em đi thăm dì ấy thường hơn.
- Đó cũng là khoảng cách anh phải vượt qua hàng tuần để về với em...
Bà cảm động, đáp:
- Ồ, em biết chứ! Theo lẽ, bây giờ em phải ở nơi cái nhà mà anh thích. Nay em đâu còn viện lý do con cái được, nhưng em vẫn ghét thành thị như bao giờ.
Nhiều năm về trước, ông chấp nhận dẫn chứng của bà, khi bà tuyên bố không thể sống nơi nào khác ngoài vùng Vermont. Ông có nói: “Em yêu quý, không có sao đâu, đường sá thật tuyệt vời, và những con đường rộng thênh thang dẫn đến cái cổng nhà mình. Hồi con cái còn nhỏ, thế cũng tiện cho anh. Anh cũng thừa nhận khí hậu vùng này hợp với đầu óc của anh. Ở đây anh làm việc thật tốt”.
Mấy ngày sau đó, trong lúc chờ đợi lấy thêm tài liệu, ông William rời văn phòng khoảng một tiếng đồng hồ để đi thăm bà Emma. Cô thư ký của ông sắp xếp giờ gặp gỡ.
Ông đã gặp bà Emma trong một căn phòng ngột ngạt: bà ta già lụ khụ, gầy go, run rẩy, mặc cái áo lụa mỏng màu xanh đã bạc phếch, hai mắt lờ đờ, được một bà hầu phòng đã có tuổi của khách sạn chăm sóc. Bà hầu phòng mở của, và một lát sau mang trà vào đặt trên một cái mâm nặng bằng bạc.
- Chào William, anh đến thăm tôi, thật là quý hóa! Tôi mong công việc của tôi không có gì phiền phức cho anh chứ?
Ông William vừa ngồi đối diện với cái ghế dựa phủ vải thêu màu vàng bà ngồi, vừa đáp:
- Không có gì đâu, thưa dì.
Những khúc gỗ già bằng kim khí được đun bằng khí đốt, phụt ra những ngọn lửa nhỏ, làm cả nhà nồng nặc mùi ga. Ông William bảo, ông sẽ nói cho ông giám đốc khách sạn biết. Một ngày nào đó bà già tốt bụng nay sẽ chết ngạt, dù bà đã quen với bầu không khí đó, còn cửa sổ thì đóng kín mít. Những khúc sắt giả gỗ đã có vẻ khá cũ kỹ đó vỡ vụn ra. Ông nói tiếp:
- Elinor nói là dì có đến dự đám cưới của Jessica, và tôi nhớ không lầm thì đã lâu tôi không đến thăm dì, lâu qua rồi. - Dù sao, theo một nghĩa nào đó, thì dì là người mà tôi phải bảo trợ.
Bằng một nụ cười mỉm héo hắt, bà Emma nói:
- Tôi còn khỏe lắm, William à. Đi về Manchester để dự đám cưới đối với tôi là một cuộc du hành khó nhọc, song Bertha đã viết thư cho tôi, và tôi cũng cảm thấy phải có người trong gia đình đến dự. Rốt cuộc, chỉ có Elinor và tôi. Tôi còn nhớ Jessica rất rõ hồi nó chưa vào tu viện. Một con bé tuyệt trần, rất nhiều tư cách. Thật là tội nghiệp! William à, tôi có bắt gặp nó ngồi nơi cái đàn dương cầm, khe khẽ hát, các ngón tay đặt trên phím đàn, và tạo ra những tiếng nhạc hòa hợp với tiếng hát của nó, một giọng trẻ con thật hay. Lẽ ra tôi phải đem nó theo tôi lúc ấy, và cho nó học đàn - Bà Emma nghiêng mình về phía trước như bị lôi cuốn vào dòng cảm xúc - Nó còn biết vẽ khá đẹp nữa, hay là nó còn có thể làm hơn thế, nếu có người kèm cặp cho nó. Trong một dịp lễ Nô-en, tôi còn nhớ nó đã vẽ tặng tôi một bức tranh màu nước. Nó còn lén cho tôi những kỷ vật nho nhỏ, bởi vì nó biết tôi yêu nó. Tôi đã thấy bức tranh đó cuốn lại và cột dải ru băng trong hộc bàn tôi. Tôi còn giữ, không biết ở đâu đó.
Bà ngó láo liên, như tự hỏi bà đã cất bức tranh ở đâu. Đột nhiên bà kêu lên:
- Và cái anh chàng đó thật là thô kệch!
Ông William biết là bà ám chỉ Herbert, nên ông trả lời:
- Tuy cục mịch, nhưng vững như trồng.
Bỗng dưng bà Emma xao xuyến, bà nói:
- Ôi, tôi có biết gì đâu! - Bà vặn vẹo hai bàn tay dài và xương xẩu của bà vào nhau - William, dùng thêm tí trà nữa nhé?
Muốn làm vui lòng bà cụ, ông William nói:
- Vâng ạ, thêm tách nữa. Trà này ngon tuyệt.
Bà già xem ra rất vui lòng, bà nói tiếp:
- Anh thích trà ấy à? Đó là thứ trà đặc biệt, nhưng ít người biết. Tôi đã thấy nó nơi một tiệm của người Tàu, một nơi thật lạ lùng. Tôi tưởng anh biết, William, tuy nhà ở New York mà tôi vẫn chu du khắp thế giới. Một hôm nọ, tôi rơi vào một hội chợ Italia thực sự, giữa hai con đường giáp cùng của thành phố, nơi đứt đường giao thông. Hàng trăm ngọn đèn giăng giữa các gian nhà và một cửa hàng có mái lợp một cách quái lạ, nơi người ta mua bán. Khi người thư ký của anh gọi điện cho tôi là chính lúc tôi đi mua trà đó. Tôi ân hận mãi vì đã không dẫn Jessica về ở với tôi. Tôi chắc cô ta sẽ vui lòng đến. Anh cũng rõ là Bertha quá khắt khe với con nhỏ. Tôi thấy chị ta nắm cánh tay con nhỏ mà lôi. Nó có lang thang qua những ngôi nhà mênh mông trống vắng đó, thì tội tình gì. Ngoài tôi, không ai biết rõ điều đó. Tất cả mọi người đều bận rộn.
- Nhưng Bertha yêu quý con của chị ta lắm. - Ông nói mà không thêm những gì ông nghĩ về tính khí của Bertha.
Bà Emma nhăn mặt, tỏ vẻ chán chường.
- Ôi, William, tôi van anh, đừng nói với tôi về tình yêu. Đó là cách chữa mình khéo léo. Cũng bằng cách ấy, cháu Jessica đã bắt đầu: “Thưa bà Emma, bà biết con chỉ thương có một mình bà thôi..”
Bà cười lên the thé. Mẹ của bà Elinor lúc sinh thời là một phụ nữ dịu dàng, và theo ký ức của ông William, chỉ có dì Emma là yêu quý bà nhất.
Tuy nhiên ông không có thể phân biệt được dấu vết gì tỏ ra bà Emma điên loạn, ông cho rằng, bà chỉ luôn luôn cố chấp, khó tính, bẳn gắt, và không bao giờ chịu lấy chồng. Ông cũng thấy rằng, không phải không có người xin cưới bà hồi bà còn trẻ, nhưng ông không rõ vì sao bà đã từ chối luôn như vậy, giả thuyết là không bao giờ có biến cố gì khủng khiếp đã xảy ra. Uống xong tách trà thứ ba, ông đứng lên, cảm thấy nhẹ người vì không có vấn đề gì mới cần giải quyết.
Ông nói như để khuyến khích bà:
- Năm nay dì sắp trở nên giàu lớn rồi, dì Emma à, giá cả đang lên, và chắc dì sẽ được những lợi tức cổ phần.
Nhưng bà có vẻ như không bằng lòng:
- Ôi, đừng nói với tôi về những chuyện ấy, chẳng qua do tiếng đồn ghê gớm về chiến tranh mà ra. Thà chết nơi nhà từ thiện còn hơn làm giàu bằng cách ấy.
Bà mò trong cái túi nhỏ bằng nhung đeo nơi cổ tay, rút ra một mẩu giấy cắt trong báo, đã nhàu nát, lấy kính lão đeo vào rồi đọc: “Chế tạo bom nguyên tử”. Bà bỏ kính xuống, nhìn ông trách móc:
- Thế mà anh sắp nói với tôi về lợi tức cổ phần...
Ông nói với giọng hối hận:
- Dì tha lỗi cho tôi. Tôi quên là dì theo dõi tin tức sát sao đến thế.
- Nếu tôi không quá già, - Bà lại nói với giọng bi kịch - tôi đã đi hiến máu rồi. Chắc họ không thèm đâu. Máu tôi cằn cỗi quá! Tại sao không? Máu có biến đổi gì không? - Bà đưa cánh tay mặt lên, nó gầy tong gầy teo, ống tay áo tuột về đằng sau.
- Chắc vậy, - Ông William đáp - các thầy thuốc phải biết điều đó.
Bà Emma buông cánh tay xuống đầu gối, bà nói:
- May phước, tôi đã không lấy chồng. Tạ ơn Chúa đã không cho tôi có con. Nếu không thì bây giờ tôi không chịu nổi đau khổ.
Bà nghiêng mình về đằng trước và hỏi ông William:
- Anh sẽ làm gì cho lũ con của anh, William?
- Chúng nó sẽ phải hành động như những thanh niên khác.
Bà kêu lên:
- Anh thấy chưa, chúng nó sẽ đau khổ và cả anh nữa. Đó là điều hôn nhân đã mang lại. Tôi thật tình muốn có được Jessica ở đây, theo lẽ phải vậy, đằng này tôi chỉ nghĩ đến điều đó khi thấy nó ở bên cạnh tên đàn ông thô lỗ kia. Bertha ục ịch, chị ta cũng giống hắn, tôi chẳng biết tại sao tôi không ép Jessica đến với tôi. Chúng tôi có thể gần gũi nhau tại phòng triển lãm nghệ thuật. Tôi có một tác phẩm tuyệt đẹp ở đó của họa sĩ Turger của riêng tôi, tất cả mọi người đều biết.
Phải chăng đó là triệu chứng của bệnh tâm thần? Không phải bà ta sống theo tính cố chấp của thời xưa. Dì Emma trí khôn lành mạnh, nhưng bà cố chấp cả trong những gì bà tưởng tượng như bà thường làm, cao hứng khi có người nghe chuyện bà lấy làm ngạc nhiên.
- Nghe dì nói, tôi cũng thích, nhưng bây giờ tôi phải đi về, dì Emma ạ. Trà của dì ngon tuyệt, tôi sẽ thuật lại cho nhà tôi nghe.
Ông xiết bàn tay dài, già cỗi, gầy guộc của bà Emma rồi ra đi. Ở đây chỉ có lối sống vô trách nhiệm của tuổi tác, ý muốn tỏ ra mình không phải là hạng người như ông hay là kẻ khác tưởng. Jessica mà sống trong môi trường bệnh hoạn này thì thật là tai hại. Thà cô ta đi theo con đường thông thường của người phụ nữ là lấy chồng, có một tổ ấm, và sinh con đúng lúc. Đó là tiếng nói của sức khỏe, của sự quân bình và của tình bè bạn tốt. Vì thứ bè bạn này có thật, chắc chắn là thế, cho những con người chung sống với nhau, dưới cùng một mái nhà. Tình yêu là vinh quang của hôn nhân, cái dư tràn của một cốc đầy, nhưng hôn nhân tự nó là một sự cần thiết. Ông nghi ngờ nỗi phấn khởi của dì Emma, nghi ngờ những khả năng của Jessica, chẳng có gì bảo đảm những tư chất này của cô là do thừa hưởng của vợ chồng Bertha và Heinrich cục mịch. Có lẽ các dì phước đã tập cho Jessica biết thưởng thức, song nếu nó còn, thì cô ta cũng sẽ quên đi khi đời sống bình thường bắt đầu. Ông xua đuổi hình bóng Jessica ra khỏi lòng trí ông, khá bất nhẫn vì ngoài ý muốn, hay là ngoài sự quan tâm của ông đối với cô, người thiếu nữ đã xuất hiện rất thường và bằng một cách không hợp lý trọng đời ông.
Trong dịp lễ Giáng Sinh, Susan đem theo về nhà một con chó. Ông William về bằng xe hơi, mệt lả người, ngồi sau tấm lưng đồ sộ của Herbert, mở mắt để nhìn thấy con gái ông trong cảnh tranh tối tranh sáng lạnh lẽo. Cô ta chờ ông nơi hàng rào chấn song giữa những cây du. Ông nhìn thấy bóng dáng cô, thấp và mạnh khỏe, mặc áo vét lông thú màu trắng. Một con chó mực dữ dằn, không rõ thuộc giống nào, kéo chằng sợi dây da quấn vòng trong bàn tay mặt của cô. Ông William ra lệnh ngừng xe và quay kính xuống. Ông la lên:
- Con thú gì thế?
- Không phải là một con thú mà là một con chó. Nó tên là Pirate, tên cướp biển...
- Ba không xuống xe được, - Ông càu nhàu - mà ba cũng không để cho con lên xe được. Xem bộ nó muốn thịt chúng ta.
- Nó còn tơ mà ba. - Cô gái nói.
Cô kéo trì nó lại, đang khi nó gục đầu nhủi tới trước, sủa ầm ĩ vào chiếc xe, đêm tối, và tất cả. Ông William tự nhủ: Nó sủa cả chính nó.
- Cái gì bắt con đem nó về nhà? - Ông hỏi.
Ông thấy mình bắt buộc phải la lên vì con chó sủa to quá, giọng trầm và vang vọng khắp rừng cây.
- Nó to lớn dị thường, mỗi bữa nó ăn hết hai cân thịt đó ba. - Cô ta hét lên đáp lại.
- Hai cân? Ba thấy nó có thể ăn hết năm mươi cân...
Ông William không đến gần con gái được, ông lại la to len qua bóng tối mờ mờ.
- Lát nữa sẽ gặp con, khi ba đã vào trong nhà. Ba không muốn con đem nó vào.
Susan càng la to hơn nữa:
- Con chó nó đòi vô. - Nàng cong người chỏi vào cái cây.
Ông William càu nhàu và quay kính xe lên.
- Ôi thật là ghê tởm. Cho xe chạy đi Herbert, gió chiều đã lạnh lắm rồi đấy.
Herbert không nói gì về những việc đã xảy ra. Anh ta chỉ nói khi có người hỏi. Đó là tư cách căn bản dưới con mắt của ông William.
Ông William không nói gì, song cũng lấy làm lạ về một vài thay đổi nơi người tài xế của ông, trong mấy tuần cuối cùng này, kể từ ngày anh ta cưới vợ. Thường thì anh ta lái xe rất cẩn thận và chạy tương đối chậm, nhưng nay bỗng anh tăng tốc độ lên lúc nào không biết. Chiều hôm nay anh lái xe từ thành phố về, với một tốc độ hợp lý, nhung khi về gần đến những con đường làng thì anh ta lại tăng tốc. Một lát sau, ông William đang ngủ mơ màng chợt tỉnh giấc vì cảm thấy chóng mặt, ông ngó đồng hồ tốc độ: 80 dặm một giờ.
Ông vội la lên:
- Trời đất, Herbert!
Herbert giựt mình, và chiếc xe bỗng chạy lạng sang hướng khác một cách nguy hiểm.
Ông William lại la lên:
- Hãy ngó vào đường mà chạy!
Thật là điên khùng vì khi nghe bảo thế, Herbert lại ngoái đầu lui để chiếc xe chạy loạng quạng như không có người điều khiển.
- Liệu hồn, cảnh sát thổi còi đấy!
Herbert vội vã giảm tốc độ xuống con năm mươi dặm giờ, tốc độ giảm đột ngột làm cho chiếc xe bị trì lại. Herbert nói:
- Xin lỗi ông chủ, con đương nghĩ về một chuyện khác.
Ông William nghiêm khắc nói:
- Khi đang lái xe, anh đừng để trí óc nghĩ ngợi đâu đâu.
Về đến nhà, ông ôm hôn bà Elinor ở ngưỡng của và phàn nàn về Herbert.
- Chiều hôm nay, suýt chút nữa thì xảy ra tai nạn. Herbert cho xe chạy đến 80 dặm giờ.
Bà Elinor có vẻ áy náy, nói:
- Điều đó thiệt em không thể tưởng tượng nổi!
- Anh đã bảo, nhưng Herbert nói là hắn đang nghĩ về một chuyện khác.
Cửa bỗng mở và Jessica bước vào, với áo bờ lu xanh, tạp dề trắng xếp nếp. Cô đến bên ông William, đưa tay đỡ lấy cái mũ và áo khoác của ông.
- Con chỉ phục vụ trong mùa nghỉ hè thôi, thưa ông chủ, nhưng điều ấy cũng biến đổi con đôi chút.
Ông sực nhớ có nghe một điều giống như thế, và lương tâm nhạy cảm của ông đâm ra áy náy. Ông nói:
- Quả thật, tôi chẳng có công gì đâu, tôi đã chẳng nghĩ gì đến điều đó cả. Cô hãy cám ơn bà Asher mới đúng.
Ông thấy dường như bà Elinor đang chờ ông với vẻ hơi xa vắng.
- Thưa bà, được trở lại đây thật là thú vị, con cám ơn bà rất nhiều.
Jessica nói một giọng gắn bó, âm sắc van nài khác thường.
- Cô chỉ giúp chúng tôi trong thời gian các cô cậu về đây thôi. - Bà Elinor trả lời, giọng bình thản và ngọt ngào. Ông William quay mình về phía thang lầu và cảm thấy bàn tay của bà luồn dưới cánh tay ông.
Cả hai lẳng lặng đi lên lầu, khi đến phòng khách riêng của bà, bà ngồi xuống. Phòng này dẫn vào hai phòng ngủ của ông và bà. Gian phòng đẹp mắt, trang trí đơn giản, đó là phong cách của dòng họ Winsten, không có các món đồ mua theo thời, đồ thêu rua và đồ trang trí tỉ mỉ chỉ rước bụi bặm. Màn của bằng sa tanh dày, xanh lơ, không hơn và màu đó cũng còn thấy nơi tấm thảm Ba Tư đã cũ, dệt các họa tiết đều đặn. Màu xanh hợp với vợ ông, bà có đôi mắt xanh biếc, dưới mái tóc màu vàng hoe ánh bạc. Ông William ngồi xuống, nhồi ông điếu, trước khi tắm và thay đồ. Tòa nhà yên tĩnh, nhưng từ ngoài vọng lên tiếng chó sủa ồm ồm.
- Vợ chồng Winston về đến chưa? - Ông hỏi.
- Madge đã điện thoại cho biết vợ chồng nó không về được trước ngày mai. Edwin vừa mới về đã tức tốc đi thăm con Vera. Susan về đúng giờ với một con chó và một chàng thanh niên.
- Anh đã thấy con chó rồi. Một con chó dễ sợ.
- Anh không nên nói bô bô lên vậy, chính chàng thanh niên đó đã tặng cho con nhỏ, con chó.
- Chàng thanh niên đó bây giờ ở đâu?
- Có lẽ anh ta ngủ. Anh ta đã ăn rất nhiều bánh ngọt và một dĩa xăng-uých đầy ắp. Anh ta không chịu uống trà, nhưng đã nốc hai ly Gia pha nước, rồi kêu buồn ngủ.
- Em có biết anh ta không?
- Không, anh yêu. Anh ta mới đến đây lần đầu.
- Hắn giống cái gì?
Bà Elinor ngẫm nghĩ:
- Rất giống con chó, to lớn, quê mùa, thuộc gia đình tầm thường, ôi rất tầm thường, thế mà Susan lại nói rằng tụi bạn nó cho anh ta là tuyệt hảo.
Điều bà nói làm cho ông William liên tưởng đến chuyện khác:
- Tại sao các cô ngày nay lại thích những anh chàng cục mịch nhỉ? Anh nhớ rằng trước kia em đã kiểm soát cả cách đi đứng của anh. Ngày nay, các chàng trai lẻo mép, càng khoe khoang và ăn ở theo kiểu tướng cướp, thì càng được các cô gái yêu.
Bà Elinor lại trầm ngâm suy nghĩ. Bà ngồi duyên dáng, thoải mái, đặc biệt quý phái, một thứ quý phái trẻ trung như nước Mỹ. Hai chân bà thon nhỏ, mang giày nhẹ trong nhà, tréo nhau dưới chiếc váy dài có rua đen, đẹp, cho một tầng váy trong màu anh đào, chắc là bằng sa tanh, vì không nghe tiếng sột soạt. Bà không thích loại vải có tiếng sột soạt khi cử động.
Bà nói cách nghiêm chỉnh:
- Em cũng không biết nữa. Điều em biết là em không chịu nổi những chàng trai mà Susan đã đem về đây. Em mong sao nó đừng lấy một ai trong đám thanh niên mà chúng ta đã gặp.
William đang nghĩ về cậu con Edwin, nên ông nói:
- Còn con nhỏ Vera thì sao?
- Ồ, con bé đó thì chắc chắn là ngộ nghĩnh rồi - Bà nói ngay. Nhưng rồi bà lại đâm ra do dự, bà nói thêm có vẻ cực chẳng đã - Em có một ý nghĩ kỳ cục mà em không nên nói ra.
- Nói đi, giữa anh và em, chúng ta đã từng nói với nhau biết bao nhiêu là chuyện điên khùng.
- Em tự hỏi, con Jessica có để trong đầu một ý nghĩ buồn cười nào về thằng Edwin nhà mình không?
- Ồ, đó chỉ đơn giản là một sự điên khùng - Ông ngỡ ngàng nói - Jessica được bà Bertha nuôi dưỡng, đâu có thể quên thân phận mình đến thế! Nhưng này, Edwin còn là trẻ con. Jessica bao nhiêu tuổi nhỉ?
- Hai mươi bốn.
- Như thế thì một đứa hai mươi mốt, một đứa hai mươi bốn...
- Edwin quá đẹp trai, và em muốn sao cho con Jessica ít đẹp hơn, ít kiểu cách hơn, anh cũng biết, con nhỏ có thể là quá tế nhị và chắc cũng quá nhạy cảm đối với nghề nghiệp của nó.
Ông lại hỏi, vẫn bối rối trong lòng:
- Em nhận thấy cái gì sao?
- Có lần em bắt gặp Jessica đang cười, hai bàn tay đặt trên vai Edwin, còn hắn, hắn cúi đầu và đỏ mặt.
Điều ấy làm ông cảm động và ông định thú nhận một điều mà cho đến lúc đó chưa xuất hiện trong tâm trí ông một cách sắc nét, không phải cử chỉ của Jessica trước tấm gương soi, nhưng là một cảm giác mà ông cũng không tự thú nhận cho chính mình.
Ông nói, vẻ miễn cưỡng:
- Em cũng biết, Jessica có những cách tiếp xúc ngộ nghĩnh với bất cứ người đàn ông nào.
Bà Elinor nhìn thẳng vào mặt ông:
- William, anh muốn nói gì?
Ông không biết trả lời sao, lời nói vượt quá khỏi sự hiện thực. Ông gượng cười đáp:
- Anh chẳng biết nghĩ cái gì đây. Mỗi khi anh thử giải thích bản thân anh, thì cái đó vuột đi mất, có thể là do cách em nhìn với vẻ mơ màng, quyến rũ. Cái đó luôn làm cho anh xốn xang và anh liền lẩn tránh. Anh chắc chắn con bé còn ngây thơ quá, nên không để ý.
- Không có người đàn bà nào lại ngây thơ đến mức độ ấy! - Bà Elinor đáp.
Ông chăm chú nhìn bà và thầm nghĩ: Bà chả có gì phải cay đắng về điều đó cả.
- Đàn bà chúng em sinh ra là đã khôn ngoan rồi - Bà nói tiếp với ít nhiều châm chọc - Đó là lối thoát đến tự do của chúng em. Người đàn bà càng bị chèn ép, càng khôn khéo lên.
- Em có bị chèn ép không? - Ông nói.
- Em có thiếu khôn ngoan không?
Bà lại đắm mình vào cái bản chất xa vắng của mình, mà đôi khi bà đã từng làm như vậy suốt nhiều ngày. Ông đã biết rõ tình trạng tinh thần này của bà và từ lâu ông tự hạn chế mình bằng một nụ cười, bằng một chấp nhận, và nếu có thể, yêu thương bà nhiều hơn trong lúc chờ đợi. Vì thế ông trả lời:
- Mặc dầu anh là một luật sư người ta cho là sáng giá, nhưng không nói ngoa, anh không để em phỉnh phờ đâu. Anh sắp tẩy uế mình về những gì thuộc về thành phố, và xây dụng cho mình cái gì có tính cách vững chắc hơn. Còn về chuyện Jessica và Edwin, anh chẳng tin tí nào, nhưng anh sẽ để mắt đến.
- Điều ấy làm em vững tâm, vì anh cũng nhận thấy cách Jessica vồn vã tấn công đàn ông, đó là nói chung cho hết mọi người đàn ông, anh yêu ạ.
- Em nghĩ như thế là được rồi. - Ông bình tĩnh đáp. Ông cảm thấy quá mệt mỏi để nói nghiêm túc.
Vụ kiện quan trọng không đi đến đầu. Nhân chứng nổi bật nhất, biết tường tận tất cả những chuyện xấu xa, được phép lánh mặt đi khá lâu để bị con quỷ nào đó mua chuộc, cuối cùng không chịu tố giác những gì hắn đã cam kết thú nhận. Hiện giờ hắn đang ở đằng sau song sắt nhà tù, trong an toàn, nhưng hoàn toàn vô dụng. Hội đồng thành phố New York lại phải trả chi phí cho những cuộc điều tra mới và lâu dài, về những vụ việc tên nhân chứng ấy biết, nhũng vẫn che đậy dưới cái sọ tối tăm của hắn, mà hiện tại không có tổ chức nào có thể bẻ khóa hay cậy nắp để vào được.
Ông William tạm quên gia đình lúc ông tắm và cạo râu lần nữa. Có thể nói, khói dầu và bụi bặm của thành phố làm cho râu ông mọc nhanh, đến phải cạo sáng và chiều, nếu giờ đi năm, ông muốn hiến dâng đôi má khá nhẵn nhụi để kích thích đôi môi của vợ mình. Bỗng ông nghe tiếng cánh cửa mở ra rồi đóng ập lại, tiếp theo là tiếng ồn ào nơi cầu thang, điều mà hai đứa con trai ông, dầu trong lứa tuổi khuấy động, cũng không bao giờ làm. Ông liền ý thức đó là chàng thanh niên bạn của Susan, tên là Peter, người đã tặng con chó, mà con khuyển lại giống chủ hết chỗ nói, đến đỗi bà Elinor, một người bác ái nhường nhịn, tốt bụng nhất đời, đã khám phá ra điều đó.
Khi ông bước vào phòng khách phía Đông, thì sự giống nhau đó dường như là hiển nhiên. Con chó nằm trước lò sưởi, nơi không một con chó nào dám bén mảng, vì ông William không bao giờ nhượng bộ, khi các con ông còn bé tí, đòi cho được một con chó săn nhỏ vóc, lông dài, mà ông cấm không cho mang vào nhà. Mùi hôi của chó làm ông khó chịu, nhưng phòng khách chiều nay lại bốc lên nồng nặc mùi chó.
- Susan! - Ông kêu lên. Ông chợt thấy cô gái quý của ông mặc áo dài vàng, dợn sóng quanh vóc dáng mảnh mai và đôi vai sậm màu của cô.
- Thưa ba, con biết lắm, nhưng Peter bảo rằng, nếu không cho con Pirate vào nhà, nó sẽ tru tréo lên suốt đêm.
Một thanh niên vóc dáng dềnh dàng, đứng lên khỏi ghế bành của ông William, phô bày tấm thân đồ sộ của anh ta, cặp mắt đen huyền khuất dưới hàng mi dài và đen. Đầu tóc rễ tre của anh ta cũng đen, bù xù không chải gỡ, đã đến lúc cần phải cắt. Anh ta mặc bộ đồ nâu sậm, áo vét nút không cài, để lộ cái sơ-mi màu xanh lơ, nhăn nhó, chắc anh ta dùng nó để mặc khi ngủ. Đôi gò má của anh vun cao, đỏ au, hai tay cũng đỏ và lớn quá cỡ. Bàn tay anh đưa ra để bắt tay ông Asher thì to bề bề và đầy lông lá.
Với giọng ồm ồm như bò rống, anh ta nói:
- Phải ông Asher đây không?
- Có thể lắm, Peter, anh nghi ngờ thật à? Thưa ba, đây là Peter Dobbs.
Anh ta nói với cách phát âm miền Nam, hơi lè nhè:
- Hân hạnh được gặp ông. Tôi đã nghe nói nhiều về ông. Từ ngày quen biết với Susan, tôi đã đọc báo. Thật đấy, tôi phục tài ông bao vây mấy tên găng-tơ vô cùng. Rủi người ta đã để cho Berman vượt ngục, nhưng bây giờ mà bảo rằng hắn đang ở trong tù là một cách nói thật ngộ nghĩnh.
Khi con chó thấy ông William thì nó nhảy dựng lên, chồm hai chân trước, trương lông gáy. Nó gầm gừ thật dữ tợn.
- Pirate, câm mồm nằm xuống! Nó chưa quen đấy thôi.
Ông William chua chát nói:
- Tôi có cảm tưởng là không bao giờ làm quen được với nó cả.
- Tôi cá là có đấy. - Peter nói, và lại ngả mình ngồi lún trong chiếc ghế bành bằng da.
- Peter, đứng dậy đi. Đây là cái ghế của ba.
Ông William muốn tỏ ra lịch sự, nhưng vẫn cay đắng:
- Cứ ngồi tự nhiên.
- Peter, dậy đi, tôi đã bảo! - Susan lại nhắc.
Peter đứng lên một cách khả ái, đổi qua ghế khác.
- Ngồi đâu mà chả được, miễn là chiếc ghế đủ rộng, tôi không thích bị nó bó rọ trong đó.
- Ba ngồi vào ghế của ba đi ba. Bản chất của Peter tốt, nhưng nói gì với anh ta là phải nói dứt khoát. Đó là điều duy nhất anh ta hiểu được, nhờ thế sự giao tiếp với anh rất dễ dàng.
Cô ta nói những lời cay độc với giọng trầm nữ, một giọng diễn cảm, dù cố tình va chạm, vẫn tạo ra một âm hưởng dịu dàng.
Ông William ngồi xuống. Ông cảm thấy bị xúc phạm quá mức. Con chó to lại nằm xuống trên tấm thảm. Ông bỗng quan sát con vật, nó ngó ông với đôi mắt giận dữ, đỏ rực vì phản chiếu ánh lửa trong lò sươi.
- Nó nhìn thế, chứ nó không xấu tính - Peter nói - Nó không thể không nhìn.
Susan nói mà không cười:
- Thì nó cũng giống như anh đấy thôi.
Peter cười rộ, đầy thán phục.
- Chắc rồi, cô có cái lưỡi nhỏ mà độc. Một ngày nào đó, tôi sẽ kéo thẳng nó ra, và lấy con dao như thế này ra - Anh ta rút một con dao bỏ túi to bản, bật lưỡi - tôi cắt cái lưỡi nhỏ đó ra cho con chó Pirate ăn.
Ông William nghe, sợ khiếp. Ông cảm thấy bất lực trước chuyện này. Những tên tướng cướp trong một phòng tiếp khách tại một thành phố rộng lớn, hư hỏng, điều đó còn có thể xảy ra được, nhưng đâu có ngờ gặp phải một tên quái đản như thế này tại nhà mình.
Peter hỏi Susan:
- Mẹ cô đâu rồi? Nói với bà là tôi đói bụng rồi.
Susan ngồi yên bất động, cô trả lời:
- Chúng tôi đang chờ Edwin. Mẹ bảo, vào phút chót, anh ấy đã gọi điện về nói là anh sẽ đưa Vera đến ăn tối.
Có tiếng lao xao ngoài tiền sảnh, có nghĩa là Edwin đã về đến, và sau mấy giây, cậu con trai thứ của ông William, cao lớn, tóc vàng hoe, như các người trong dòng họ Winsten, đi vào cùng với cô con gái của ông chủ ngân hàng địa phương. Cũng lớn con như Edwin, cô Vera Bates, giống như một cây bu-lô ánh bạc, có sắc đẹp đoan trang và đôi môi dù rất mỏng, thẳng một đường ngang, vẫn tỏ vẻ tốt bụng.
Ông William đứng lên một cách lịch sự, đó là loại thiếu nữ mà ông ưa chuộng, một tạo vật trẻ trung, gây lòng tin tưởng, mà ông sẽ đón vào nhà ông, vào gia đình ông.
Con chó lại nhổm dậy, xù lông gầm gừ, nhưng Vera cúi xuống vuốt ve nó, nên tiếng gầm gừ của nó hạ dần. Nó hít hít mấy hơi, rồi nằm xuống.
- Sắc đẹp của con vô giá, Vera ạ.
Ông William nói, rồi chìa tay ra và cảm nhận lòng bàn tay mát mẻ của Vera áp vào bàn tay mình.
- Con xin chào bác Asher. - Cô nói một cách nghiêm túc.
- Chào con thân yêu, và con nữa, Edwin, ba thấy con rất khỏe, con trai của ba.
Ông cảm thấy vui vẻ trở lại. Những trang thanh niên như thế này có thật, mặc dù có những mặt khả ố và không thể chấp nhận ở một vài phương diện nào đó, nhưng người ta vẫn phát hiện ở nơi khác, những hạng người mình có thể tự hào.
Ông động lòng trắc ẩn đối với Peter, một con người khó chấp nhận và đáng ghê tởm. Khi mọi người đã an tọa, ông nghiêng mình về phía anh ta và nói:
- Con chó này thuộc giống chó nào thế nhỉ?
Ngay lúc đó, bà Elinor bước vào phòng khách, không ai biết bà từ đâu đến. Từ phòng đồ, có lẽ, bởi vì bà rất tỉ mỉ trong chuyện dọn bàn ăn, cách sắp xếp và bưng thức ăn phục vụ. Bà siết tay Vera một cách nhẹ nhàng và ngồi xuống cái ghế dựa dành cho bà có bọc nhung màu hồng, ông William đứng lên, đẩy cái bục kê chân phủ nệm thêu đến bên bà.
- Cám ơn anh yêu. - Bà nói.
Bây giờ ông ngồi xuống lại, ngó quanh gia đình sum họp với ánh mắt dịu dàng và thỏa mãn. Một lần nữa, ông lại cảm thấy dâng lên trong lòng niềm xót thương đối với Peter, con người không bao giờ ông có thể chấp nhận vào gia đình ông. Ông nghiêng mình về phía chàng trai quê mùa đang cuộn mình trên ghế dựa, đang giữ im lặng một cách dễ thương.
Để tìm cách trò chuyên với anh ta, ông William lại hỏi thêm một lần nữa:
- Pirate thuộc giống chó nào vậy?
- Nó không thuộc giống nào hết - Peter đáp - Đó chỉ là một con chó lai hỗn tạp. Ở nhà cha tôi, loại như nó chẳng thiếu gì. Tôi giữ nó cho riêng tôi, vì nó to con. Nó cũng sáng ý nữa. Nó dễ dạy. Tôi bảo gì nó làm nấy. Ê, Pirate, lại đây...
Peter búng ngón tay đánh tróc, và con chó đứng lên, xù lông, cặp mắt sáng quắc, tỉnh táo, hai tai vểnh lên.
- Nếu tôi ra lệnh, nó sẽ nhảy chồm lên một trong bất cứ ai đang ở trong phòng này! - Peter hãnh diện nói.
- Ối!...
Tiếng kêu thất thanh từ ngưỡng cửa. Tất cả đều quay lại xem ai đã kêu lên như thế, vì tiếng kêu như tắt nghẽn trong họng. Đó là Jessica. Cô đến báo tin bữa ăn tối đã sẵn sàng. Con chó chồm hai chân lên trước cô, đứng chong mắt ngó cô như muốn ăn tươi nuốt sống. Jessica nhìn nó, khiếp sợ, hai bàn tay ôm lấy nó.
- Nằm xuống, Pirate! - Peter quát.
- Jessica! - Bà Elinor kêu lên.
- Phải, thưa bà - Và cô để xuôi hai tay xuống - Con... bữa ăn đã sẵn sàng rồi đấy ạ.
Jessica tháo lui, và mọi người đều đứng dậy. Con chó không động đậy.
- Lại đây, Pirate! - Peter nói.
Con chó đi theo anh ta vào phòng ăn. Anh ta chỉ chỗ cho nó nằm ngay trước hai cánh cửa đã đóng lại. Con chó do dự.
- Nằm xuống, ta bảo nằm xuống! - Peter quát.
Con chó hạ mình xuống nằm một cách nặng nề và Peter mỉm cười nhìn quanh một cách hãnh diện.
- Như tôi đã nói, tôi bảo gì nó làm nấy!
Jessica không quay trở lại phòng ăn, Herbert hầu bàn, tử tế hơn thường ngày một chút, ông William tự nghĩ, làm như không thấy có con chó, nhưng mỗi lần anh ta bước vào phòng, nó đều gầm gừ trong cổ. Đúng như Peter đã bảo, hắn biết làm cho con chó vâng lời.
Susan nói với Peter:
- Anh bày cho em ảo thuật của anh đi!
Hai anh chị ngồi sát bên nhau, con chó nằm trên mặt thảm sau lưng họ.
- Không có vấn đề ảo thuật! - Peter đáp. Anh ta đang thong thả tọng đồ ăn vào mồm, dùng một lượt cả dao và ma một cách quái dị. Anh ta bảo Susan - Nó chỉ vâng lời một người mà thôi, đơn giản là người chủ của nó.
- Làm sao nó biết em là chủ của nó?
- Khi anh đi rồi, nó sẽ vâng lời em.
Nghe mấy tiếng ấy, ông William hoảng hốt kêu lên:
- Đừng để con chó lại đây!
Peter ngẩng cái đầu đồ sộ của anh ta lên.
- Đó là quà Giáng Sinh của tôi tặng Susan.
Bà Elinor cũng kêu lên:
- Ồ, không...
Edwin nhướng chân mày ngó Vera. Vera đáp lại bằng một cái nháy mắt rất khó nhận, cả cậu lẫn cô đều không nói gì. Susan quay về phía mẹ.
- Nó không làm cho mẹ bực mình đâu, con sẽ đem nó theo vô trường. Bà làm công trong đó hứa đem nó về nhà, nếu nhà trường không cho nó ngủ tại nhà ngủ tập thể.
Bà Elinor không trả lời. Đã từ lâu, chồng bà và bà đã thỏa thuận với nhau là không bao giờ cãi vã với con cái nơi bàn ăn của gia đình, và chắc chắn là không trước con người lạ mặt tên là Peter này.
Đôi mắt của bà bắt gặp mắt ông ngang qua bàn ăn và ông hiểu tiếng gọi câm lặng của bà. Ông nói với giọng cố ý làm ra vẻ vui vẻ:
- Các đài khí tượng báo trước sẽ có một mùa Giáng Sinh đầy tuyết phủ. Ba mong họ nói đúng, vì con cái nhà này sẽ được vui đùa thỏa thích trong tuyết.
Edwin luôn sẵn sàng tiếp trợ mỗi khi câu chuyện bắt buộc phải đổi chiều, anh ta thêm:
- Con phải lôi các xe trượt tuyết trong khu ra mới được.
Bà Elinor tán đồng:
- Hay đấy, đã lâu lắm rồi chúng ta không dùng đến nó. Một là Giáng Sinh màu trắng sẽ là điều mới lạ cho đám trẻ. Đã hai mươi năm rồi, chúng nó còn bé quá làm sao nhớ được. Em không tin chính bé Billy có thể nhớ về quá khứ lâu đến thế. Anh nghĩ sao William?
- Nhất định là không rồi. - Ông đáp. Và xuyên những lời nói tung ra một cách can trường, ông lại nghĩ đến ngày mai, tên Peter kỳ quặc sẽ lên đường. Tên họ anh ta là gì đấy, ông quên tiệt. Thật ra cũng chẳng có gì quan trọng. Một khi anh ta đi rồi, ông sẽ nghiêm chỉnh bảo Susan để con chó ở ngoài, đúng chỗ của nó.
* * * * *
Peter ra đi sớm, đầu tóc bờm xờm, anh nhảy lên chiếc xe cũ kỹ đến nỗi ông William tin chắc ngoài vùng Ozark không có chiếc nào giống như vậy. Ông nghĩ dưới áo choàng nhàu nhò và bộ đồ vét mặc chiều qua, Peter phải giữ bộ Py-ja-ma trong người. Ông quan sát tất cả từ cửa sổ phòng ông. Ông bị đánh thức bởi những tiếng khua động, nhưng ông giữ ý không chường mặt ra cho đến khi tiếng lạ hết còn nghe thấy trong nhà. Khi Peter bật công tắc chiếc xe hơi, một thứ tiếng rùng rợn vang lên, tiếng hổn hển của đầu máy, một luồng khói phụt ra, làm cho Susan vội vã ra khỏi nhà, mặc vỏn vẹn chiếc áo ngủ bằng nỉ màu rực rỡ. Dáng người nhỏ bé, bận áo khoác màu đò, mái tóc nâu dài xõa vung vãi trên lưng, dài lạ lùng, dù cô bé chỉ mới dưỡng tóc từ mùa hè năm ngoái. Ông William nhắm mắt lại, sợ phải nhìn thấy con gái yêu quý của mình ôm hôn anh chàng đ