Chương 2
Họ vừa đi dưới mưa, vừa hát. Dẫn đầu là Trung sĩ Hefe, có hỗn danh là "Ông Quạu" ướt sũng, bẩn thỉu, giận dữ, cũng bắt buộc phải bước qua những vũng nước, vũng bùn như những binh sĩ đi theo sau.
Con đường kéo dài, vô tận giữa cánh đồng lúa mì đã gặt, trước những hàng cây buồn thảm, sầu muộn. Phía xa, con sông tuôn dòng nước xám giữa hai bờ cát. Đám binh sĩ mệt mỏi chẳng muốn hát chút nào. Nhưng họ vẫn hát vì "Ông Quạu" ra lệnh. Đoàn quân rầu rĩ bước theo nhịp chân, giữa phong cảnh ảm đạm, dưới bầu trời ủ ê, những khuôn mặt chan hòa nước mưa, những chiếc miệng đen sì tuôn ra những bài ca nói về hoa thơm cỏ lạ, về những đoàn chiến xa gầm thét, về những nắm xương tàn trở về cát bụi. Và mưa vẫn cứ rơi, làm chìm ngập tất cả trong nỗi buồn thảm càng sâu đậm hơn. Tất cả gồm năm mươi ba người.
Peter Hefe hô:
- "Đại đội đứng lại... đứng!"
Tách ra phía bên trái, Hefe nhìn đám binh sĩ suy nhược, ướt sũng và bẩn thỉu, Họ cũng nhìn lại anh, không biểu lộ gì qua sắc mặt, chỉ sung sướng là không còn phải hát nữa. Số phận họ thực buồn thảm.
Anh nói léo nhéo:
- "Nghe tao đây, bọn ngu ngốc. Tụi bây hát như những cô gái si tình trong đêm trăng. Nếu tao còn nghe thấy sai điệu hay mất nhịp vì ngủ gục, tao sẽ cho tụi bay chạy lại suốt con đường vừa đi qua. Nghe chưa?"
Đã đành đó là câu đe dọa hão. Chẳng có cái gì trên thế gian này có thể đem anh ta trở lại con đường dài dằng dặc ở phía sau. Vả lại cũng đã khá muộn rồi nên anh cũng tạm bằng lòng khi chỉ độ hai chục binh sĩ đáp: "Dạ, nghe rõ, thưa Trung sĩ". Anh nói tiếp:
- "Tốt. Trong mười lăm phút nữa, chúng ta sẽ tới trại. Lúc đó thì phải đàng hoàng nghe. Tiểu đoàn trưởng sẽ quan sát đó. Tụi bay đừng có để phiền gì cho tao. Nghe chưa?"
- "Dạ, nghe, thưa Trung sĩ".
- "Được... bây giờ cần một bài hát. Bài: "Đẹp làm sao đời lính". Tụi bây phải hát cho có tình cảm, có tâm hồn."
Đám người lại bước đều trong tiếng hát, giữa hai hàng cây. Họ đi như vậy vào doanh trại, nơi có Thượng sĩ nhất Krull đang đứng chờ.
Vào giữa lúc xế chiều nầy, Krull khám phá ra một điều mà sau này ông gọi là "nghệ thuật để cho tràn ứa". Ông ta đang giận dữ, nghĩa là tình trạng nóng giận của ông đã vượt qua một cao điểm mới, nguyên do là vì Karl Schwanecke và sự chậm trễ của Đại đội. Lẽ ra Đại đội phải về tới đây từ bảy phút trước rồi. Và giờ này chắc chắn là ông Tiểu đoàn trưởng đang đứng bên cửa sổ, nhìn đồng hồ và mỉm cười theo lối thâm hiểm của ông ta. Krull suy nghĩ: "Rồi ông sẽ thấy. Chính tôi đây nè, tôi sẽ cho ông hay..." nhưng không nghĩ xa hơn nữa. Riêng ngón tay út của ông, nơi tập trung tất cả sự hiểu biết của một viên Thượng sĩ, đang ngọ ngoạy không ngừng.
Chiếc rào cản được nâng lên, Đại đội đi ngoẹo về phía trái: Trung sĩ Peter Hefe cất tiếng hô mạnh mẽ hơn trong chiếc sân rộng, trước mặt Thượng sĩ đang nhìn anh, chân đứng dạng, nắm tay chống nạnh, trong lúc ấy, thẳng phía trước đoàn quân, bốn anh binh sĩ mới tới, nằm sấp bất động, mặt hơi nghiêng nhìn những đôi bốt tiến lại gần.
Một lát sau, Peter Hefe mới nhận ra họ, nhưng anh hô ngay khẩu lệnh cho đổi hướng về bên phải để tránh. Đoàn quân hơi ngập ngừng.
Krull lại thét lên:
- "Tiếp tục đi thẳng!"
Sự ngập ngừng tăng thêm. Peter Hefe nhận thấy tình hình, hiểu rõ Thượng sĩ muốn gì và tuân theo lập tức. Anh cất tiếng hô khẩu lệnh thích ứng. Năm mươi ba người xếp hàng ba, chia thành bốn trung đội, vừa hát vừa tiến lên phía những người bạn đang nằm soài. Krull biết rằng chẳng có gì đáng ngại. Khoảng cách giữa bốn người lính đang nằm kia không xa quá mà vừa đủ. Chỉ cần chú ý, người ta có thể đặt chân vào giữa. Hơn nữa ông ta biết rằng đoàn người sẽ không bước lên những người nằm dài kia, cũng như một con ngựa biết cách tránh trong trường hợp tương tự... Ý kiến này thật mới mẻ và thích ứng để cho những anh lính mới tới được nếm trước, những gì còn chờ đợi họ, một thứ cảnh cáo bổ ích. Sau này, ông phải hoàn hảo phương pháp đó mới được.
Nhưng những người đang bước tới đã mệt lử và dửng dưng. Một số lớn chẳng hiểu có chuyện gì xảy ra. Nhiều người đến nỗi nhắc chân khỏi mặt đất không quá 10 phân và đa số khi nhìn thấy những người nằm quá chậm. Vì thế trong cái cảnh đón tiếp do Thượng sĩ nhất bày đặt ra đó, mấy người nằm bị bầm tím cùng khắp thân thể và binh nhì Coltírieđ Von Bartlitz bị dập ngón tay vì anh ta không kịp dấu bàn tay dưới thân mình.
Đại úy Bart, chỉ huy trưởng Tiểu đoàn, đứng bên cửa sổ của văn-phòng hành chành, nhìn cảnh diễn biến. Khi hàng người sau chót diễn hành qua và bốn hình thù nằm dài lại hiện ra, Đại-úy lại hỏi vị Trung úy đứng phía sau:
- "Đại đội của cậu phải không Obermeier?"
- "Dạ phải, thưa Đại-Úy. Bọn họ đi làm tạp dịch trở về. Chắc chẳng có thú vị gì với trời đất bẩn thỉu này!"
"Một thằng cha kỳ cục, tên Krull đó!", không thấy viên Trung-úy trả lời, ông nói tiếp: "Đúng là loại người đang cần cho chúng ta."
Bấy giờ viên Trung úy mới nói:
- "Thưa Đại-úy, tôi không biết"
Đại đội đứng ở giữa sân. Peter trình diện Thượng sĩ Krull. Ông ta lắng nghe và khẽ hất đầu về phía 53 binh sĩ. Rồi thọc ngón tay cái vào giữa nút thứ ba và thứ tư của chiếc áo, ông bắt đầu bài hiểu thị hàng ngày, ông nói về cuộc đi chơi ngoài trời, về những hòn đá cuội mà binh sĩ đã ném thia lia trên giòng sông Warthe, về sự chậm trễ của họ, về truyện này, truyện nọ... một bài diễn từ mà bản chất chẳng có gì khác với những bài, vào giờ này tại các doanh trại hầu khắp Âu châu, những ông Thượng sĩ khác cũng đang nói với những binh sĩ, những tân binh. Nếu có khác chút nào chăng là những binh sĩ ở đây thuộc một Tiểu đoàn trừng giới và đa số họ chẳng nghe gì cả.
Thoạt nhìn thì sự khác biệt không có gì rõ rệt lắm. Một Tiểu-đoàn trừng giới gồm những người mà cái chết nắm chắc từ 95 tới 98 phần trăm, nhưng vào thời kỳ này, gần như mọi người mặc quân phục đều nắm chắc phần chết, tuy rằng ở những đơn vị khác thường tỷ lệ tử vong không cao đến mức đó. Vì vậy trước hết, sự khác biệt chỉ nhận rõ trong cách đối xử với quân phạm, trong những sự sỉ nhục mà người ta trút xuống đầu họ, trong những cảnh gian khổ về tinh thần và thể xác họ phải chịu, trong nỗi tuyệt vọng mà người ta dồn họ tới.
Bài diễn từ chấm dứt, Krull bắt đám binh sĩ đã kiệt quệ chạy hai vòng sân, bắt họ nằm xuống rồi sau mới cho tan hàng. Bổn anh lính mới tới vẫn còn nằm dài.
Viên Trung-úy nhận xét:
- "Bây giờ tụi nó sẽ đánh lộn nhau quanh vòi nước cho mà xem".
Đại úy hỏi:
- "Sao vậy? Bên ngoài mưa khá lớn mà."
- "Tôi đã thấy rồi. Làm việc suốt 6 tiếng đồng hồ không được uống nước rồi trở về còn phải hát nữa. Với tôi thì thôi, xin chào thua!" Đại-úy rút điếu thuốc lá, đẩy gói thuốc trên bàn về phía viên Trung Úy và nói với vẻ riễu cợt:
- "Nè, Obermeier, tôi mong được gặp lại cậu ở đây như một người bạn vui tính của câu lạc bộ sĩ quan khi trước. Thế mà bây giờ cậu lại bi thảm như một cây dù ướt, Khi còn ở Vitebsk cậu đâu có như thế."
- "Đúng vậy, thưa Đại-úy. Ngoài mặt trận, tôi thấy đúng chỗ.... nhưng còn ở đây? Tôi là một sĩ quan chứ không phải anh cai ngục." Ông lấy điếu thuốc, châm hút, tay hơi run, Đại-úy Bart nhìn ông với vẻ tò mò:
- "Cậu thương hại mấy thằng cha đó hả?
- "Còn Đại-úy thì không hay sao?"
- "Tại sao lại thương? Trong bọn nó, có đứa nào là không bị kết tội một cách xứng đáng đâu?"
Obermeier dập điếu thuốc lá vừa châm vào đĩa đựng tàn:
- "Đại-Úy vừa nhìn thấy Đại đội của tôi đó, năm mươi ba cái xác chết đi vật vờ. Thượng sĩ Krull lại vừa hành hạ thêm vì họ về chậm mất bảy phút. Như vậy là kết tội một cách xứng đáng sao? Thí dụ như cái thằng nhỏ bé, gầy ốm ở hàng thứ nhất, Trung úy Remberg đã được thưởng anh dũng bội tinh, là một trong những chiến sĩ đầu tiên tiến vào Mạc-Tư-Khoa đó. Thế rồi trong một cuộc hội thảo tình hình, anh ấy tuyên bố rằng, quân đội sẽ bị tiêu hao suy mòn tại miền đất mênh mông của nước Nga, rằng cần phải ngưng lại cho kịp thời nếu không chúng ta sẽ đi tới thảm họa. Người ta tống cổ anh đến đây. Anh ấy nói ; "Tôi không phải là anh đồ tể, tôi không thể tham dự vào vụ đó được". Bây giờ thì anh ấy đào đất.
- "Để khỏi thành anh đồ tể, hắn trở thành thợ đào đất. Như vậy hắn không khoái hơn là chết sao?"
Viên Trung úy không nói tiếp truyện đó nữa.
- "Đại-Úy có nhìn thấy người tiều tụy, sói trán, mang kính đang đi ngoài sân kia không?"
- "Hắn ta làm sao?"
- "Giáo sư Ewald Puttkamer, Thiếu-Tá trừ bị đó. Ông ấy dám nói rằng sơ-mi màu nâu (áo của đảng là y phục mới của bọn phu đào huyệt".
Đại Úy mỉm cười:
- "Khá lắm".
- "Những người như vậy ở đây rất nhiều. Nhưng Đại-úy cũng biết rồi mà"
- "Có cả những tội nhân nữa phải không?
- "Vâng, cũng có".
- "Kết luận?"
- "Tôi không tin rằng một sĩ quan Đửc lại thích hợp trong vai trò cai ngục",
Đại Úy Bart, mỉm cười ngồi xuống chiếc ghế duy nhất trong phòng, thả khói thuốc lên trần nhà. Từ ngoài sân vọng vào, qua cửa sổ, tiếng la hét của Thượng sĩ Krulll, ông ta đang đi đến nơi phát cơm.
Obermeier nói:
- "Thực ghê tởm!"
Bart nói nhẹ nhàng:
- "Ô hay! Chiến tranh là ghê tởm. Và hòa nhã còn ghê tởm hơn nữa vì lính tráng như mình thành vô dụng. Hãy nhận xét sự việc một cách bình tĩnh hơn, từ tốn hơn nhiều nữa, bồ ơi! Có thế thì may ra cậu mới sống sót được. Đừng có bất bình khi nhìn thấy một Trung Tá, một sĩ quan anh dũng bội tinh hay một giáo sư siêu việt phải chạy vòng quanh sân dưới quyền xài xể của thượng sĩ Krull, giống như...cậu nói giống như khỉ... à phải, giống như những xác chết đi vật vã. Đúng vậy không?
Vị Trung-úy đồng ý.
Bart uể oải đứng dậy, ngáp, vươn vai và sửa lại chiếc đai da. Rồi ông nhìn chiếc đồng hồ nhỏ trên cổ tay, ngáp thêm lần nữa, chẳng che miệng. Giây đeo đồng hồ làm bằng vải. Người ta nói rằng, mỗi ngày Bart thay một dây để lúc nào giây cũng trắng tinh. Có thể là mặc dầu việc đó hình như không thích hợp tính tình của con người to khỏe đó, mà lại rất thích hợp với Đại-Đội trưởng Đại đội 1, cục cưng của các bà, Trung úy Wernher.
Khi Đại Úy Bart ngước mắt lên thì thấy Trung úy Obermeier đứng nghiêm trước mặt ông.
- "Thưa Đại-úy, xin Đại-úy vui lòng chấp thuận đơn của tôi xin thuyên chuyển đi một đơn vị tiền tuyến".
Đại Úy nói với vẻ nhạo báng:
- "Này, này! Một vị anh hùng! Nếu cậu có thể đợi thêm một phút nữa, cậu đã có thể để dành lại cái hình thức biểu lộ anh dũng đó."
Ông thò tay vào túi lấy ra một tờ gấp đặt thêm vào đống giấy tờ phủ kín một phần chiếc bàn.
- "Đại đội của cậu, Đại-đội 2 của Tiểu đoàn 999 sẽ sang Nga một ngày rất gần đây."
- "Sang Nga?"
- "Rất đúng, Các Đại đội khác sẽ đi tiếp theo sau 2 ngày. Tôi đi với Đại-đội sau chót, nghĩa là Đại-đội 1. Thỏa mãn không?"
- "Không thưa Đại-úy".
- "Vẫn chưa? Mẹ kiếp! Vậy thì cậu muốn gì?"
- "Một đơn vị bình thường. Tôi sẽ làm được gì ở Nga với những kẻ dở sống, dở chết này? Chúng ta sẽ thắng trận sao được với những thân xác vờ?"
- "Thắng trận? Obermeier, Cậu thật còn trẻ. Rút cục thì chủng ta cũng đã nhận được một nhiệm vụ rất cao đẹp. Cậu sẽ có thể phô trương tất cả chí khí anh hùng của cậu. Một nhiệm vụ với một mục tiêu phải đạt được nếu không sẽ phải đưa ra tòa-án binh. Không còn phải làm những tạp dịch chán ngắt: gỡ mìn, tháo bom, tát cạn giao thông hào, chuyển đạn, làm đường, chôn xác..."
- "Thế nhiệm vụ rất cao đẹp đó là gì?"
- "Cậu sẽ được biết vào đúng lúc".
Bart đến gần cửa sổ. Ngoài sân, Krull đang la hét đuổi theo một binh sĩ như đuổi theo một con thỏ rừng.
- "Tên nào đó? Cậu có vẽ am hiểu tất cả binh sĩ của cậu mà."
Obermeier đáp ;
- "Trung-Úy Stubnitz"
Đại-úy sửa lại:
- "Binh nhì Stubnitz. Hắn phạm tội gì vậy?"
- Khi ở Dortmund, hắn ném ly rượu vào hình lãnh tụ và la lên: xin mừng anh khỏe mạnh, anh hề!"
- "Thằng ngu vậy!"
- "Hắn say rượu."
- "Nếu thế nó là thằng ngu say! Tại sao cậu không can thiệp đi. Tại sao cậu không làm một phúc trình tố cáo Krull đã hành hạ binh sĩ trực thuộc?"
- "Việc đó đưa tôi đi đến đâu? Chắc sẽ đi tới một cuộc điều tra nhanh chóng như thế này: Hỏi: Đơn vị nao? Đáp: Tiểu đoàn trừng giới 999".
- Thượng sĩ, ông đã làm gì? - Tôi nhắc lại bổn phận cho một binh sĩ cứng đầu trong khuôn khổ kỷ luật - Tốt lắm, Thượng sĩ, ông cứ tiếp tục! Và cuối cùng là chính tôi sẽ bị khiển phạt".
- "Đúng vậy. Cậu không "bết" lắm đâu. Nhưng vì chúng ta sẽ sang Nga,
chẳng bao lâu rồi cậu sẽ dẹp được những ưu tư và những hoài nghi triết lý của cậu".
- "Tại sao thế?"
Đại-úy Bart nói rành rẽ từng tiếng:
- "Bởi vì chỉ trong vòng vài tuần là cậu sẽ không còn Đại đội nữa."
Im lặng.
Rồi chắc hẳn Đại-úy muốn làm dịu ấn tượng gây ra bởi lời nói của ông ta và để xua đuổi hình ảnh ma quái đẫm máu mà lời nói đã gợi lên, ông nói:
- "Bốn người nằm trong bùn kia thuộc Đại- đội của cậu. Thành phần tăng cường cho cậu đó. Tóm lại, đó là những tên rất đáng chú ý, sẽ không làm mất vẻ đẹp bộ sưu tập của tụi mình đâu. Tên thứ nhất là... ông tìm trong hồ sơ - Gottried von Bartlitz, cựu Đại tá, được ân thưởng huy chương anh dũng kèm theo nhành lá sồi, nguyên Tư lệnh Sư đoàn, bây giờ là binh nhì. Sau trận Stalingrad hắn ta đã nói quá nhiều.... Hình như hắn cũng không muốn trở thành đồ tể. Tên thứ hai tên là Erich Wiedeck, cựu hạ sĩ, nông dân miền Poméranie. Hắn đã tự ý kéo dài thêm ngày nghỉ phép vì hắn muốn gặt lúa cho kịp, đó là hắn tin như vậy. Tên thứ ba, Karl Schwanecke, là một thợ thuộc kim nhưng trước hết là một tội nhân tái phạm nhiều lần, một thứ "phi nhân". Còn tên thứ tư, bác sĩ Ernst Deutschmann, bị buộc tội tự ý hủy hoại thân thể một cách rất khôn khéo nhưng cũng không thoát. Nhưng mà cậu làm sao vậy, Obermeier?"
- "Người thứ nhất.... tên là gì?"
- "Sao? Cậu biết hắn à?"
- "Tên hắn là gì?"
- "Gottfried von Bartlitz. Cậu biết hắn?"
- "Dạ. Tiểu đoàn trưởng cũ của tôi"
- "Vậy hả! Thú vị đấy chứ!"
Đại-úy Bart trở lại bên cửa sổ coi như cảnh Kull la lối không làm cho ông khó chịu. Không nhìn vị Trung-úy, ông khẽ nói:
- "Truyện đời nó như vậy đó, cậu thấy không? Hôm qua còn ở tít trên cao, hôm nay xuống thấp và ngày mai, còn xuống thấp nữa... dưới lớp đất đen. Phải ở trên cao, Obermeier ạ, đó là điều quan trọng. Cậu hãy cố gắng trèo lên nữa, nhưng đừng cố quá cao. Hãy quên đi mấy thằng cha đó trước đây là cái gì. Hãy quên điều đó đi để khỏi xẩy đến cho cậu những truyện tương tự như họ. Họ không còn dĩ-vãng nữa. Ở đây họ chỉ còn là những binh sĩ trong một Tiểu-đoàn trừng-giới. Những người binh sĩ không vũ khí. Họ đã bị truất mất danh dự mang vũ khí. Đối với bọ, chỉ còn có danh dự được chết. Những binh sĩ của Tiểu-đoàn-
trừng-giới 999.
Ông thọc hai tay vào túi, nhún vai nói tiếp:
- "Phải sống, phải ở trên cao, đừng có xuẩn động. Có gì uống không cậu?"
- "Đại-úy uống Hennessy?"
- "Thứ đó được quá".
❉❉❉
Hy vọng giống như những món đồ chơi có gắn chì ở đáy, đặt thế nào rồi cũng dựng đứng dậy. Tưởng rằng đã hoàn toàn tiêu tan, ấy thế mà nó giống như một cái mầm nhỏ xíu phát hiện, trước còn rụt rè nhưng rồi lớn mạnh thực mau như tia sáng mặt trời. Tất nhiên nó thường hay đánh lừa chúng ta. Nó phát sinh từ những ước muốn của chúng ta hơn là từ lý trí, nhưng mà cần chi, hãy biết nó giúp cho chúng ta thoát khỏi sự an phận và đôi khi cũng giúp chúng ta tìm thấy hay nhận ra một con đường thoát nạn.
Julia Deutschmann cũng ở vào tình trạng như vậy.
Sau khi gặp Tướng von Frankenstein, cái tia hy vọng le lói mà nàng dự liệu mang một danh tính: Bác sĩ Albert Kukill.
Điều đó hơi lạ lùng vì chính Bác sĩ Kukill đã là nhà chuyên môn được mời ra làm chứng trong hồ sơ buộc tội Ernst. Với đầu óc lạnh lùng, ông đã tuyên bố những ý kiến được coi như không thể sai lầm. Nếu không có Bác sĩ Kukill, có lẽ Ernst đã không bị kết tội. ông Tướng chẳng nói rằng: ý kiến của nhà chuyên môn là yếu tố quyết định, Julia nghĩ rằng chỉ còn một con đường duy nhất: chứng minh cho nhà chuyên môn đó thấy rằng, ông ta đã lầm. Một sự thú nhận của ông ta sẽ đưa đến việc tái xét hồ sơ và Ernst sẽ thoát khỏi Tiểu đoàn trừng giới 999.
Nàng biết rằng chuyện đó sẽ không dễ dàng. Nàng quả hiểu các bạn đồng nghiệp, những vị bác sĩ: chỉ một rất nhỏ dám nhận một sự lầm lẫn và Bác sĩ Kukill thì hình như không thuộc vào nhóm ít ỏi đó. Tuy nhiên, nếu nàng đủ tài khéo léo, nếu nàng có thể tìm được những câu thích hợp, nếu...Dù sao mặc lòng, nàng cũng chẳng còn khả năng nào khác để cứu Ernst.
Thế nên ngay buổi tối, sau khi gặp vị Tướng, nàng đến biệt thự của Bác sĩ Kukill và lấy hết can đảm, nàng nhấn chuông. Nàng không muốn thông báo trước vì chắc chắn người quản gia hay cô thư ký khi nghe tên nàng sẽ trả lời ngay là bác sĩ không có nhà. Nàng đến bất thình lình, gặp ông ta bất ngờ, buộc ông ta phải nói, đặt ông ta đối diện với ác tâm của ông.
Bác sĩ Kukill mặc bộ đồ lịch sự có nút cài chéo, bộ tóc hoa râm chải sát ngược về phía sau. Khuôn mặt ông hẹp làm liên tưởng đến mặt loài chim ăn thịt đang rình mồi và cặp mắt xám, dữ tợn, thích hợp với vóc dáng đó.
Ông không tỏ vẻ ngạc nhiên khi thấy Julia và nếu ông có cảm thấy phần tội lỗi nào đó đối với nàng, hay đúng hơn đối với chồng nàng thì ông ta cũng tuyệt đối không để lộ ra. Nhưng mà một con người trầm tĩnh như thế, từ tốn như thế, có thể nào cảm thấy phạm tội được?
Chính Julia cảm thấy bối rối.
Ông đưa tay bắt tay nàng như đối với người quen biết từ lâu và mỉm cười. Thoắt cái, bộ mặt ông mất vẻ cứng cỏi, hiểm hóc. Khi ông nói, với phong thái của người thành Vienne, bằng tiếng nói mà ông biết sử dụng một cách tuyệt hảo cho thêm âm vang, để khẳng định với giọng lãnh đạm hoặc để biện hộ với niềm tự tin dễ lây sang người khác.
- "Chắc ông biết tại sao tôi tới đây?" Julia nói và mừng thầm căn phòng tranh tối tranh sáng đã che dấu bàn tay run rẩy và nét mặt đỏ của nàng.
- "Tôi tự đoán được điều đó, thưa bà, hay đúng hơn thưa nữ đồng nghiệp vì cả hai chúng ta đều là y-sĩ, phải không thưa bà? Mà ta không nên đứng đây. Dù bà có chuyện gì cần nói với tôi, chúng ta cũng nên vào ngồi trong này tốt hơn."
Ông ta mở chiếc cửa và mời Julia vào trong một phòng khách, đồ đạc bày biện sang trọng, quay ra vườn. Một chiếc cửa sổ rộng nhìn xuống khu vườn trồng nhiều cây lớn nom như một công viên, nơi hoàng hôn đang phủ xuống. Những bồn hoa các loại che khuất nửa chiếc hồ tắm.
Bác sĩ Kukill bật đèn và kéo chiếc màn cửa. Rồi ông chỉ chiếc ghế bành lớn bọc nệm màu trái chanh:
- "Xin mời bà ngồi"
Nàng nghe theo. Làm thế nào mà con người này có thể mỉm cười và bình thản khi ông ta thừa biết rõ lý do cuộc tới thăm của nàng?
Nàng nói:
- "Tôi muốn được nói chuyện thêm với ông về tất cả vụ đó".
Nàng lấy lại được thái độ tự chủ. Đối phương trước mặt nàng chỉ có thể bị khuất phục hay dồn vào thế bí bằng sức mạnh của lý trí.
Ông ta đáp:
- "Tôi không được hiểu rõ rằng điều bà yêu cầu có thể có ích lợi gì không? Nhưng mà bà dùng gì? Cô nhắc? Ác-ma-nhắc 1913? Tôi để dành riêng tiếp đãi bạn bè."
Ông ta nói không một chút riễu cợt nào.
- "Dạ cám ơn ông, ông cho gì cũng được".
Bác sĩ Kukill đốt ngọn nến, hơ ly cho nóng và rót chất rượu màu hổ phách, mỗi ly chừng một ngón tay.
Ông nói:
- "Có một số người chê trách tôi về tất cả những thứ này: về nhà cửa phong lưu hoặc về rượu Ác-ma-nhắc 1913. Theo họ, những thứ đó coi chướng mắt trong lúc này. Nhưng thử hỏi lúc nào thì nó không chướng mắt? Các công ty bảo hiểm ước lượng đời sống trung bình một người Âu-Châu bây giờ là 66 tuổi, và chiến tranh lại làm con số đó xuống thấp rõ ràng. Ngày mai có thể là quá xa xôi... và cũng có khi chẳng bao giờ tới với người nào đó. Vậy tội gì không cố đem lại chút hương vị có thể được cho cuộc sống? Bà nghĩ về vấn đề đó ra sao?"
- "Tôi chẳng bao giờ nghĩ tới điều đó."
Ông mỉm cười nói:
- "Dù sao mặc lòng, nên làm cho cuộc sống bớt sầu thảm!"
Ông giơ ly rượu nhìn qua chất nước trong vắt:
- "Xin mời bà"
- "Tôi tự hỏi không hiểu ông là con người như thế nào. Có lẽ ông chỉ bận trí về những thứ này (nàng phác một cử chỉ bao quanh phòng khách vườn tược, chai rượu Cô-nhắc và không chú ý đến truyện gì xảy ra quanh ông."
Kukill vẫn mỉm cười, đáp:
- "Có phần nào,"
- "Vậy mà những truyện đó đang xảy ra. Mới hôm qua, một vụ ném bom làm nhiều người chết, chắc chắn hôm nay cũng sẽ cố. Rồi còn bao nhiêu người đang chết tại mặt trận Nga, mặt trận Ý. Lại còn có những sự bề ngoài coi không đáng gì cả mà có tầm quan hệ, hơn nữa, mang trọn vẹn ý nghĩa cho cuộc sống của một con người."
Ông ta nói một cách lạnh lùng ;
- "Có lẽ bà muốn ngụ ý nói về ông nhà."
Julia nhìn thẳng ông ta và nói:
- "Dạ phải. Anh ấy là cuộc sống của tôi. Xin ông hiểu cho, tôi không còn biết kiếm ai ngoài ông ra. Câu chuyện gồm toàn hoàn cảnh thảm khốc liên tục."
- "Một luật gia có thể nói như bà. Nhưng chúng ta hãy nói một cách rõ ràng hơn: bà muốn nói là đã có sự lầm lẫn?"
- "Thế còn ông? Ông nghĩ sao?"
Bác sĩ Kukill trề môi dưới, ngắm nghía bàn tay bé nhỏ trắng trẻo của ông:
- "Và nếu đích thực là một sự lầm lẫn?..."
Julia vuột dậy:
- "Ông...ông nói thế đó! Bản giám định của ông đã làm Ernst thân bại danh liệt. Chính ông đã làm cho anh ấy bị tù tội. Và bây giờ lương tâm ông yên ổn khi tuyên bố rằng, có thể có lầm lẫn trong chuyện đó hay sao?"
- "Xin bà bình tĩnh. Bà ngồi xuống đi. Bản giám định của tôi mang tính chất hoàn toàn khoa học. Trong tình trạng khoa học hiện nay, bản đó đã được thiết lập hoàn toàn đủng. Với tư cách một chuyên viên đứng trước tòa án không thể nói lắt léo với những điều dự tưởng, những giả thuyết."
- "Thế nhưng tôi và nhà tôi đã đạt được nhiều kết quả mỹ mãn trong cuộc thí nghiệm...?"
- "Ông đã thực hiện bao nhiêu loạt thí nghiệm?"
- "Chừng ba chục."
- "Như vậy chưa có thể nói là đạt được kết quả mỹ mãn, bà thừa hiểu điều đỏ. Nhưng hãy xếp vấn đề đó lại. Bà thấy nội vụ như thế nào, hay nói cho đúng hơn, nội vụ diễn tiến ra sao?"
Ông chắp tay nhìn Julia, mơ màng, ông không quan tâm mấy đến câu chuyện vừa vô ích, vừa chán ngắt. Chẳng ai có thể cứu Ernst Deutschmann được nữa. Có lúc ông tự nhủ, người đàn bà này làm ông mất thì giờ. Nhưng... bà ta xinh xắn, lịch sự, dám can đảm. Tóm lại là đẹp. Một vẻ quyến rũ đặc biệt của trí thông minh, nghị lực và niềm tuyệt vọng, ông thấy hơi ghen với Ernst Deutschmann và tự hỏi:
"Đối với một người đàn ông thì còn đòi hỏi gì hơn nữa?. Nếu chồng bà chết ở Tiểu Đoàn trừng giới thì bà ta sẽ ra sao?".
Vừa tìm kiếm những câu để thuyết phục cho nàng thấy nỗ lực của nàng vô ích, ông nghĩ rằng nàng sẽ là một góa phụ xinh dẹp. có điều chắc không phải là góa phụ tươi vui như người ta thường nói.
Ông bắt đầu nói:
- "Thưa bà, cần phải đặt mình vào quan điểm của chúng tôi. Chồng bà nhận được lệnh gọi nhập ngũ hôm trước thì hôm sau lâm bệnh ngay. Sau đó, người ta khám thấy ông ấy đã tự chích mủ một người bệnh sắp chết vào mình, lấy cớ là để thử xem hiệu quả một chất trị độc do ông ấy tìm ra. Một vết thương làm độc do vi khuẩn Staphy-Locoque vàng gây ra như loại đó, đòi hỏi phải nghỉ dưỡng sức vào khoảng một năm và lẽ dĩ nhiên, bất lực về quân dịch".
Ông ta nói thong thả, dằn từng tiếng. Julia không nói gì. Ông tiếp tục:
- "Ông ấy biết mà chúng tôi cũng biết rằng: sự làm độc như vậy thường là chết và đã có hàng ngàn người chết vì nó trong cuộc chiến tranh này. Tuy nhiên tôi không muốn buộc cho ông ấy là có ý định tự tử. Rất có thể ông ấy tin rằng mình đã tìm ra...thí dụ một thứ huyết thanh nào đó...và rồi giống như mấy người...hà...hà...cuồng tín hay anh hùng khoa học, ông ấy muốn thí nghiệm ngay trên bản thân. Đó, vì sao mà tôi lại nói có thể có sự lầm lẫn...lầm lẫn ở điểm ông ấy tự hủy không phải vì muốn tránh quân dịch, mà vì sự ngộ nhận đáng tiếc. Tuy nhiên, tại tòa án quân sự họ đâu có cứu xét đến những điều như vậy, Người ta chỉ chú ý đến việc ông ấy tự làm cho bất lực với nhiệm vụ quân dịch. Và chỉ có điều đó là quyết định.
- "Nhưng... tôi tin chắc về công việc của anh ấy, tôi thường xuyên có mặt và tôi biết anh ấy đang đi đúng phương pháp. Chứng tôi có rất ít thời gian, cần phải làm gấp..."
- "Cá nhân tôi, tôi nhìn nhận điều đó có thể thành tựu. Nhưng một vị quan tòa thì khác. Tôi đã từng nói với bà: hiện nay không có một thứ thuốc nào thật hiệu lực chống lại sự làm độc đó. Và tôi xin được phép nghi ngờ rằng, chồng bà, dù tài ba mấy đi nữa, khó có thể một mình tìm ra được thứ mà bao nhiêu nhà khảo cứu cố gắng tìm tòi vô ích trong bao nhiêu năm nay. Đó là điều tôi tuyên bố trước tòa. Tôi đã tin tưởng chắc chắn như vậy và hiện tôi vẫn duy trì niềm tin đó. Tôi đâu có thể làm gì hơn được. À mà bà đã tìm cách xin tái thẩm chưa?"
- "Dạ, đã"
- "Thế sao?"
- "Người ta nói với tôi... một nhân viên trong đội phòng vệ SS đã nói với tôi rằng (nàng ngập ngừng nửa như sợ những câu sắp nói, nửa như nhớ lại người đã nói câu đó nếu có vụ tái thẩm hồ sơ của Deutschmann thì kết cục sẽ là cái án tử hình."
Hai người cùng im lặng. Bác sĩ Kukill đốt điếu thuốc lá và hỏi:
- "Loại nhân viên phòng vệ SS nào đó?"
Julia nhún vai không trả lời.
- "Bây giờ bà tính sao?"
Nàng nhìn ông ta bằng cặp mắt đen lo ngại, rồi hỏi lại bằng giọng run run:
- "Vậy không còn cách nào nữa sao?"
Nàng đứng dậy, vòng quanh bàn, nắm lấy cánh tay ông bác sĩ. Ông ta ngồi yên, e ngại, và dù sao mặc lòng, ông cũng thấy cảm động về nỗi đau khổ và tuyệt vọng của nàng..
Julia khẩn khoản:
- "Ông có thể làm được chút gì... Chắc chắn ông có thể làm được... Tôi van ông. Tất cả đều trông cậy ở ông, tôi biết... ông có thể bảo là có truyện lầm lẫn... thế là anh ấy được trở về với tôi... Lạy trời... Tôi xin khẩn cầu ông, ông hãy giúp tôi..."
Ông ta cố gắng trấn tĩnh nàng, nhưng biết rằng nàng không nghe ông, mà nàng cũng không tin rằng đối với Ernst thế là hết, nàng chẳng có thể làm được gì cho chồng, một khi hàng ngũ Tiểu Đoàn trừng-giới đã nuốt gọn anh ta. Ông cho nàng biết, chính ông cũng không thể làm gì hơn và nhìn nàng yên lặng. Ông tự nhủ nàng có một sắc đẹp khiến người ta phải tôn thờ. Nỗi đau đớn và tuyệt vọng không ảnh hưởng gì mà chỉ làm cho mặn mà thêm. Rồi chợt một ý định thoáng qua trong đầu sẽ không để Deutschmann trở về với nàng nữa.
Julia đột nhiên cất tiếng, không để ý tới người đàn ông trước mặt đã bị xúc động, đứng lên và nghiêng mình xuống nhìn nàng:
- "Còn, vẫn còn một điều có thể làm được. Tôi đã tham dự trong mọi cuộc thí nghiệm của anh ẩy. Tôi còn giữ tất cả những điều anh ấy ghi chú. Tôi sẽ theo đuổi công trình của anh ấy. Tôi sẽ tiếp tục các cuộc thí nghiệm đó, nếu cần, tôi sẽ thí nghiệm ngay trên mình tôi "
Bác sĩ Kukill thốt lên:
- "Trời đất!"
- "Tôi sẽ chứng mình rẳng anh ấy có lý. Và người ta sẽ cho anh ấy trở lại đề tiếp tục làm việc. Và..."
- "Thưa bà, tôi xin bà. Đừng làm thế, chắc chắn bà sẽ chết"...