← Quay lại trang sách

Chương 21

Thực sự, Schwanecke đã vào rừng Gorki nơi kẻ tử thù của hắn cũng ở đó Tarinukine.

Micha, ngồi trước chiếc hầm, hút thuốc và dỏng tai về phía Anna ở dưới đáy hầm, đang lủng củng với những dụng cụ làm bếp. Trước đó một giờ, Trung úy thủ trưởng Sergei đã qua đây và nói:

- "Các đồng chí, ba ngày nữa chúng ta sẽ tấn công. Lần này ta sẽ đuổi quân Đức như những con chó. Nếu các đồng chí mà được thấy tất cả những gì tập hợp ở phía sau kia... Ba trăm dàn đại pháo Staline, ít ra là hai trăm chiến xa và pháo binh nhiều chưa bao giờ tôi trông thấy như vậy"!

Lời nói như điệu nhạc rót vào tai Micha. Anh đã quên câu truyện Tania. Không ai nói đến tên nàng nữa coi như một điều cấm kỵ nhưng mọi người đều biết rằng kẻ nào phản bội đều phải chết như vậy. Sau khi đuổi xong quân Đức, Micha sẽ cưới Anna, hiển nhiêu là không đẹp lắm nhưng tin tưởng hoàn toàn.,.

Mải suy tư, anh không nghe cũng không thấy một người đang bò lại gần ở phía san anh và mắt không rời anh.

Chính là Schwanecke.

Hắn đã thấy nhiều hầm của du kích nhưng chưa thấy hầm nào thuận lợi như chiếc này vì ở rất xa những chiếc khác.

Schwanecke đã lẩn vào rừng để trốn. Quân Nga rồi thế nào cũng tấn công mặt trận Đức. Du kích quân cũng sẽ di chuyển. Hắn tính toán chờ toán quân Nga phía sau tới và sẽ ra đầu hàng. Chỉ cần làm sao chịu đựng nổi tới lúc đó. Hắn võ trang đầy đủ, có thực phẩm dư dả. Có thể hắn sẽ phải đào một chiếc hầm như quân du kích. Trong tương lai hắn sẽ đánh cắp thêm thực phẩm để sống.

Cái đói đang hành hạ bắn. Hắn nhịn ăn đã ba ngày và không thể kéo dài hơn được nữa vì trời lạnh. Hắn vừa gặp chiếc hầm này trên đường đi. Tại sao hắn không thử...

Micha rít một hơi thuốc ống vố, phác một cử chỉ khoan khoái.....và thế là rồi đời. Anh ngã sấp xuống tuyết, muốn kêu lên, muốn dãy dụa, nhưng có cảm tưởng như thân thể bị cắt làm đôi. Anh rên lên một hai tiếng và trút hơi thở cuối cùng. Schwanecke ngồi lên người anh cho tới khi thân mình anh hoàn toàn duỗi thẳng. Rồi hắn rút con dao dài ở lưng Micha ra và nhanh nhẹn khám túi của anh ta. Một chiếc nhẫn với thuốc lá.

Tốt! Một chiếc hộp đựng trà xanh... chẳng có gì ăn được cả! Đột nhiên hắn im lìm. Có tiếng đàn bà vừa hát nho nhỏ ở dưới hầm. Như vậy là chưa hết. Lại còn phải giết một người đàn bà nữa. Nhưng trong hầm trú ẩn, chắc chắn là có thực phẩm.

Ngay lúc đó, Tartoukine đi vào, qua chiếc dậu thấp.

Tiếng cành cây gẫy làm Schwnnecke quay lại. Tartoukine!

Hai người yên lặng nhìn nhau. Rồi tên Mông Cổ lên tiếng:

- "A!.. Thì ra mày... "

Schwanecke mỉm cười.

Tartoukine lẩm bẩm:

- "Tao biết rằng ta sẽ tìm được mày và tao sẽ giết mày...

- "Nói xạo hoài!... Thử coi! "

Lần này, Schwanecke chẳng muốn đánh nhau bằng dao chút nào. Tartoukine nguy hiểm quá sức. Tuy nhiên, hắn buộc lòng phải dùng cách đó bởi vì hắn đã đặt khẩu súng trường cách xa mấy thước để khỏi vướng víu khi tấn công Micha. Còn khẩu súng lục, hắn nhét sâu mãi dưới áo khoác ngoài. Tartoukine chắc chắn sẽ không để hắn có thì giờ rút súng. Vậy thì phải chiến đấu bằng dao mà hắn có sẵn trong tay và cũng để đề phòng con đàn bà ở dưới hầm. Người ta đã biết nữ du kích ghê gớm như thế nào! Một con dao găm dài cầm trên bàn tay từ lúc nào, Tarloukine lại nói:

- "Tao đã thề giết mày... Tao đã thề giết mày... "

Schwanecke nói:

- "Thì mần đi!.. "

- "Tao sẽ giết mày.. ".

- "Mày cứ nói xạo hoài, đồ con khỉ da vàng! "

Cặp mắt của hai người như mất hẳn tinh thần.

Tartoukine tiến dần lại mấy bước. Tiếng người đàn bà vẫn còn nghe thấy, nhưng cả hai cùng chú ý tới. Họ từ từ xoay quanh, như hai con beo lớn rình lúc thuận tiện. Schwanecke nhớ lại đã coi một phim có một anh da trắng và một anh da đỏ cùng đối diện nhau như thế, tay lăm lăm cầm dao... Kỷ niệm làm hắn mỉm cười. Dĩ nhiên là anh da trắng đã thắng. Những lần này ai sẽ là anh trắng?

Tất cả những cái đó như một sự ngu dại vĩ đại vô nghĩa!

Cuốn phim, Tartoukine, khu rừng, xác chết bên cạnh, tiếng người đàn bà từ dưới đất đưa lên và cả hắn nữa. Phải, tất cả cái đó là ngu xuẩn mơ hồ. Hắn vừa làm gì trong tất cả chuyện đó? Có điều gì thực đáng tức cười!

Cả hai lần lượt nhảy xổ vào nhau, xô nhau và đâm lẫn nhau bằng lưỡi dao. Rồi cả hai lại ngã xuống, lăn lộn trên nền đất, gầm lên, rên la... hấp hối.

Tartoukine là người chết trước.

Schwanecke chống tay run rẩy nhìn cái thân xác co quắp, miệng hớp không khí, đôi mắt trợn ngược và cuối cùng thở hắt ra.

Đúng là một sự ngu dại vĩ đại! Thực ra, tại sao hắn lại giết nó?

Hắn không đau đớn lắm nhưng cảm thấy quá yếu đuối. Đôi tay hắn không còn sức, hắn ngã sấp xuống, nhưng vừa rên rỉ vừa nghiến răng, hắn cố gắng lật ngửa lại. Hắn không muốn chết nằm sấp như thế. Một người đàn ồng chết phải nằm ngửa, hai tay khoanh lên ngực như hắn đã trông thấy chú hắn chết như vậy khi bị giết bằng một viên đá đập vào đầu trong một cuộc đánh lộn. Nhưng mà cái đó cũng lại khôi hài nữa! Hắn nghe thấy tiếng cửa mở, những bước chân lại gần. Chiếc cửa đó là chiếc cửa của gia đình hắn ở Hambourg. Nhưng bước chân đó là bước chân của mẹ hắn trở về nhà đêm khuya. Chắc chắn bà ta lại say. Nếu bà ta đưa một người nhân tình về thì hắn lại phải nhường chiếc giường và vào ngủ trong bếp. Nhưng mà sao hắn cảm thấy mệt mỏi quá! Kìa, không, không phải mẹ hắn... mà là một người đàn bà nào khác mà hắn chưa từng thấy bao giờ. Tại sao bà ta lại cúi xuống nhìn hắn với vẻ mặt hết sức giận dữ thế nhỉ? Thật là ngu xuẩn! Nhưng mà đúng, chính là mẹ hắn... Tại sao bà ta lại la hét như vậy? Khuôn mặt biến mất, tiếng la hét vẫn còn, rồi khuôn mặt lại hiện ra, lại có cả một bàn tay cầm con dao nữa... Bà ta định làm gì với con dao đó? Thực là ngu xuẩn!

Anna gầm lên như một con thú bị tử thương và cô ta cầm dao đâm tới tấp người đó, người đã giết mất Micha của cô và Tartoukine, người nhìn cô với cặp mắt diễu cợt, người có miệng cười rộng và châm biếm trên khuôn mặt kia. Cô ta chém vùi vào khuôn mặt nhưng không sao làm biến mất nụ cười diễu cợt dù rằng người xa lạ đó đã chết và dù bằng khuôn mặt đó chỉ còn là một đống thịt máu,

❉❉❉

Chiếc tàu hỏa quân y chở Deutschmann về Bá-Linh đi băng qua xứ Ba-Lan. Trên đường đi anh nghe thấy những thương binh khác nhắc tên các ga và tiếng những người nữ y tá Hồng Thập Tự đứng bên ngoài cửa tàu tặng cà phê, nước trà bánh trái.

Những thương binh khác hỏi anh:

- "Cậu có khát không? Cậu có muốn uống trà không? Anh gật đầu không nói. Anh suy nghĩ: "Mình đã mù, mình đã mất một chân... sống để làm gì"? "

Một người hỏi:

- "Ngày mai bọn mình sẽ tới Bá-Linh. Cậu có thích không? "

Tại sao anh lại thích được? Tuy nhiên anh cũng phác một cử chỉ tán đồng.

Mình sẽ làm gì khi ở nhà thương ra? Người ta sẽ cho minh một số lương hưu bổng chết đói. Người ta sẽ đẩy mình trên chiếc xe lăn trong khi mình chẳng thấy ngày mà cũng chẳng thấy đêm... Nếu Julia còn sống, mình còn có thể đọc cho nàng biết, còn có thể suy nghĩ, vẫn còn làm việc được!

Nhưng, không! Làm sao mình có thể buộc nàng phải sống cạnh một kẻ tàn tật như mình. Mà nghĩ đến chuyện đó làm gì? Nàng chết rồi. Tania cũng chết rồi. Schwanecke thì theo như thực tế, chắc cũng đã chết, cả Trung úy Obermeier, Bartlitz, Wiedeck nữa... Tại sao mình còn sống sót làm gì?

Bá-Linh...

Bây giờ anh nằm trong bệnh viện. Đã bao lâu rồi? Các nữ y tá nói rằng đã 4 tuần. Nhưng chắc hẳn phải lâu hơn nhiều... 4 năm... 40 năm... Thời gian như một nguồn nước chảy vô tận mà anh đang sống trong đó, gần như nắm được trên đầu ngón tay. Và anh vẫn cứ ở mãi mãi trong đó, giữa nguồn nước chảy hững hờ làm anh muốn phát điên.

Hôm nay là thứ năm, theo lời cô y tá. Và còn gì nữa? Cái đó để làm gỉ nhỉ? Thứ năm, thứ sáu, thứ bảy...ngày nào thì cũng như ngày nào! Anh nghe đồng hồ điểm 4 giờ chiều. Chung quanh anh là ban ngày nhưng anh chỉ nhìn thấy đêm đen. Với anh, ba giờ chiều hay ba giờ đêm thì cũng vậy. Anh sống trong bóng tối với những suy tư, những kỷ niệm... A, nếu chỉ cần làm sao cho tư tưởng, kỷ niệm đó tan biến được! Anh nghe tiếng cửa khẽ mở lách cách. Ai vào giờ này? Cô nữ y tá Erna, bác sĩ Bolz... hay là ông bạn cũ, bác sĩ Wissek, người đã tới thăm anh ngay sau hôm anh về tới bệnh viện?

Anh lắng tai nghe. Không có tiếng chân bước, không có tiếng đồ vật hay ly tách kêu mỗi khi cô y tá vào, cũng không có lời nói thường lệ của bà giám thị khi tới thăm: "Chào! bệnh nhân của chúng ta ra sao? Bà này tên là Hyaziutba, tên gì mà kỳ cục"!

Anh hỏi:

- "Ai đó? Có ai đó không? "

Bác sĩ Wissek, bác sĩ Kukill và... Julia đang đứng ngoài cửa.

Gần như sững sờ, kinh ngạc, họ nhìn hình thù nằm dài trên giường, đầu quấn băng lớn, đôi môi xám ngoét trên chiếc cằm nhọn, đôi bàn tay da trắng bệnh như da người chết, ngón tay đang sờ lần trên chiếc mền.

Bác sĩ Kukill cúi đầu. Ông suy nghĩ:" Một người mù... một người tàn tật... một phế nhân mù lòa... Tội nghiệp. Nhưng bà ta đã gặp được chồng, còn trong tình trạng nào thì đối với bà ta không đáng kể! Ồng quay đi ra, chậm rãi, kéo lê từng bước, lưng gù xuống....

Ông chẳng còn gì để tìm kiếm ở nơi này. Tất hy vọng của ông đã tan biến vĩnh viễn. Ông đã thấy ánh mắt của Julia nhìn người nằm trên giường và đã cảm thấy hết sức rõ ràng rằng mình là một người thừa,

Deutschmann lập lại: "Ai đó"? Lần nầy, giọng anh run run lo ngại.

- "Em đây... em đây... (Julia vừa nói vừa bám vào khung cửa)... Em... Julia đây, anh Einst".

Đến lượt Bác sĩ Wissek cũng đi ra. Ông khép cửa thật khẽ và đứng sau cửa lắng nghe cho tới khi ông thấy tiếng bước chân chạy nhanh về phía giường. Ông mỉm cười...

Cuộc đời hai người đó rồi sẽ ra sao? Cuộc thử thách có quá sức của họ không? Liệu họ có đủ sức bền bỉ để chịu đựng và chiến thắng được những cảnh ghê gớm khủng khiếp của hiện tại, từng giờ, từng phút? Và cả những nỗi khủng khiếp của dĩ vãng?... Tương lai đòi hỏi họ phải có những hy sinh vĩ đại, nhất là riêng phần Julia! Vậy mà...

Họ vẫn sống. Cuộc sống phải chăng là điều quan trọng nhất trên trái đất này? Tình yêu liệu có thể vượt được mọi trở ngại không? Kể cả những trở ngại có vẻ như không bao giờ vượt nổi?

Có thể có với điều kiện tình yêu đó phải đủ mức cao cả, nồng nhiệt để sẵn sàng cho đi hết, cho đi hoài mà khi nhận lại dù là nhỏ nhặt hết sức cũng coi như

nhận được một ân huệ. Với điều kiện đó, tình yêu có thể vượt được hết.

Và Bác sĩ Wissek, trước khi đi ra, đã nhìn thấy đôi mắt Julia rực rỡ một tình yêu như vậy.

❉❉❉

Vào một buổi sáng mùa đông ảm đạm, Đại úy Barth đến bệnh Orcha và lại gần giường của Thượng sĩ Krull. Trên tay, ông cầm một chiếc hộp giấy cứng nhỏ đựng Chiến Công Bội Tinh đệ nhất và đệ nhị hạng cùng một bằng tuyên dương mới gửi tới Tiểu Đoàn còn để trắng nhưng đêm qua đã được điền tên viên Thượng sĩ nhất. Một Thiếu úy vừa mới ra trường, người phụ tá mới của Đại úy Barth, rụt rè đứng sau Tiểu Đoàn Trưởng, nhìn Thượng-sĩ Krull với vẻ thán phục. Thượng sĩ hôm nay mặc chiếc áo ngoài bảnh nhất và ngồi ngay ngắn trên giường.

Nhiều khuôn mặt xanh xao, yếu đuối, nghiêm trang hay tươi cười từ các giường khác theo dõi diễn tiến.

Đại-úy nói bằng giọng hình như pha chút tránh móc:

- "Ông là người sống sót cuối cùng của Đại đội 2..."

Nhưng Thượng sĩ Krull không lưu ý. Đôi mắt ông như dán chặt vào chiếc hộp giấy. Ông nhìn tất cả như qua một màng mây hồng và từ đó tiếng nói của Đại-úy Barth vẳng tới rất xa xôi.

Chiến Công Bội-Tinh!

Đại-úy nói tiếp:

- "Chiến Công Bội-Tinh đệ nhất hạng ân thưởng cho Đại-Đội 2 trong cuộc tham chiến cuối cùng và tôi trao lại cho ông.Thượng sĩ cho tôi rõ, làm sao ông có thể làm nổi được? "

Thượng sĩ Krull lắp bắp:

- "Cái chi?... Cái chi, thưa Đại-úy? "

- "À phải, tôi muốn hỏi làm thế nào mà ông có thể trở về được".

Từ cuối phòng có tiếng hỏi:

- "Nhưng ông ấy có đi không đã chứ? "

Một vài thương binh cười khúc khích.

Thượng sĩ Krull đáp:

- "Thưa Đại úy, tôi gặp may. Tôi... (ông ta cố tìm một chữ thích hợp)... tôi chỉ làm bổn phận và tôi đã trở về sau khi hoàn tất nhiệm vụ. Thưa Đại Úy, thực không dễ dàng gì, bọn Nga đã phải.. ".

Đại Úy Barth ngắt lởi ông bằng một cử chỉ nóng nảy. Thượng sĩ Krull làm ông chán ngán, ông nhìn chiếc huy chương rồi lại nhìn chiếc áo ngoài của viên Thượng sĩ chỉ mang duy nhất có một huy hiệu huấn luyện viên thể dục. Rồi ông nói:

- "Vậy tôi trao cho ông Chiến Công Bội Tinh đệ nhất và đệ nhị hạng... (ông cầm chiếc huy chương gài lên áo Thượng sĩ)... để tưởng thưởng về hành động dũng cảm trước quân thù và cũng vì ông là người sống sót duy nhất của đại đội 2...

Vẫn cúi xuống Krull, ông nói thong thả với vẻ châm biếm rõ rệt:

- "Thế là ông thành một vị anh hùng! "

Rồi ông ngửng phắt dậy, không lưu ý đến đám thương binh yên lặng nhìn ông, ông nói với viên Thiếu-úy đang ngạc nhiên vì cảnh vừa qua:

- "Anh cố liên lạc với căn cứ tiếp vận ở Posen. Yêu cầu họ gửi binh sĩ cho mình thành lập Đại- đội 2. Cái đó không thiếu được... ".......