Chương II
dịch giả: bảo sơn
Chương II
ùa xuân lần lần tới. Lòng tôi đã hết ưu phiền và sinh ra nhớ nhung mơ mộng, đầy ao ước và hy vọng. Tôi trông nom em Xuyến, chơi đàn, đọc sách, tuy tôi không sống như trong hồi mùa đông nữa, nhưng thường khi tôi thích ở một mình trong vườn, đi thơ thẩn hay ngồi rất lâu trên một cái ghế và có Trời biết tôi nghĩ gì, ao ước hay hy vọng cái gì. Có những khi suốt đêm trường, nhất là những đêm sáng trăng, tôi ngồi tựa cửa sổ cho đến sáng, hay tôi trốn Dì Cát ra vườn, mặc phong phanh có một cái áo; tôi chạy ở trên cỏ ướt đẫm sương ra tận ao, và có lần tôi ra giữa cánh đồng, một mình đi vòng quanh vườn.
Bây giờ tôi khó lòng mà nhớ lại và hiểu được những giấc mơ nó đã nuôi trí tưởng tượng của tôi. Ngay nếu tôi có nhớ lại được, tôi cũng không thể tin rằng tôi đã có thể mơ mộng đến thế; thực là lạ lùng và không thể có thực được.
Đúng như Sách đã hứa, vào khoảng cuối tháng Năm thì Sách trở lại.
Sách đến lần thứ nhất vào một buổi chiều, trong lúc chúng tôi không ngờ Sách đến. Chúng tôi vừa kéo nhau ra sân sắp sửa uống nước trà. Vườn đã xanh dờn, chim họa mi đã kéo nhau đến làm tổ. Những cây xoan rườm rà lấm tấm đầy hoa trắng và tím. Hoa đương hàm tiếu. Lá non của những cây dương liễu hai bên đường, hiện ra trong suốt dưới ánh hoàng hôn. Bóng cây che mát rợp cả sân. Sương chiều đã sắp xuống. Từ sân sau vườn vang lại những tiếng xôn xao của ngày tàn lẫn tiếng chân trâu bò ở ngoài đồng về. Anh Nịch xách một thùng nước ra trước sân, đặt trên một lối đi nhỏ và lấy thùng tưới, tưới những tia nước lạnh vào những chỗ đất mới xới lên ở những gốc thược dược vẽ thành những hình tròn và đen đen. Trên cái bàn kê ở sân trải một cái khăn trắng tinh, một ấm nước sôi bằng đồng bóng loáng đặt giữa những bình kem và hộp bánh. Dì Cát thì rửa chén, hai bàn tay Dì trông thực mũm mĩm. Còn tôi vừa tắm xong đói bụng, không kịp đợi nước trà, vớ ngay một mẩu bánh ăn ngấu nghiến. Trên đầu tóc còn ướt, tôi buộc một cái “mùi soa”, và mình mặc một cái áo vải cụt tay. Dì Cát trông thấy Sách trước tiên, qua một cái cửa sổ ngỏ, Dì kêu lên:
- A! Ông Sách. Chúng tôi đương nhắc đến ông.
Tôi đứng dậy định đi thay áo, nhưng vừa đi tới cửa thì Sách đã vào đến sân. Thấy đầu tôi buộc khăn, Sách cười nói:
- Ở nhà quê mà kiểu cách à?
Ngay lúc ấy, tôi thấy Sách nhìn tôi lạ lắm, tôi đâm ra luống cuống. Tôi vừa đi vừa nói:
- Cháu sẽ ra ngay.
Sách kêu lên:
- Cháu cứ mặc cái áo ấy thì đã sao? Trông rõ là một cô gái nhà quê!
Tôi vừa vội vàng thay áo vừa nghĩ: “Sách nhìn mình lạ quá. Nhưng thôi, cám ơn Thượng Đế, Sách đã ở đây rồi, không còn lo buồn gì nữa!”. Tôi soi nhanh vào gương một cái rồi xuống thang, vừa chạy vừa thở; tôi trở ra sân hấp ta hấp tấp không còn giấu diếm nữa. Sách đương ngồi ở trước bàn nói chuyện về công việc với Dì Cát. Thấy tôi, Sách cười nhưng vẫn không ngừng câu chuyện. Theo Sách thì công việc của chúng tôi khá lắm. Chúng tôi chỉ phải ở nhà quê hết mùa hè thôi, rồi có thể đi Bắc-tơ-bua, [1] cho em Xuyến học hay đi ngoại quốc cũng được.
Dì Cát nói:
- Giá ông có thể cùng đi ra ngoại quốc với chúng tôi. Chúng tôi thân cô thế cô, chẳng khác gì lạc vào rừng cả.
Sách nửa đùa nửa thực đáp:
- A! Nếu được đi vòng quanh thế giới với Dì Cát và các cháu thì còn gì thú bằng.
Tôi reo lên:
- Phải đấy, chúng mình đi vòng quanh thế giới đi.
Sách lắc đầu:
- Thế còn mẹ chú?... Còn công việc? Thôi không được đâu, cháu hãy kể cho chú nghe cháu đã làm những gì thì hơn, cháu có còn buồn nữa không?
Nghe tôi kể trong khi vắng Sách, tôi đã làm việc và không buồn nữa lại thêm. Dì Cát cũng công nhận như vậy, Sách nhìn tôi và khen ngọi tôi như đối với một đứa trẻ con, và như là Sách có quyền làm thế! Tôi thấy tôi cần kể lại tỉ mỉ và hết sức thành thực, tất cả công việc tôi đã làm và nhìn nhận những điều có thể làm thất ý Sách, y như là thú tội vậy. Buổi chiều hôm ấy đẹp quá đến nỗi dùng xong trà rồi chúng tôi vẫn cứ ngồi ở ngoài sân, và câu chuyện đối với tôi có vẻ thú quá đến nỗi tôi không để ý đến sự yên lặng mỗi lúc một nặng nề ở chung quanh chúng tôi. Hương hoa thơm ngát hơn, và sương chiều long lanh trên ngọn cỏ; từ một bụi xoan ngay gần chỗ chúng tôi, một con họa mi cất tiếng hót, nhưng nghe tiếng chúng tôi nói nó lại im ngay; trời đầy sao hình như hạ thấp xuống gần chúng tôi.
Tôi không nhận biết là đã đêm rồi, cho mãi tới khi có một con dơi lặng lẽ lạc vào dưới cái bạt che sân và bay xung quanh cái khăn tay trắng của tôi. Tôi đứng áp vào tường định kêu, nhưng nó đã lẳng lặng bay vụt đi biến vào trong bóng tối ngoài vườn.
Sách bỗng nói:
- Tôi thích quê đây quá. Tôi có thể ngồi ở cái sân này suốt đời được.
Dì Cát nói:
- Thì ông cứ ngồi đi, nhưng cuộc đời có “ngồi” cho đâu.
Dì Cát hỏi:
- Sao ông chưa lấy vợ? Chắc ông sẽ là một người chồng hoàn toàn.
Sách cười đáp:
- Vì tôi thích “ngồi”. Không Dì Cát ạ, dì và tôi, chẳng ai còn lấy chồng lấy vợ gì nữa. Đã lâu lắm người ta cứ giục tôi lấy vợ, nhưng tôi đã khước từ lâu rồi, và hơn nữa, tôi dám nói rằng như thế này dễ chịu lắm.
Tôi thấy hình như Sách cố làm ra vui vẻ. Dì Cát lại nói:
- Thôi đi! Mới băm sáu tuổi đã chán đời rồi sao?
- Chứ sao nữa! Tôi chỉ thích “ngồi” thôi. Muốn lấy vợ thì phải khác kia. Này, Dì thử hỏi Mai một tí xem (Sách ra hiệu chỉ tôi). Đấy mới là khách muốn tung cầu. Còn chúng mình, chúng mình thì chỉ có quyền lấy hạnh phúc của cô ấy làm vui thôi.
Nghe giọng Sách nói, tôi thấy ẩn một nỗi buồn, một cái gì ngang ngạnh không tránh khỏi mắt tôi. Sách ngồi lặng một lúc. Cả Dì Cát và tôi không ai nói gì hết.
Sách ngồi xoay đi xoay lại trên ghế, nói tiếp:
- Này nhé, dì tưởng tượng xem, nếu vì một sự lầm lẫn kỳ dị, tôi lấy một người con gái mười bảy tuổi, tỷ dụ... như cháu Mai chẳng hạn. Thực là một cái tỷ dụ rất hay, không ngờ tôi lại tìm ra được... thực không còn gì bằng.
Tôi bật cười lên, không hiểu vì sao Sách đắc ý đến thế...
Sách làm ra vẻ đùa với tôi:
- Thế nào? Nói thực đi, nếu cháu là một người đầy nhựa sống như thế mà lấy phải một người chồng già, chán đời chỉ thích “ngồi” thôi thì cháu có khổ không?
Tôi thấy ngượng, im lặng không biết đáp ra sao.
Sách lại cười nói thêm:
- Không phải là chú ngỏ lời cầu hôn với cháu đâu nhé, nhưng cháu nói thực đi xem nào, có phải những khi cháu đi thơ thẩn một mình ở trong vườn, chẳng bao giờ cháu lại mơ tưởng đến một người chồng như chú có phải không? Thực là một điều bất hạnh cho cháu...
Tôi nói:
- Không phải là một điều bất hạnh...
Tôi chưa nói hết câu, thì Sách nói tiếp:
- Mà cũng không phải là một điều hạnh phúc.
- Cháu có thể lầm...
Sách lại ngắt lời tôi:
- Dì Cát có thấy không? Mai nói thực chí lý, tôi rất ưa lời nói thành thực như thế và tôi rất vui lòng về câu chuyện này. Tôi nói xa hơn một chút nữa là nếu như vậy thì đối với chính tôi cũng là một điều đại bất hạnh!
Dì Cát đi vào trong nhà để bảo đầy tớ dọn cơm chiều.
Dì đi khỏi, chúng tôi không nói một lời nào nữa, và xung quanh chúng tôi cảnh vật yên lặng quá sức, chỉ có một mình con họa mi cất tiếng hót ung dung, êm ả chứ không có đứt đoạn ngập ngừng, như chiều hôm trước nữa; giọng nó vang ra ngoài đồng và từ khe suối xa xa có tiếng một con khác đáp lại. Con đậu gần chúng tôi im đi một lúc, có ý để nghe cho rõ hơn, rồi lại cất tiếng hót hào hứng hơn. Tiếng chim vang lên hết sức êm đềm trong cái thế giới ban đêm của chúng nhưng xa lạ đối với chúng tôi. Một anh làm vườn đi về qua, tiếng chân nặng nề của anh ta mất dần trên con đường nhỏ ở dưới gò, có ai rít lên hai tiếng còi thế rồi mọi vật lại lặng yên. Một tiếng lá rì rào thoảng qua. Vài tiếng gió đập vào cái bạt che sân nghe phựt phựt; một mùi hương ngát từ đâu bay lại quyện ở trong sân. Ngồi im lặng không nói gì sau khi nghe những lời của Sách, tôi thấy ngượng, nhưng tôi không biết làm thế nào để phá tan được sự yên lặng ấy. Tôi nhìn Sách. Trong bóng tranh tối tranh sáng đôi mắt long lanh của Sách chăm chú nhìn tôi; Sách nói:
- Đời đáng sống lắm!
Tôi chẳng hiểu sao cả, thở dài một cái. Sách hỏi:
- Sao thế?
Tôi nhắc lại:
- Đời đáng sống lắm!
Rồi chúng tôi im bặt, và tôi lại thấy bối rối. Tôi nghĩ ân hận mãi về câu tôi lỡ lời nói Sách đối với tôi hơi già; tôi chắc đã làm Sách buồn và muốn tìm câu an ủi, nhưng tôi không biết nói gì cả.
Sách đứng dậy nói:
- Thôi; đến giờ rồi, chú về đây. Chắc mẹ chú đang chờ cơm. Suốt ngày hôm nay chú chưa gặp mẹ chú đấy.
- Nhưng cháu muốn đánh một bản đờn mới để chú nghe.
Sách lạnh lùng đáp:
- Để lần khác.
- Lạy chú ạ.
Không bao giờ tôi lại thấy tôi làm buồn lòng Sách hơn bây giờ, tôi hối hận quá. Tôi với Dì Cát tiễn Sách ra đến cửa thềm, và chúng tôi đứng ở ngoài sân một lúc lâu nhìn theo con đường Sách đi. Khi không nghe thấy tiếng chân ngựa của Sách nữa, tôi quay về chỗ cũ đứng nhìn ra cánh đồng; trong làn sương mờ những tiếng động ban đêm đều ngừng cả lại, tôi vẫn còn trông thấy, nghe thấy mãi những cái tôi muốn trông và muốn nghe.
Sách trở lại một lần thứ hai, rồi lại một lần thứ ba nữa, và cái ngượng ngùng vì câu chuyện lạ lùng bữa trước mất hẳn đi, không ai nghĩ tới nữa. Suốt mùa hè, mỗi tuần Sách đến thăm chúng tôi hai lần; và tôi thành ra quen lệ đến nỗi lâu lâu Sách không tới thì tôi thấy khó chịu và giận Sách để tôi lẻ loi. Sách cư xử với tôi như một người bạn trẻ thân mật, hỏi han tôi, thành ra tôi đối với Sách rất thành thực; Sách khuyên bảo tôi, khuyến khích tôi, hoặc có khi rầy la tôi, có khi bảo cho tôi biết giữ gìn ý tứ. Mặc dầu Sách cố hết sức tự hạ thấp mình xuống ngang hàng với tôi, tôi cũng đoán thấy ở Sach có cả một thế giới mà Sách không muốn cho tôi biết tới; chắc Sách cho là giá tôi có biết tới cũng chẳng có có ích gì, như vậy thành ra tôi lại càng tôn kính Sách, và càng thấy mến Sách hơn. Nghe Dì Cát và một vài người láng giềng nói, tôi biết rằng ngoài bà mẹ cùng ở với Sách, và Sách phụng dưỡng rất ân cần châu đáo ra, ngoài những công việc riêng của Sách và công việc đỡ đầu chúng tôi ra, Sách còn giữ cả việc quản trị quý tộc hàng hạt và gặp rất nhiều vấn đề khó khăn, nhưng quan niệm của Sách đối với vấn đề ấy thế nào, lòng tin tưởng hay những kế hoạch của Sách ra làm sao thì không bao giờ tôi có thể hiểu biết được. Mỗi khi tôi đả động đến công việc của Sách, thì Sách lại bĩu môi ra, Sách có cái lối bĩu môi riêng như có ý bảo tôi: “Tôi xin cô, có cái gì đâu mà xem kia chứ!” rồi Sách nói lảng sang chuyện khác. Lúc đầu tôi thấy phật ý, nhưng về sau cũng quen đi; tôi thấy tự nhiên chỉ nên nói đến những việc có liên quan đến tôi thôi.
Lại còn một điều này nữa, lúc đầu tôi thấy khó chịu, nhưng rồi sau lại thấy thích, là đối với sắc đẹp của tôi, Sách hoàn toàn thờ ơ có ý khinh khỉnh nữa. Chẳng có bao giờ Sách để ý ngắm hay tỏ một lời khen ngợi tôi cả; trái lại, thấy ai khen tôi đẹp lại còn bĩu môi cười. Sách lại hay thích vạch những cái xấu của tôi ra để trêu chọc nữa. Nhũng quần áo trang sức đúng thời trang của tôi mà nhân một dịp nào đó Dì Cát thích cho tôi đeo mặc đều bị Sách chế riễu, khiến Dì buồn, mà tôi cũng ngơ ngác không biết tại sao Sách lại thế. Riêng phần Dì Cát thì dì đã chắc chắn rằng tôi rất vừa ý Sách, thế mà Dì cùng chịu không hiểu được tại sao mà người ta lại không thích thấy người đàn bà mình yêu khéo trang sức. Về phần tôi, thì tôi đoán ngay được ý Sách. Sách không muốn tôi làm dáng một chút nào. Và từ đấy tôi bỏ hẳn cái tính ấy; dù là ở quần áo, mũ nón, hay cử chỉ của tôi cũng không còn một vết tích làm đỏm nào nữa; nhưng thật ra tôi vẫn làm dáng, song làm dáng một cách giản dị kín đáo hơn; cũng tại lúc bấy giờ tôi chưa tập được tính giản dị hẳn. Tôi biết rằng Sách yêu tôi, - lúc ấy tôi cũng chưa tự hỏi xem Sách yêu tôi như một đứa trẻ con hay như một người lớn - tôi thích lắm, cảm thấy Sách coi tôi là một thiếu nữ nhất đời; tôi chỉ ước ao có một điều, là cái ảo tưởng ấy được bền mãi mãi, rồi vô tình tôi lừa dối Sách. Nhưng vì lừa dối Sách mà tôi hóa ra tốt hơn lên, khá hơn lên. Tôi nhận thấy tôi phô những cái hay cái đẹp về tinh thần của tôi ra với Sách thì có giá trị hơn là phô ra những cái hay cái đẹp về hình thức. Tóc tôi, tay tôi, mặt tôi ngay đến những thói quen của tôi, hay hay dở, hình như Sách đã nhận biết và đánh giá ngay từ buổi đầu kia rồi, tôi có thêm bớt gì vào cái bộ tịch bề ngoài của tôi thì cũng chỉ là giả dối mà thôi. Còn như tâm hồn tôi thì Sách không biết rõ, và Sách yêu tâm hồn đó, vì độ ấy nó mới cởi mở ra, vậy tôi có thể đánh lừa được Sách và tôi không bỏ lỡ dịp. Sau khi tôi đã hiểu Sách rồi thì sự giao thiệp giữa chúng tôi dễ dàng quá! Những cái ngượng nghịu vô lý, những cử chỉ bối rối của tôi đều biến đi hết. Tôi biết rằng Sách có nhìn tôi thẳng hay nghiêng, ngồi hay đứng, tóc vấn lên hay bỏ xõa xuống, Sách đều biết rõ rồi, dù dáng dấp của tôi có thế nào đi nữa Sách cũng vẫn ưa thích như thường. Tôi tin rằng cho dẫu Sách tự nhiên có trái tính đi khen tôi có khuôn mặt đẹp, tôi cũng sẽ không thấy thích. Trái lại tôi không để đâu cho hết vui nếu tôi nói được điều gì mà Sách nhìn tôi và khen bằng giọng cảm động mà Sách cố làm ra vẻ khôi hài:
- Ừ, ừ, có thế chứ... cháu là một thiếu nữ hoàn toàn lắm, chú nói để cho cháu biết vậy.
Tôi nhận lấy những phần thưởng ấy của Sách và tôi thấy trong lòng tràn ngập vui sướng và kiêu hãnh. Tôi lấy làm ngạc nhiên thấy mình có cái linh tính lạ lùng đoán biết cái gì là hay, cái gì nên thích. Thực ra, từ trước tôi hoàn toàn không biết thế nào là hay là đáng chú trọng cả. Phần nhiều những sở thích hay thói quen cũ của tôi, Sách không ưa và Sách chỉ khẽ cau mày, đưa mắt hay bĩu môi một cái tỏ ý không tán thảnh điều tôi sắp nói, là đủ để cho tôi hết thích những cái trước kia tôi rất thích. Có khi có những điều Sách chưa nói kịp ra mà hình như tôi hiểu biết Sách định nói gì rồi. Nếu Sách có hỏi tôi câu gì và nhìn vào mắt tôi thì hình như cái nhìn ấy sẽ gợi cho tôi câu trả lời đúng với ý Sách. Thành thử mọi ý kiến, mọi cảm tình của tôi không còn hẳn là của tôi nữa, mà là những ý kiến, những cảm tình của Sách, nó thâm nhập vào cuộc đời của tôi và soi sáng cho cuộc đời của tôi. Thành thử tự tôi, tôi cũng không biết, tôi đâm ra nhận định mọi việc theo một lối khác, dù là về Dì Cát, người nhà, em Xuyến, hay về chính tôi và các công việc riêng của tôi. Những sách vở trước tôi đọc để giải trí cho đỡ buồn, bỗng thành ra những nguồn vui nhất cho tôi cũng chỉ vì chúng tôi đã trao đổi với nhau mọt vài ý kiến về sách vở, chúng tôi đã chung nhau đọc, hay Sách đã đem lại cho tôi coi. Trước kia dạy em Xuyến học là một việc khó chịu vì bổn phận mà tôi phải làm; nhưng có một lần Sách ngồi xem và để ý đến trình độ học của Xuyến, thế là từ đấy tôi coi nó là một việc vui thích. Tôi không thể nào học thuộc được một bản đờn, nhưng thấy Sách để ý nghe và có khi khen tôi thế là tôi tập, có khi đánh đi đánh lại một quãng đến ba bốn mươi lượt mà không biết chán, khiến Dì Cát phải lấy bông đút nút lỗ tai lại; cũng vẫn những bản đàn cũ nhưng bây giờ có một âm hưởng khác hẳn, tôi chơi cũng khác đi, hay hơn trước nhiều. Ngay chính Dì Cát mà tôi đã hiểu, và đã yêu như là yêu chính bản thân tôi, bây giờ đối với tôi cũng đổi khác hẳn trước. Mãi đến lúc đó tôi mới hiểu rằng không cái sức chi bó buộc dì phải nhận lấy cái trách nhiệm làm mẹ, làm bạn, làm tôi tớ chúng tôi cả. Tôi hiểu hết những sự hy sinh, và lòng tận tâm của người đàn bà đáng mến ấy, tôi hiểu hết những ân tình của dì đối với tôi; tôi càng yêu Dì hơn. Chính Sách đã luôn luôn dạy tôi biết cư xử một cách khác với người nhà, người làng và kẻ hầu người hạ của chúng tôi. Nói ra thì cũng buồn cười, tôi sống giữa những người ấy, đến nay tôi đã mười bảy tuổi đầu rồi mà tôi đối với họ xa lạ hơn là đối với những người tôi chưa từng gặp bao giờ; tôi chưa hề có lần nào nghĩ rằng những người ấy cũng biết thương yêu, ham muốn hay đau khổ như tôi. Đồng cỏ, rừng cây, ruộng nương của chúng tôi, tôi đã quen biết từ bao lâu, đối với tôi hình như cũng mới mẻ, huy hoàng. Sách có nói một câu không phải là vô bổ, Sách quả quyết rằng ở trên đời chỉ có mỗi một điều làm cho người ta sung sướng, là sống vì người khác. Câu nói ấy lúc bấy giờ tôi thấy lạ lùng lắm, tôi không hiểu gì cả; nhưng tôi chẳng nghĩ gì đến, thế mà nó cứ thâm nhập dần vào tâm tôi. Sách mở cho tôi thấy cả một thế giới vui vẻ ở ngay hiện tại, mà không thay đổi cuộc đời tôi, không thêm gì vào cảm giác tôi, hay có thêm chăng nữa thì chỉ thêm có mình Sách. Từ thuở bé, mọi vật ở xung quanh tôi hình như cânm không biết nói; thế mà Sách chỉ hiện ra một cái là đủ để cho những vật ấy trở nên hùng hồn, gợi cho tâm hồn tôi muôn ngàn cảm giác chứa chan hạnh phúc.
Trong mùa hè ấy, tôi hay lên tận buồng tôi nằm dài ở trèn giường và đáng lẽ có nhưng nỗi lo âu của tuổi trẻ, những ước mơ, những hy vọng về tương lai, thì tôi chỉ thấy tôi thắc mắc về hạnh phúc hiện tại. Tôi không ngủ được, tôi phải chỗi dậy, ra ngồi ở cạnh Dì Cát và nói với dì rằng tôi là một người hoàn toàn sung sướng; bây giờ là tôi mới biết nói ra như vậy là vô ích, dì đã biết thừa đi rồi. Nhưng dì bảo tôi rằng dì cũng không mong gì hơn. Dì cũng rất sung sướng và dì ôm lấy tôi hôn. Tôi tin lời Dì Cát lắm, tôi thấy tất cả mọi người cần phải được sung sướng, có như thế mới công bình. Nhưng Dì Cát cần phải ngủ, và có khi dì vờ giận dữ, đuổi tôi ra khỏi giường ngủ của dì rồi nhắm mắt ngủ liền; còn tôi thì thao thức mãi để nghĩ xem tại sao tôi lại sung sướng. Một đôi khi tôi dậy để cầu kinh, ứng khẩu đọc lên lời cầu nguyện, để cám ơn Thượng Đế đã ban cho tôi tất cả những hạnh phúc ấy.
Ở trong buồng, mọi vật đều im lặng, trừ có hơi thở bình tĩnh của Dì Cát và tiếng tích tắc của một cái đồng hồ nhỏ; tôi quay lại, lẩm nhẩm lễ tạ rồi làm dấu hoặc hôn cái chữ thập tôi đeo ở cổ. Các cửa đều đóng kín, chỉ có tiếng vo ve của một con ruồi hay một con muỗi nào đó. Và tôi thì ước ao không bao giờ phải rời khỏi buồng; tôi mong rằng không bao giờ trời sáng, để khỏi tan mất cái không khí đang bao bọc xung quanh tôi. Tôi thấy hình như những giấc mơ của tôi, những tư tưởng, những lời cầu nguyện của tôi đều là những sinh vật bay lượn xung quanh giường tôi, hay đứng ở bên cạnh tôi. Và mỗi tư tưởng của tôi là một ý nghĩ về Sách, mỗi cảm giác của tôi là một tình cảm thuộc về Sách. Ấy thế mà tôi vẫn còn chưa biết đấy là ái tình, tôi tưởng rằng cái tình trạng ấy có thể bền mãi mãi và cái cảm giác ấy là tự nhiên mà có.
Chú thích:
[1] Petersbourg.
Đánh máy: casau
Nguồn: VNthuquan.net- Thư viện Online
Được bạn: Ct.Ly đưa lên
vào ngày: 5 tháng 12 năm 2014