← Quay lại trang sách

Chương III

dịch giả: bảo sơn

Chương III

ột buổi trưa về mùa gặt, Dì Cát, em Xuyến và tôi ra ngồi ở vườn, trên cái chỗ chúng tôi thích nhất, dưới bóng cây tỳ lan, trên bờ suối trông ra rừng và cánh đồng. Đã ba bốn hôm, không thấy Sách đến và trưa hôm ấy chúng tôi có ý chờ vì anh quản lý nói rằng Sách có hẹn đến thăm đồng. Vào khoảng hai giờ, chúng tôi thấy Sách cưỡi ngựa ở ngoài đồng lại. Dì Cát bảo người nhà đem anh đào ra, vì Sách thích ăn lắm. Dì nhìn tôi mỉm cười rồi ngả lưng xuống ghế thiu thiu ngủ. Tôi bẻ một cành tỳ lan, nước ở lá và vỏ cây làm ướt tay tôi; tôi vừa đọc sách vừa quạt cho Dì Cát, thỉnh thoảng lại liếc mắt trông lên con đường Sách sắp sửa đi qua. Dưới một gốc cây cổ thụ em Xuyến đương lúi húi dựng một giàn cây cho búp bê. Trời thì nóng, không khí im lìm khó thở, mây đen dầy đặc, từ sáng muốn có cơn bão. Cũng như mọi khi, tôi lại bị khích động trước cơn bão. Lúc buổi trưa, mây đã bắt đầu tan dần ở chân trời, mặt trời lại ló ra; từ xa xa có tiếng sấm vang lại và nhiều làn chớp nhạt lằng nhằng lóe lên ở trên một đám mây nặng, im lìm ở chân trời, lẫn lộn bụi mù ở đồng ruộng bốc lên. Chắc chắn là ngày hôm ấy không có bão nữa. Trong qua vườn, trên từng quãng đường luôn luôn có xe bò, cái thì đi ngược chậm chạp, kêu cút kít và chất đầy lúa, cái thì đi xuôi, trống rỗng lúc lắc, những người nhà quê ngồi trên xe bị xóc, chân rung động, tà áo bay phất phới. Một lớp bụi dầy đóng lại ở đằng sau hàng rào, trong đám lá non. Xa hơn nữa, về phía những vựa lúa cũng nỗi lên cùng một thứ tiếng động ấy, cùng một thứ tiếng bánh xe kêu cút kít ấy, lại cũng những lượm lúa vàng ấy thong thả tiến theo rẻo hàng rào, trông tựa như những ngôi nhà hình bầu dục, mái nhọn cao vút, có những người nhà quê đương trèo lên làm việc ở trên. Trước mặt, trên cánh đồng bụi bậm, cũng có xe bò đi, cũng có những lượm lúa vàng, những tiếng bánh xe kêu, những tiếng nói và giọng hát xa xa. Quá về bên phải, ở phía dưới, trên một cánh đồng cỏ đã cắt, nổi lên những chiếc áo màu rực rỡ của những cô gái bó cỏ cúi lom khom, cử động hai cánh tay, và cánh đồng cỏ trông có vẻ gọn gàng trong lúc những đống cỏ chất lên mỗi lúc một cao và một nhiều thêm. Thực y như là mùa hạ đã biến thành mùa thu ở ngay trước mắt tôi. Khắp mọi nơi đều nóng bức và bụi bậm, trừ có mỗi chỗ chúng tôi ngồi. Trong cái hơi nóng và đám bụi ấy, dưới ánh mặt trời thiêu đốt, đám dân cần lao vẫn hoạt động, nói chuyện, làm ồn ào rầm rĩ.

Dì Cát mặt phủ chiếc mùi xoa trắng khe khẽ ngáy, ngủ ngon lành trên tấm ghế dưới bóng cây râm mát; những trái anh đào chín mọng đỏ chói trên chiếc đĩa; quần áo chúng tôi màu tươi mát và sạch sẽ; nước trong bình long lanh ánh mặt trời và tôi cảm thấy sung sướng! Tôi nghĩ thầm: “Biết làm sao đây? Nếu mình sung sướng thì mình có lỗi ở chỗ nào? Mà làm thế nào chia xẻ được nỗi sung sướng của mình? Chia cho ai, đem cho ai cả cái thân mình với cái hạnh phúc của mình đây?”

Mặt trời đã lặn sau những ngọn dương liễu, bụi bay khắp cảnh đồng, cảnh vật ở đằng xa trông rõ hơn trong ánh mặt trời chiều xiên ngang: mây đã tan hết; ở về phía những vựa lúa, trông qua khóm lá cây đã thấy ngọn của ba đống rạ mới và một bọn nhà quê đương leo xuống; các xe bò còn phải chở thêm một lần cuối cùng nữa; bọn đàn bà cào vác vai, lạt giắt lưng, vừa đi về vừa ca hát vang lừng, nhưng Sách vẫn chưa tới, tuy tôi đã thấy Sách ở trên gò đi xuống từ lâu. Bỗng bóng Sách hiện lên trên lối đi, từ một phía tôi không ngờ tới; thì ra Sách đã đi vòng quanh suối đến mà tôi không biết. Sách hấp tấp bước lại gần tôi, mặt vui vẻ, mũ cầm tay. Thấy Dì Cát ngủ, Sách hơi cắn môi, nhắm mắt lại và đi rón rén trên đầu ngón chân; tôi nhận ngay thấy Sách đương vui một cách vô lý, tôi rất thích cái tính ấy của Sách mà chúng tôi kêu là “say cuồng”. Sách y như một đứa học trò thoát khỏi một lớp học; toàn thân Sách, từ đầu đến chân, lộ ra vẻ sung sướng, hăng hái của tuổi trẻ. Sách đến gần bắt tay tôi, khẽ nói:

- Thế nào? “Bông hoa tím” của chú có mạnh không?

Đáp lại cái chào của tôi, Sách lại tiếp luôn:

- Ồ thích quá! Hôm nay chú mười ba tuổi, chú muốn chơi nhảy lò cò.

Tôi như bị lây cái “say cuồng” của Sách, tôi nhìn vào đôi mắt tươi cười của Sách, nói:

- Chú bị say cuồng, phải không?

Sách nháy một mắt, và giữ một nụ cười, đáp:

- Vâng, nhưng sao lại cứ đập vào mũi Dì Cát thế kia?

Tôi không biết là trong lúc nói chuyện tôi vẫn cầm cành cây khua lên vào cả mặt Dì Cát, làm rơi cả chiếc mùi soa của Dì Cát xuống đất.

Tôi bật cười lên.

- Ấy thế mà chốc nữa lại bảo không ngủ được cho mà xem.

Tôi nói khe khẽ như có ý không muốn làm dì thức dậy, nhưng thực ra có phải thế đầu; tôi chỉ thích nói thầm với Sách thôi.

Sách mấp máy môi nhại tôi như người nói khẽ quá không ai nghe thấy nói gì. Rồi, trông thấy đĩa anh đào, Sách vội vồ lấy, xong chạy ra chỗ em Xuyến nghịch vờ ngồi lên búp bê của nó. Xuyến sắp sửa cáu, thì Sách đổi ngay điệu bộ vui vẻ và bịa ra một trò chơi là thi xem hai người ai ăn được nhiều anh đào nhất một lúc.

Tôi bảo Sách:

- Chú có muốn cháu bảo người lấy thêm anh đào ra không? Hay ta đi lấy lấy?

Sách cầm cái đĩa, bày mấy con búp bê lên trên, rồi cả ba chúng tôi cùng ra nơi vườn cây ăn quả. Em Xuyến vui cười chạy theo sau chúng tôi, nắm lấy vạt áo của Sách đòi búp bê. Sách phải trả lại rồi quay nhìn tôi, vẻ mặt nghiêm trang vẫn nói khe khẽ, mặc dầu chẳng sợ làm mất giấc ngủ của ai cả:

- Cháu thật là bông hoa tím; sau cả một ngày nóng bức bụi bặm mệt nhọc như hôm nay, chú cứ đến gần cháu là y như ngửi thấy hương thơm của hoa tím; nhưng không phải của thứ hoa tím thơm ngát mà là của thứ hoa tím đầu mùa nở trong lúc tuyết vừa tan và cỏ xuân vừa chớm mọc.

Tôi lảng sang chuyện khác để giấu sự thẹn thùng sung sướng vì những lời nói của Sách:

- Thế nào, công việc đó có chạy theo ý muốn của chú không?

- Chạy lắm! Dân quê ở chỗ nào cũng tốt. Mình càng hiểu họ bao nhiêu, càng mến họ bấy nhiêu.

- Vâng, lúc nãy cháu ngồi trong vườn nhìn ra xem họ làm việc, đột nhiên cháu thấy xấu hổ, thấy họ vất vả, mà cháu thì sung sưởng quá, đến đỗi...

Sách ngắt lời tôi, vừa nhìn tôi một cách nghiêm trang và hiền hậu:

- Thôi cháu bỏ cái lối kiểu cách ấy đi.

- Chỉ có chú thì cháu mới nói chứ...

- Vâng, vâng, chú biết. Nhưng này! Anh đào đâu?

Cửa vườn thì khóa, mà chẳng thấy bóng một người làm vườn nào, vì Sách đã sai họ ra đồng làm tất cả. Xuyến chạy đi tìm chìa khóa, nhưng Sách không đợi Xuyến, trèo lên một góc tường rồi nhảy vào.

Sách gọi tôi:

- Cháu đưa cho chú cái đĩa.

- Không, cháu muốn hái lấy kia. Cháu đi lấy chìa khóa đã, chắc Xuyến không tìm được đâu...

Nhưng ngay lúc ấy tôi muốn xem Sách làm gì ở trong ấy, tưởng không có ai rình thì Sách nhìn ra làm sao, cử động ra làm sao.

Phải, tôi không muốn rời Sách một phút nào cả. Tôi nhón chân chạy vòng ra đàng kia vườn và đến một chỗ tường thấp nhất, tôi trèo lên một cái thùng, thành thử tường chỉ thấp đến ngực tôi; tôi cúi xuống, đưa mắt nhìn một lượt cái vườn đầy những cây cổ thụ gốc xoắn lại, lá lớn và có răng cưa chĩa ra những quả tươi mọng, nặng trĩu. Cúi thấp xuống chút nữa, tôi thấy Sách ở dưới cánh một cây anh đào già. Chắc Sách nghĩ rằng tôi đã đi khỏi, và không ai nhìn thấy mình. Sách đã bỏ mũ rồi, nhắm mắt lại, ngồi trên một thân cây mới bị hạ, và tẩn mẩn lấy nhựa anh đào vê thành một viên tròn. Bỗng Sách nhún vai, mở mắt ra, cười và nói một câu gì. Lời nói và cái cười khác hẳn lúc thường khiến tôi thấy xấu hổ đã rình mò như vậy. Tôi thấy hình như Sách gọi: “Em Mai”. Tôi cho là vô lý, thì Sách lại nhắc lại, khẽ hơn và âu yếm hơn: “Em Mai yêu quý”. Lần này thì tôi nghe rõ ràng cả bốn tiếng. Tim tôi đập đổ hồi, lòng tôi rộn ràng vui sướng đến nỗi tôi phải víu chặt hai tay vào tường cho khỏi ngã và bị lộ. Nhưng Sách đã thấy động, nhìn lên thấy tôi, bỗng cúi xuống hổ thẹn như một đứa trẻ con. Sách muốn nói gì với tôi, như không nói được, và càng đỏ mặt thêm.

Nhưng khi thoạt trông thấy tôi, Sách đã cười. Tôi cũng vậy. Vẻ vui mừng hiện ra mặt. Sách không còn là một ông chú già hiền hậu và hay khuyên bảo cháu nữa, nhưng là một người ngang hàng với tôi, một người yêu tôi và sợ tôi, mà tôi cũng sợ và cũng yêu. Chúng tôi nhìn nhau không nói. Nhưng Sách bỗng cau mày lại, nụ cười và ánh mắt biến đi, và nói với tôi bằng một giọng lạnh lùng, bề trên, y như là chúng tôi đương làm một điều gì không tốt, mà Sách chợt nhận ra và khuyên cả tôi đừng làm thế:

- Cháu đi xuống đi, không có ngã bây giờ đấy. Và vuốt tóc lại cho gọn đi. Trông hay chưa!

Tôi bực mình nghĩ thầm: “Tại sao lại phải vờ vĩnh như thế? Tại sao Sách lại xúc phạm đến mình?”. Đồng thời, tôi không thể ngăn giữ được ý định làm cho Sách mắc cỡ thêm, và thí nghiệm xem thế lực của tôi đối vời Sách ra sao. Tôi nói:

- Không. Cháu muốn tự hái lấy anh đào mà.

Rồi tôi víu hai tay vào một cành cây gần, nhảy lên tường. Sách không kịp đỡ tôi thì tôi đã nhảy vào bên trong vườn rồi.

- Cháu liều thực. Có khi thì khốn đấy. Rồi làm sao mà ra khỏi đây?

Sách nói xong rồi lại đỏ mặt lên và làm bộ tức giận để che giấu sự bối rối đi, nhưng thành ra lại bối rối hơn; tuy vậy ngay lúc bấy giờ tôi cũng chẳng thấy thích gì cả; trái lại tôi lại thấy sợ nữa, và tôi cũng đâm ra ngượng, tôi đỏ mặt lên, không biết nói gì thêm, tôi xoay ra hái anh đào, nhưng lại chẳng có cái gì để đựng cả. Tôi thành ra bực mình, đâm hối và lo sợ, nghĩ thầm chắc từ nay Sách chẳng còn coi tôi ra gì nữa. Chúng tôi hình như bị tắc họng chẳng ai nói gì cả. Đương lúc khó chịu ấy thì vừa may em Xuyến đã tìm được chìa khóa mang đến. Tuy vậy một lúc lâu về sau chúng tôi cũng vẫn còn ngượng không nói chuyện thẳng với nhau, mà chỉ nói với em Xuyến thôi. Mãi khi trở lại gặp Dì Cát, dì cam đoan rằng dì không ngủ mà cũng nghe không sót một tiếng nào, lúc bấy giờ tôi mới bình tĩnh lại; còn Sách thì cố lấy lại cái giọng bề trên che chở chúng tôi, nhưng không được và cũng không đánh lừa được tôi nữa. Tôi nhớ lại một câu chuyện chúng tôi mới nói với nhau mấy hôm trước.

Dì Cát cho rằng bao giờ người đàn ông cũng yêu và ngỏ tình ra với người yêu dễ hơn người đàn bà. Dì nói:

- Người đàn ông có thể thú thực rằng mình yêu, chứ người đàn bà thì không dám.

Sách trả lời:

- Theo tôi thì có lẽ người đàn ông không nên mà cũng lại không thể thú thật tình yêu của mình.

Tôi hỏi:

- Thưa sao vậy?

- Vì chỉ là giả dối mà thôi. Yêu! Ghê chưa? Làm như tình yêu ấy chỉ hơi ngỏ ra một chút là có một cái gì bật tung ra: băng! Chàng kia yêu. Làm như một lời đã nói ra, thì thế nào cũng xảy ra một việc gì, những điềm, những triệu, một loạt súng đại bác nổ. Tôi thấy những người nói ra miệng câu: “Anh yêu em” là những ngườũ tự lừa dối mình, hay là tệ hơn nữa, lừa gạt những người khác.

Dì Cát hỏi:

- Nếu người ta không nói ra thì người đàn bà làm thế nào mà biết được là người ta yêu mình?

- Tôi không biết. Mỗi người, mỗi vật có một tiếng nói riêng của người ấy, vật ấy. Nếu họ có tình, họ tất biết diễn đạt tình yêu của họ. Khi tôi đọc tiểu thuyết, bao giờ tôi cũng tưởng tượng thấy cái vẻ mặt bối rối của các nhân vật khi họ nói: “Anh yêu em!” và họ tưởng sẽ xảy ra những việc tày trời; nhưng ở chàng hay ở nàng cũng vậy, chẳng có gì là lạ cả; cặp mắt, cái mũi hay cái gì khác vẫn thế, không thay đổi gì cả.

Lúc ấy tôi nhận ngay thấy trong cái hóm hỉnh ấy có ý nói bóng gió tôi, nhưng Dì Cát không chịu rằng người ta lại có thể phê bình các nhân vật tiểu thuyết một cách nông nổi như vậy. Dì nói:

- Bao giờ ông cũng chỉ lập dị. Thôi, ông thú thực đi, đã lần nào ông nói với một người đàn bà là ông yêu người ta chưa?

Sách vừa cười vừa đáp:

- Chẳng bao giờ cả, mà cũng chưa bao giờ tôi quỳ một gối xuống đất cả. Tôi lại nói thêm rằng tôi sẽ không bao giờ nói câu ấy cả.

Hôm nay nhớ lại câu chuyện ấy, tôi nghĩ thầm: “Ừ phải. Sách chẳng cần phải nói với ta là Sách yêu ta. Ta biết Sách yêu ta, và Sách có làm ra vô tình đi chăng nữa, cũng không giấu nổi ta”.

Suốt buổi chiều hôm ấy, Sách ít nói với tôi, nhưng trong mỗi cử chỉ, mỗi cái nhìn của Sách, tôi đều nhận thấy tình yêu của Sách đối với tôi, và tôi không còn nghi ngờ điều gì nữa. Tôi bối rối và bực mình vì Sách còn cứ muốn giấu và làm ra bộ lạnh lùng mãi. Tôi cứ nghĩ đến việc táo bạo vừa xảy ra mà áy náy, y như một người phạm tội vậy. Tôi thấy hình như Sách không còn kính nể tôi nữa và Sách giận tôi.

Sau khi dùng trà rồi, tôi lại bên chiếc dương cầm. Sách đi theo tôi, khi theo kịp bước tôi, Sách nói:

- Cháu đánh đàn đi, đã lâu lắm rồi chú không được nghe đấy.

Tôi nhìn thẳng vào mắt Sách đáp:

- Cháu cũng định thế... chú Sách ạ! Chú hết giận rồi chứ?

- Sao chú lại giận?

Tôi thẹn đỏ mặt lên nói:

- Vì ban nãy cháu không nghe lời chú.

Sách hiểu, lắc đầu và cười. Sách nhìn như muốn nói đáng lẽ ra Sách mắng tôi kia, nhưng lại không đủ can đảm.

Tôi vừa ngồi vào đàn vừa nói:

- Thôi hết giận rồi nhé.

- Hết rồi.

Trong phòng khách trần cao, chỉ có hai ngọn nến thắp trên chiếc dương cầm còn cả phòng đều mờ tối. Ánh trăng trong chiếu qua cửa sổ. Mọi vật đều yên lặng; thỉnh thoảng mới có tiếng chân Dì Cát bước nhè nhẹ, và con ngựa dậm chân cồm cộp. Sách ngồi ở đằng sau khiến tôi không trông được thấy, nhưng khắp mọi nơi, trong bóng tranh sáng tranh tối của chiếc phòng, trong tiếng đàn, trong chính mình tôi, đâu đâu tôi cũng thấy Sách. Tôi không trông thấy, nhưng mỗi cái nhìn, mỗi cử động của Sách đều có dư âm trong lòng tôi. Tôi chơi bản đờn của Mozart mà Sách đã đem đến cho tôi, mà tôi đã cố tập để rồi đánh cho Sách nghe.

Tôi không để ý chơi ra làm sao, nhưng hình như hay và Sách lấy làm thích lắm. Chắc Sách hài lòng lắm, và không cần phải nhìn Sách, tôi cũng biết Sách nhìn tôi ra làm sao. Tự nhiên, vô tình tôi vừa đánh đàn, vừa quay lại nhìn Sách. Đầu Sách nổi bật hẳn lên nền trời sáng lợt. Sách ngồi chống hai tay vào trán, mắt long lanh nhìn tôi. Bốn mắt gặp nhau, tôi mỉm cười và ngừng tay đờn. Sách cũng cười, rồi lắc đầu ra vẻ trách tôi, tay chỉ vào bản đờn, ý bảo tôi chơi tiếp nữa đi. Khi tôi chơi xong, thì trăng đã lên cao và ngoài cái ánh sáng yếu ớt của hai ngọn nến lại thêm một nguồn ánh bạc chiếu vào trong phòng soi xuống sàn ván. Dì Cát quả quyết bảo rằng tôi đương chơi đến chỗ hay nhất mà ngưng lại thì chẳng ra nghĩa lý gì và tôi chơi xoàng lắm; nhưng Sách, trái lại, cho là tôi từ trước chưa từng hôm nào chơi hay như hôm ấy; Sách đi đi lại lại suốt các phòng, hết phòng khách lớn đến phòng khách nhỏ, rồi lại quay trở lại; mỗi lần lại liếc nhìn tôi và cười. Tôi cũng cười, mà lại muốn phá lên cười nữa, không hiểu tại sao, việc xảy ra đã làm cho tôi vui sướng không cùng. Khi Sách đi khuất, tôi ôm chầm lấy Dì Cát, hôn lấy hôn để vào cổ, vào cằm; khi Sách quay lại, tôi lại làm điệu nghiêm trang, và cố giữ cho khỏi bật lên cười.

Dì Cát hỏi:

- Hôm nay cô ấy có chuyện gì thế không biết?

Nhưng Sách không đáp, và cứ nhìn tôi cười hoài. Sách đã biết tôi có chuyện gì rồi.

Sách bỗng đứng dừng lại ở trong phòng khách nhỏ, trước mặt cái cửa sổ ngỏ trông ra vườn và nói:

- Này coi đêm đẹp quá chừng!

Chúng tôi theo sang; đêm quả đẹp thực, tôi chưa từng thấy thế bao giờ. Trăng ở giữa trời nhưng hơi ngả về phía sau nhà một chút, thành thử chúng tôi không trông thấy; một nửa bóng mái nhà, cột và mái hiên in chênh chếch và thu ngắn lại trên mặt cỏ và lối đi trải cát. Ngoài ra mọi vật đều tắm trong ánh trăng và trong làn sương bạc. Giữa những bụi hoa, một con đường nhỏ trắng xóa và lạnh lẽo chạy dài ẩn vào trong đám sương mù xa tít. Mái vườn kính nổi bật sáng lên giữa những cây cao lớn, và từ dưới con đường trũng bốc lên một làn hơi nhẹ. Hoa đều ướt đẫm sương và có thể phân biệt rõ được từng bông một. Trên các lối đi, bóng tối trộn lẫn với ánh sáng, ánh sáng trộn lẫn với bóng tối, thành ra không trông rõ mọi vật, mà chỉ thấy những vòm cây mơ hồ như những nhà cửa trong suốt, rung rung động động. Ở bên phải, dưới bóng nhà tối om mọi vật đều đen ngòm, lạnh lẽo, trông rợn cả người: nhưng ngọn cây bạch dương thì nhô ra khỏi bóng tối ấy, nhiễm một vẻ kỳ ảo rõ ràng, nó đứng yên kia, không động đậy ở ngay bên cạnh nhà, dãi dưới ánh trăng, thế mà hình như nó có thể bay bổng lên tận bầu trời xanh bao la bát ngát.

Tôi nói:

- Chúng ta đi dạo quanh một chút đi.

Dì Cát nhận lời, nhưng muốn bắt tôi phải đi giày cao su. Tôi bảo:

- Không cần, dì ạ tôi sẽ vịn vào tay chú Sách.

Làm y như vịn thế thì chân tôi khỏi ướt! Ấy thế mà cả ba người đều cho là có lý, chẳng có gì kỳ cục cả. Từ trước chưa bao giờ Sách đưa tay cho tôi vịn, thế mà chiều hôm ấy chính tôi tự khoác tay Sách, và chẳng thấy gì là lạ lùng. Tất cả vũ trụ, bầu trời, nội cỏ, và ngay cả không khí chiều hôm ấy cũng không còn giống như mọi khi nữa.

Khi tôi nhìn con đường chạy trước mặt, tôi có cái cảm tưởng như ở đấy người ta không thể tiến bước được nữa, và hình như cái thế giới hữu hình này đến đấy là hết. Nhưng chúng tôi vẫn tiến lên được và bức tường huyền diệu ấy mở ra, đón tiếp chúng tôi; hình như chúng tôi lại thấy vườn tược cây cối, những đường lối và những lá khô rụng của chúng tôi. Quả vậy chúng tôi đương đi trên một lối nhỏ, dẫm lên những vòng bóng lá lẫn vòng bóng trăng, dưới bước chân của chúng tôi lá cây khô kêu sào xạc, một cành lá mát đập vào mặt tôi. Mà rõ ràng là Sách đương bước đi đều đều ở bên cạnh tôi, tay chàng ân cần nâng đỡ tay tôi, rõ ràng là Dì Cát đương đi gần chúng tôi, đế giày khẽ kêu ken két; và đúng là mặt trăng ở trên rọi sáng xuống chúng tôi qua những cành cây yên lặng...

Nhưng chúng tôi cứ bước đi một bước thì bức tường huyền diệu lại khép lại một bước ở đằng trước và đằng sau chúng tôi, khiến tôi tưởng như không thể bước thêm được nữa, và không có thể tin mọi sự đều có thể có thực được.

Dì Cát bỗng kêu lên:

- Trời ơi! Con nhái!

Tôi nghĩ thầm: “Tiếng ai nói thế nhỉ? Và sao lại thế nhỉ?”. Nhưng tôi hiểu ngay là Dì Cát, dì vốn sợ nhái, và tôi nhìn xuống mặt đất. Một con nhái con nhảy ra ngồi im đằng trước tôi; bóng nó in rõ hẳn lên trên nền đất thó ở lối đi.

Sách nói:

- Còn cháu, cháu không sợ à?

Tôi quay lại nhìn Sách. Chỗ ấy không có cây nên tôi trông rõ mặt Sách. Sách có vẻ đẹp và sung sướng lắm...

Sách nói: “Còn cháu, cháu không sợ à?” thế mà tôi nghe như là: “Em ơi! Anh yêu em lắm!... Anh yêu em lắm!”. Cái nhìn của Sách cũng nói thế; cánh tay Sách, ánh trăng và bóng tối, và không khí tất cả đều nhắc lại những lời âu yếm ấy.

Chúng tôi đi vòng quanh vườn. Dì Cát cùng đi bước một với chúng tôi, và thở mệt. Dì bảo khuya rồi nên đi về đi thôi, và tôi thấy thương dì quá: “Tại sao người khác không trẻ trung và sung sướng như hai chúng tôi?”.

Chúng tôi trở về nhà; Sách còn ngồi lại rất khuya, tuy gà đã bắt đầu gáy, tất cả mọi người ở trong nhà đã ngủ cả rồi, và con ngựa của Sách mỗi lúc một dậm chân nhiều lên bờ cỏ và thở phì phì dưới cửa sổ. Dì Cát cũng không nhắc chúng tôi rằng đêm đã khuya, và chúng tôi cứ ngồi như thế nói những chuyện vơ vẩn chẳng ra đâu vào đâu, cho đến quá hai giờ sáng mà không biết. Khi Sách về rồi, thì gà đã bắt đầu gáy canh ba, và trời đã rạng sáng. Sách từ biệt chúng tôi như mọi khi, không nói gì khác cả; nhưng tôi biết rằng từ hôm ấy, Sách là của tôi, không còn trốn đi đâu được nữa... Khi tôi đã tự thú với mình là tôi yêu Sách rồi, thì tôi kể tất cả cho Dì Cát nghe. Dì Cát sung sướng và cảm động vì lòng tin cậy của tôi, và đem hôm ấy dì ngủ được, còn tôi thì cứ đi đi lại lại mãi rất lâu ở ngoài sân thượng, xuống vườn, và khắp các đường chúng tôi vừa dạo qua với Sách, nhớ lại từng câu nói, từng cử chỉ của Sách. Suốt đêm, tôi không nhắm mắt; lần đầu tiên trong đời tôi, tôi được xem mặt trời mọc, tôi được thấy buổi bình minh. Và từ đấy, không bao giờ tôi còn được thấy một đêm như đêm hôm ấy, một buổi sớm mai nào như buổi sớm mai ấy nữa. Tôi nghĩ thầm: “Có một điều là tại làm sao mà Sách không muốn nói rõ ra rằng Sách yêu tôi? Tại sao Sách lại vẽ ra những chuyện lôi thôi rắc rối, tự cho mình là già, chứ việc thực là giản dị, thực là hay, là đẹp? Tại sao Sách lại bỏ phí thời giờ quý báu có lẽ không bao giờ còn trở lại nữa? Sách chỉ cần thú nhận rằng Sách yêu, Sách nói ra miệng, Sách chỉ cần cầm lấy tay tôi, Sách tựa đầu lên trên, nói với tôi: Anh yêu em. Sách chỉ cần đỏ mặt lên và cúi nhìn xuống, thế là đủ để cho tôi kể ra hết nỗi lòng tôi đối với Sách. Nhưng, nếu tôi lầm? Nếu Sách không yêu tôi?” Tôi thoáng nghĩ như vậy.

Tôi sợ tình yêu của tôi, chỉ có Trời biết nó sẽ dẫn tôi tới đâu, tôi nhớ lại lúc cả hai đứa chúng tôi cùng mắc cở ngượng ngùng khi tôi nhảy qua tường vào trong vườn mà tôi não lòng. Nước mắt tôi dưng lên, tôi liền quỳ xuống cầu nguyện. Tôi lại thấy có hy vọng và được an ủi. Tôi quyết định sửa soạn lễ ban thánh thể của tôi, ăn sinh nhật tôi vào ngày hôm chịu lễ ấy, và làm vị hôn thê Sách cũng luôn một ngày hôm ấy.

Nhưng làm thế nào? Tại làm sao thế? Tôi thực không rõ, nhưng bắt đầu từ phút ấy, tôi tin tưởng, tôi biết chắc chắn rằng công việc sẽ như vậy. Khi tôi về phòng thì trời đã sàng rõ và mọi người đã dậy rồi.

Đánh máy: casau
Nguồn: VNthuquan.net- Thư viện Online
Được bạn: Ct.Ly đưa lên
vào ngày: 5 tháng 12 năm 2014