← Quay lại trang sách

Sebastopol, tháng Năm năm 1855 (2)

dịch giả: hoàng hải thủy

Sebastopol, tháng Năm năm 1855 (2)

ương tử Galtzine càng đi càng gặp nhiều thương binh nằm trên cáng, nhiều người lính khác dìu nhau đi hoặc kéo lê chân trên đường, những người sau này vừa đi vừa chửi thề. Những người lính lành lặn nói chuyện oang oang:

- Lúc chúng nó chạy lên tuyến tôi... Bọn tôi đốn ngã một loạt những thẳng chạy trước - Người lính cao lớn mang những hai khẩu súng trường trên vai nói bằng một giọng vừa trầm vừa ấm - Chúng nó chạy xô vào nhau... Rồi chúng nó nhào xuống tuyến tôi. Giết hết lượt này lượt khác kéo đến. Mình không thể làm gì được. Chúng nó đông quá - chúng nó quá đông...

Galtzine ngắt lời người đang nói:

- Chú ở trên chiến hào về đây ư?

Người lính dừng lại:

- Thưa vâng.

- Có chuyện gì xảy ra trên ấy? Kể cho tôi nghe...

- Có chuyện này xảy ra, thưa ông... chúng nó tấn công quân ta, chúng nó xô nhau trèo lên chiến lũy ta... và chúng nó chiếm mất khá nhiều chiến hào của ta...

- Sao? Khá nhiều là thế nào? Tôi nghe nói quân ta đã đánh bật được chúng ra khỏi chiến lũy rồi mà?

- Dạ. Có như thế. Quân ta chiếm lại được rồi nhưng trong đợt chúng tấn công sang, quân ta chết nhiều lắm. Đó mới là điều đáng kể...

Người lính đó tuy can đảm nhưng anh đã lầm, không có chiến hào nào hoàn loàn bị địch quân kiểm soát nhưng tất cả những người lính bị thương trên chiến trường đều nghĩ rằng chiến trường mà mình vừa rời bỏ đã bị địch chiếm và quân mình thiệt hại thật nhiều.

Bằng giọng nói như để an ủi, khuyến khích người lính, Galtzine nói tiếp:

- Tôi được tin là quân ta đã chiếm lại được hết tất cả những chiến hào, có thể là chuyện này xảy ra sau khi chú rời nơi đó chăng? Chú ra khỏi mặt trận lâu chưa?

- Thưa... tôi vừa về tới đây. Chiến hào do Đại đội của tôi giữ chắc vẫn còn trong tay chúng. Chúng đông hơn.

- Chú không thấy hổ thẹn ư? Bỏ chiến hào mà đi như thế? Quá lắm.

Galtzine kêu lên, xúc động và bất mãn vì thái dộ gần như dửng dưng của người lính.

- Chúng mạnh hơn, chúng tôi làm chi được?

Một người lính nằm trên chiếc cáng đi ngang nói xen vào:

- Không bỏ cũng chẳng còn giữ được... khi chúng đã giết hết bọn tôi. Nếu chúng tôi còn chiến đấu được, đời nào chúng tôi chịu bỏ. Nhưng chết với bị thương cả rồi thì đành. Tôi vừa đâm lưỡi lê vào một thằng chưa kịp rút ra thằng khác đã đâm tôi. Ối... nhẹ tay dùm chút anh em. Đi chậm dùm chút. Cám ơn anh em.

- Đứng lại - Galtzine nói lớn với người lính mang hai khẩu súng trường trên vai - Các chú bỏ chiến hào về nhiều quá. Sao các chú không trở lại đó? Hả?

Người lính đứng lại theo lời Galtzine, anh dùng tay trái đưa lên bỏ mũ xuống khi Galtzine đến gần.

- Chú định đi đâu đây? - Galtzine hỏi bằng một giọng nghiêm khắc - Ai cho phép chú?

Đến gần người lính, Galtzine mới nhìn thấy cánh tay phải của anh đẫm máu.

- Tôi bị thương mà ông! - Người lính nói.

- Bị thương? Ở đâu?

- Tôi bị bắn vào cánh tay? Ở cả đầu nữa.

Người lính cúi xuống cho Galtzine nhìn thấy vết thương chảy máu làm cho tóc anh dính bết lại trên đầu.

- Súng này của ai? Sao chú có hai súng?

- Súng này của tôi, khẩu Carbin này của tên lính Pháp chết dưới chân tôi. Thưa ông, tuy bị thương nhưng tôi cũng chẳng rời chiến hào nếu tôi không được lệnh phải đưa anh bạn kia về Quân Y Viện. Anh ấy bị thương, đi không vững, sợ ảnh ngã ở dọc đường...

Người lính giơ tay trái chỉ về phía một người lính khác đang đứng rũ trên khẩu súng chống xuống đất như cây gậy ở cách anh vài bước. Người lính đó trông như cái xác chết đứng.

Galtzine, hổ thẹn vì sự nghi ngờ bậy bạ của mình, đột ngột bỏ đi. Ông đi ngang người lính nhỏ bé đứng dựa trên cây súng nhưng không nhìn, cũng không hỏi gì người này, rảo bước đi về Quân Y Viện. Ông len lỏi qua những người lính bị thương nằm ngồi ngổn ngang trên cửa vào Quân Y Viện, né sang bên để tránh những người lính khiêng người bị thương vào và khiêng người chết ra. Nhưng chỉ cần thò đau nhìn vào căn phòng thứ nhất của Quân Y Viện, Galtzine đã lùi ngay lại và hấp tấp đi như chạy ra đường. Cảnh tượng ông nhìn thay trong đó kinh khủng quá!

VII

Căn phòng rộng, cao, nhiều bóng tối, được soi sáng bởi những năm, sáu cây nến, nơi những y sĩ đi qua, đi lại xem xét những vết thương, gần như đầy nghẹt những người. Những người lính khiêng cáng vẫn tiếp tục đưa thêm những thương binh mới tới. Họ đặt thương binh nằm thành hàng ngay trên sàn. Thương binh nhiều đến nỗi họ phải nằm sát vào nhau, người này nằm trong máu của người kia. Từng đống cao bông, băng đẫm máu nằm trên lối đi. Từ hơi thở của nhiều trăm người tụ lại trong phòng, từ mồ hôi của những người khiêng cáng, tụ lại một làn hơi dầy, nặng, hôi hám, làn hơi làm mờ ánh sáng của những ngọn nến. Những tiếng rên, tiếng thở dài, tiếng giãy chết bị ngắt quãng bởi những tiếng rú. Những Dì Phước, với những khuôn mạt hiền từ không biểu lộ sự xót thương vô ích của đàn bà mà là biểu lộ một sự chú ý, tận tâm, giúp đỡ hữu hiệu, lướt đi như bay giữa những xác người đẫm máu, mang tới cho các y sĩ bông, băng, thuốc, kìm, kẹp. Nhiều Dì Phước ngồi đè lên những thương binh để giữ cho họ khỏi giẫy giụa. Những y sĩ, tay áo sắn cao, quỳ gối cạnh những thương binh, dùng tay vạch xem vết thương bất kể tiếng kêu đau thê thảm và tiếng van xin của những người lính xấu số. Ngồi sau cái bàn nhỏ kê ở bên cửa ra vào, một viên hạ sĩ liền tay ghi những con số người bị thương được mang đến. Trong sổ ghi, con số đã lên tới 532.

- Ivan Bogoief, binh nhì, Đai đội Ba, Tiểu đoàn C - Một y sĩ vừa xem vết thương của một thương binh vừa la lớn cho viên hã sĩ ghi vào sổ - Gãy xương ống chân. Lật hắn nằm sấp coi...

- Ối.. Ối... Chết tôi... Xin các ông nhẹ tay... - Người thương binh bị lật nằm sấp xuống ú ớ kêu không thành tiếng.

- Thủng ngực. Simon Neferdoff, Trung tá... Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn N - Một y sĩ khác nói lớn, sau đó ông hạ giọng - Trung tá chịu khó chờ một chút. Tôi đi lo chỗ nằm cho Trung tá ngay...

Neferdoff nghiến răng chịu đau. Ông chỉ nói:

- Lẹ lên dùm...

- Thủng ngực. Sebastian Serada, Binh nhì. Tiểu đoàn nào đây? Hả? Thôi, khỏi ghi. Chết rồi. Đem hắn ra...

Vừa nói, người y sĩ vừa rời xác người thương binh với đôi mắt đã trợn ngược, trắng dã.

Có tới bốn, năm mươi người khiêng cáng đứng chờ ngoài cửa. Họ khiêng những thương binh, sau khi được băng bó, vào nằm trong những căn nhà quanh đó. Những người chết được họ khiêng tới nhà thờ. Họ đứng chờ trong im lặng, thỉnh thoảng lại có người thốt ra một tiếng thở dài ảo não.

VIII

Kalouguine, trên đường lên Pháo đài, gặp nhiều thương binh đi ngược đường. Theo kinh nghiệm, chàng biết rằng cảnh tượng này làm tổn hại nhiều đến tinh thần của kẻ đi lên mặt trận, nên chàng tránh không dừng lại hỏi chuyện họ. Và chàng cũng tránh để ý đến họ. Tuy vậy, chàng vẫn có ý nhìn xem trong số ngưởi đi trở về có ai quen với chàng hay không.

Tới chân đồi, chàng gặp một sĩ quan phi ngựa như bay xuống.

- Zobkine! Zobkine! Cho hỏi chút..

Người sĩ quan ghì cương ngựa:

- Chi vậy?

- Anh ở đâu xuống đấy? - Kalouguine hỏi.

- Pháo đài Năm.

- Trên đó còn dữ không?

- Dữ lắm.

Và người sĩ quan lại thúc ngựa chạy. Giờ đây tiếng súng tlay có vẻ giảm đi, ngược lại, tiếng trọng pháo nổ nhiều hơn trước,

“Hừm. Nguy rồi!” Kalouguine nghĩ thầm. Chảng có cái cảm giác mơ hồ như khó chịu, cái cảm giác chung của những kẻ cảm thấy thần chết lởn vởn trên đầu mình.

Kalouguine là một sĩ quan giàu tự ái nhưng không thiếu can đảm. Tuy nghĩ đến cái chết, chàng cũng không để cho tinh thần chàng rung động vì kinh sợ. Chàng tự làm tinh thần chàng vững lại bằng cách nghĩ tới câu chuyện về viên sĩ quan hầu cận của Napoléon. Viên sĩ quan này, sau khi mang lệnh đi, trở về báo cáo công tác hoàn thành với Napoléon, đầu và mặt chàng đầy máu.

- Chú bị thương hả? - Hoàng đế Napoleon hỏi.

- Thưa không - Viên sĩ quan đáp - Thưa ngài... tôi đã chết! - Nói xong, chàng này ngã xuống chân ngựa, chết ngay tại chỗ.

Kalouguine rất thích câu chuyện trên. Chàng tưởng tượng ra chàng là viên sĩ quan hầu cận đó và chàng quất ngựa chạy nhanh hơn lên đồi, người nhô lên cao khỏi yên ngựa và ngoảnh lại nhìn người lính liên lạc cưõi ngựa chạy sau chàng. Chàng phóng ngựa như thế tới chỗ chàng và người lính phải xuống ngựa đi bộ. Tới đây, chàng thấy bốn người lính ngồi trên những tảng đá ven đường, trong số có người hút thuốc.

- Các anh ngồi đây làm chi? - Kalouguine xẵng giọng hỏi.

Một người lính đứng lên, một tay giấu tẩu thuốc ra sau lưng, tay kia đưa lên bỏ mũ xuống đáp:

- Thưa ông, chúng tôi khiêng thương binh về. Chúng tôi ngồi nghỉ.

- Ngồi nghỉ? Làm gì có chuyện nghỉ trong lúc này. Đi trở về chiến hào.

Kalouguine đi đầu, người lính liên lạc và bốn người lính khiêng thương binh trở về tới đó đi theo. Họ đi hàng một theo chiến hào, và họ liên tiếp gặp những người lính bị thương, những người khiêng cáng đi ngược đường. Lên đến đỉnh đồi, Kalouguine rẽ sang phía trái và sau khi đi được vài chục bước, thấy mình cô đơn trong một khoảng hoang vắng gần như hoàn toàn. Một mảnh đạn rít lên gần chàng rồi bay đến cắm vào thành chiến hào, một trái đạn moọt-chê xoay tròn trong không khí như rớt thẳng xuống đầu chàng. Bỗng dưng hoảng sợ, chàng cắm cổ chạy vài bước rồi lao mình nằm sấp xuống. Sau khi trái đạn moọt-chê nổ cách chàng khá xa, chàng bất mãn với chính chàng và vội vàng nhỏm dậy. Chàng nhìn quanh xem có ai nhìn thấy chàng nằm xuống hay không, quanh chàng không có bóng người nào cả.

Chỉ cần để cho sợ hãi xâm chiếm tâm hồn mình một lần là sợ hãi sẽ không chịu buông tha mình nữa. Đó là trường hợp đêm nay của Kalouguine. Chàng là người từng khoe khoang và tự hào là người không bao giờ chịu cúi đầu thấp khi đi trong chiến hào nhưng đêm nay, chàng đi như bò trong lòng chiến hào.

“Hỏng rồi” - Kalouguine nghĩ thầm khi chân chàng trượt trên mặt đất trơn làm đầu gối chàng khụyu xuống - “Đêm nay chắc mình không về được”.

Chàng thở hổn hển và khó khăn, người chàng ướt đẫm mồ hôi và chàng ngạc nhiên khi thấy chàng không làm gì để chế ngự cơn sợ hãi. Bỗng dưng, khi nghe tiếng chân người đi trước mặt, Kalouguine đứng thẳng ngay lên, đầu ngửng cao, bước đi đàng hoàng, vừa đi vừa đánh mạnh tay vào chuôi kiếm. Chàng gặp mftt sĩ quan công binh vh một thúy thủ đi trở lại. Người sĩ quan chỉ tay lên vệt sáng của một trái đạn đang bay đen gần, kêu lớn:

- Nằm xuống...

Trái đạn đánh mạnh vào thành chiến hào. Sau tiếng kêu của người sĩ quan, Kalouguine chỉ hơi cúi đầu xuống nhưng chàng vẫn đi thằng.

- Ông này gan thật - Người thủy thủ nói. Đôi mắt thành thạo của y đã nhận định được rằng trái đạn sẽ không rớt vào giữa chiến hào nên y không nằm xuống như người sĩ quan đi trước. Y nhìn theo bóng Kalouguine và nói tiếp - Ông này coi bộ chết thì chết chứ không chịu nằm đâu.

Để tới cửa vào căn hầm kiên cổ của vị chỉ huy pháo đài, Kalouguine chỉ còn phải đi qua một khoảng đất trống nữa nhưng tới đây, chàng lại cảm thấy cơn sợ ngu ngốc đến làm chân tay chàng bủn rủn. Tim chàng đập mạnh như muốn vỡ tung, máu chàng chạy dồn lên đầu làm chàng choáng váng và mắt chàng hoa lên, chàng phải cố gắng ghế gớm mời chạy được tới cửa hầm.

Sau khi Kalouguine nói xong khẩu lệnh, ông Tướng hỏi chàng:

- Sao Đại úy thở dữ vậy?

- Thưa Thiếu tướng, tôi vừa đi quá nhanh.

- Mời ngồi. Tôi mời Đại úy ly rượu.

Kalouguine ngồi xuống, uống ly rượu và đốt điếu thuốc lá. Trân sáp chiến đã chấm dứt nhưng hai bên vẫn pháo kích nhau dữ dội. Ông Tướng chỉ huy pháo lũy và nhiều sĩ quan dưới quyền tụ tập cả trong hầm này. Trong số các sĩ quan có Praskoukine. Họ đang nói với nhau về những chi tiết của trận sáp chiến vừa qua. Những bức tường căn hầm được dán kín bằng một thứ giấy vẽ hoa nền xanh, trong hầm có một chỗ để cho nhiều người ngồi, một cái giường nhỏ, một cái bàn trên để đầy giấy tờ, bản đồ, trên tường sau bàn treo một chiếc đồng hồ, trên nữa là tượng Đức Mẹ, dưới chân tượng có một ngọn đèn cháy sáng. Ngồi trong căn phòng hẹp nhưng đầy đủ tiện nghi này, Kalonguine nhìn thấy tất cả những dấu hiệu chứng tỏ một cuộc sống êm đềm, yên ổn, chàng dùng mắt đo lường những thanh gỗ lớn, dầy đến cả nửa thước, xếp sát vào nhau trên trần hầm, chàng nghe tiếng nổ của đạn trọng pháo vang tới như nổ ở một nơi nào rất xa và chàng không sao cổ thể hiểu được vì nguyên nhân nào chàng lại sợ hãi quá đáng đến hai lần như thế trong chuyến đi vừa qua. Bất mãn với chính mình, chàng muốn bước ra khỏi đây, đối diện với nguy hiểm để thử thách cao đảm của chàng.

Một sĩ quan Hải quân với bộ ria rậm và huy chương Thánh George gài trên ngực áo bước vào hầm xin một tiểu đội công binh đến sửa ổ súng. Kalouguine đến nói với sĩ quan này:

- Rất may tôi được gặp Đại úy ở đây. Ông Tướng sai tôi tới hỏi Đại úy tình trạng pháo đội của Đại úy ra sao?

Người sĩ quan âu sầu đáp:

- Chỉ còn một khẩu là bắn chính xác.

- Đại úy đưa tôi đến nơi xem sao...

Người sĩ quan nhăn mặt lắc đầu:

- Tôi vừa vất vả cả đêm ở đó, tôi về đây để nghỉ một chút. Đại úy tới đó một mình được không? Trung úy Karlz, người phụ tá của tôi, hiện có mặt ở đó. Ông ấy sẽ chỉ cho Đại úy thấy những gì Đại úy muốn thấy.

Ông Đạí úy này đã chỉ huy pháo đội đó và chiến đấu ở chiến lũy này trong sáu tháng trời dài. Vị trí pháo đài của ông là một vị tri nguy hiểm nhất trọng toàn chiến lũy. Ông có mặt ở đây từ những ngày đầu nơi này bị bao vây, khi những hầm tránh đạn trọng pháo chắc chắn như căn hầm chỉ huy này chưa được tạo thành. Ông nổi tiếng là người can đảm trong mọi trường hợp. Vì vậy, lời từ chối của ông ta làm cho Kalouguine ngạc nhiên.

“Vậy mà cũng được thiên hạ đồn là can đảm. Đúng là những lời đồn đại không thể tin được...” Kalouguine nghĩ thầm, rồi chàng nói lớn:

- Tôi đến đó một mình vậy, nếu Đại úy cho phép...

Chàng nới câu trên bằng giọng mỉa mai kín đáo. Người sĩ quan nhận thấy giọng mỉa mai đó nhưng ông bất chấp.

Kalouguine quên rằng người sĩ quan bị chàng coi thường và mỉa mai, châm biếm đó là người đã sống liền trong sáu tháng trời dài ở chiến lũy này trong khi chàng chỉ thỉnh thoảng mới tới chiến lũy rồi lại về ngay thành phố, tổng số giờ chàng sống thực sự trong chiến lũy chưa quả năm mươi giờ. Tự ái, kiêu căng, ý muốn nổi bật hơn người, hy vọng được ca ngợi, được tưởng thưởng, được nổi tiếng như một người hùng, sự kích thích vì được chạm mặt với nguy hiểm v.v... là những gì vẫn còn kích thích Kalouguine song người sĩ quan pháo đội trưởng này đã chán ngấy. Ông ta đã lạnh lùng, thản nhiên với tất cả những cái đó. Chúng đều trở thành quá quen thuộc với ông. Ông đã thực hiện một cuộc trình diễn tư cách, đã biểu lộ sự can đảm, đã làm những hành động liều lĩnh vô ích, ông đã giỡn chơi với cái chết, đã mong đợi tưởng thưởng và đã được tưởng thưởng. Nói tóm lại, ông đã thành công trong việc tự tạo cho ông cái danh tiếng là người sĩ quan can đảm nhất chiến lũy. Và giờ đây, tất cả những cái đó không còn kích thích nổi ông nữa. Chúng đã mất hết mãnh lực đối với ông. Ông đã nhìn cuộc đời và cuộc chiến đấu này bằng một đôi mắt khác. Ông hiểu rằng không ai có thể có cái may mắn sống được quá sáu tháng trong chiến lũy này nên ông không còn làm những hành động liều lĩnh dại dột và vô ích nữa. Ông chỉ làm đúng, làm đủ những gì bổn phận ông phải làm. Trong khi đó, người Trung úy trẻ tuổi vừa mới đến phục vụ trong pháo đội này được tám ra ngày, trước mắt Kalouguine, tỏ ra can đảm gấp mười lần ông Đại úy Pháo đội trưởng. Kalouguine cũng tỏ ra can đảm không kém gì chàng Trung úy trẻ tuổi này. Hai người thản nhiên đứng ở cửa ổ súng và còn trèo cả lên nóc ụ để đứng nhìn sang chiến lũy địch.

Sau khi tới pháo đài xem xét tận chỗ tình trạng những khẩu pháo ở đây, Kalouguine trở lại hầm chỉ huy. Ở đây, chàng gặp lại ông Tướng trong lúc ông sắp lên đài quan sát cùng với các sĩ quan tham mưu của ông.

- Đại úy Praskoukine! - Ông Tướng ra lệnh - Đại úy đi xuống dãy chiến hào bên phải. Đại úy sẽ gặp ở đó Đại đội 2 của Tiểu đoàn M. Đại úy ra lệnh cho Đại đội đó ngừng ngay công tác và im lặng rút lui về Tiểu đoàn M. trừ bị ở dưới chân đồi. Đại úy hiểu rõ lệnh chưa? Hãy đích thân hướng dẫn Đại đội đó về Tiểu đoàn M.

- Tuân lệnh. - Praskoukine nói lớn và rảo bước đi ngay.

Tiếng nổ của trọng pháo đã giảm dần...

IX

- Phải các anh là binh sĩ Đại đội II Tiểu đoàn M. không? - Praskoukine hỏi những người lính đang vác những bao cát đắp lên bờ chiến hào.

- Thưa phải

- Vị chỉ huy của các anh đâu?

Mikhailoff, đang ngồi trong hầm, nghe rõ mấy câu trao đổi này. Nghĩ rằng có một sĩ quan cao cấp nào vừa mới tới, chàng vội ra khỏi hầm, đến gần Praskoukine và giơ tay chào.

Praskoukine không khận ra người chào là Mikhailoff vì y đang mải liếc nhìn sang chiến tuyến địch:

- Thiếu tướng ra lệnh... Đại đội II phải rút lui lập tức, rút lui trong yên lặng hoàn toàn, về với Tiểu đoàn M. trừ bị ở chân đồi.

Mikhailoff đã nhận được người đến là Praskoukine, chàng buông tay xuống và quay lại ra lệnh cho binh sĩ. Toàn thể binh sĩ của Đại đội lập tức ngừng làm việc, cầm súng và rút đi.

Những người chưa từng bao giờ được hưởng cái cảm giác này không sao có thể hiểu hết được niềm sung sướng của những kẻ, sau ba tiếng đồng hồ chịu đựng pháo kích, được phép rời khỏi mặt trận nguy hiểm. Trong khoảng ba tiếng đồng hồ này, Mikhailoff đã nghĩ đến cái chết quá nhiều và tin rằng thế nào đêm nay mình cũng phải chết - sự thực, chàng tin như vậy cũng không phải là vô lý - nên chàng đã có đủ thời gian để làm quen với tự tin chắc rằng mình sẽ chết, phần nào chàng tự coi như chàng không còn sống nữa vậy. Tuy vậy, khi được lệnh rút lui, chàng vẫn phải cố gắng để chế ngự ý muốn bỏ Đại đội đi sau để một mình chạy tuốt xuống chân đồi. Chàng chỉ đi đầu Đại đội, đi cạnh Praskoukine.

- Au revoir! Bon voyage! [1]

Người sĩ quan chỉ huy Đại đội ở lại giữ chiến hào bên cạnh cất tiếng chào khi đại đội của Mikhailoff đi ngang. Mikhailoff trầm giọng chào lại:

- Chúc các bạn ở lại nhiều may mắn. Đêm nay coi bộ yên rồi.

Nhưng chàng chưa nói dứt lời, quân địch từ chiến lũy bên kia, dường như nhận thấy bên này có sự chuyển quân, nổ súng lớn, súng nhỏ sang ầm ầm. Quân bên này bắn lại và trận pháo kích lại tái diễn sôi nổi. Trời đêm có sao nhưng đêm vẫn tối đen. Những ánh lửa lóe lên từ đầu súng và từ những viên đạn trọng pháo nổ tung soi sáng cảnh vật trong phút chốc. Đám binh sĩ đi nhanh trong im lặng. Nhiều người chen lấn để đi vượt lên những người bạn đồng đội đi trước mình. Trong đêm tối chỉ có tiếng chân người dẫm trên mặt đất rắn, tiếng lưỡi lê chạm vào nhau, tiếng đạn nổ và thỉnh thoảng tiếng thở dài hoặc tiếng kêu khẽ của một người lính nào đó: “Lạy Chúa tôi! Lạy Chúa tôi”.

Đôi khi, một người lính trúng đạn ngã xuống, rên lên và những binh sĩ khiêng cáng được gọi tới. Trong Đại đội do Mikhailoff chỉ huy, đạn trọng pháo đã làm thương vong mất hai mươi sáu người kể từ đêm hôm trước.

Một vầng lửa làm cho chân trời đen xa kia sáng lóe lên, người lính canh dòm qua bờ chiến hào la lớn: “Đại... bác.!” rồi một viên đạn bay rít qua đầu Đại đội cắm sâu vào lòng đất giữa những chiến hào. Tiếng nổ vang tai phát ra, đá và đất bay tung...

“Bọn quỷ này... Sao chúng đi chậm đến thế không biết nữa...?” Praskoukine, đi sát sau chân Mikhailoff nghĩ thầm: “Mình có quyền chạy trước vì mình đến chỉ để ra lệnh cho chúng rút tui, mình có thể còn nhiều việc khác phải làm. Nhưng không, nếu mình chạy, chúng sẽ cho mình là thằng nhát. Bất cứ có chuyện gì xảy ra, mình cũng phải đi cùng với bọn chúng...”

Cùng lúc ấy, Mikhailoff cũng nghĩ:

“Sao thằng cha vô duyên này nó cứ đi theo bén gót mình? Nhiều lần rồi mình nghiệm thấy thằng này tới đâu là mang sui sẻo đến đó. Kìa... Một viên đạn nữa bay tới. Lần này thì nó rớt ngay đầu mình cho mà coi...”

Đi được vài trăm thước nữa, Mikhailoff vẫn đi đầu Đại đội, gặp Kalouguine lừng lững đi lên, vừa đi vừa đập tay lên chuôi kiếm kêu lách cách, ông Tướng chỉ huy chiến lũy sai Kalouguine tới xem xét tình hình tại chỗ của hai chiến hào này, nhưng khi gặp Mikhailoff ở đây, Kalouguine nghĩ rằng mình có thể hỏi Mikhailoff, người vừa ở nơi đó về cũng đủ biết, chẳng nên dại dột lên chỗ nguy hiểm đó làm gì. Mikhailoff nói cho Kalouguine biết tất cả những chi tiết cần biết. Kalouguine đi cùng với Mikhailoff đến đầu chiến hào. Tới đây, chàng quay gót đi trở về hầm chỉ huy.

Trong hầm lúc này chỉ còn có một sĩ quan đang ngồi ăn súp:

- Có gì mới không?

Kalouguine lắc đầu:

- Không có gì. Đêm nay hết chuyện rồi...

- Hết chuyện thế nào được? - Người sĩ quan ngừng ăn để nói với vẻ mặt quan trọng - Còn nhiều chuyện dữ dội hơn nữa là khác. Bây giờ đến lượt mình tấn công trả đũa chúng nó. Thêm một tiểu đoàn quân mình vừa tới. Ông Tướng lên tận tuyến đầu để phát lệnh tấn công, còn là đánh nhau sáng đêm nay. Đó...Thấy không? Tiếng súng tay lại nổ rồi đó. Quân mình đang tràn sang chiến lũy địch. Ê... Ông đi đâu vậy?

Người sĩ quan kêu lên khi thấy Kalouguine dợm chạy ra cửa hầm.

- Ông định lên tuyến đầu đấy à? Ông lên bây giờ vô ích. Muốn dự trận tấn công, ông phải có mặt từ hồi nãy. Hai nữa, trọng pháo địch đang bắn sang, lúc này mà lên đó nguy hiểm lắm ạ...

Kalouguine ngồi lại. Chàng lại nghĩ thầm: “Lẽ ra mình phải có mặt ở đó mới phải.. Nhưng... kể ra đêm nay mình cũng đã xông pha khá đủ rồi còn gì? Súng bắn dữ quá..”

Và chàng nói lớn:

- Ông nói đúng. Tôi ngồi chờ đây vậy.

Hai mươi phút sau, ông Tướng và nhóm sĩ quan tham mưu về đến hăm. Trong số sĩ quan này có Bá tước Pesth nhưng không thấy có Praskoukine. Trận tấn công đã xong. Quân ta đã rút về chiến lũy của mình sau khi đánh sang chiến lũy địch và gây thiệt hại nặng cho quân địch. Sau khi ngồi im chú ý nghe tất cả những chi tiết về trận tấn công Kalouguine ra khỏi hầm cùng với Pesth.

Chú thích:

[1] Bằng tiếng Pháp trong nguyên bản

X

- Áo anh có vết máu. Anh cũng đánh sáp chiến với địch đấy à? - Kalouguine hỏi.

- Ồ... Kinh khủng... Thật là kinh khủng.. Anh hãy tưởng tượng...

Pesth bắt đầu kể chuyện dài dòng, chuyện bắt đầu từ đoạn chàng chỉ huy tiểu đoàn sau khi ông Tiểu đoàn trưởng bị trúng đạn chết, tới đoạn chính tay chàng giết chết một sĩ quan Pháp theo lời chàng kể, nếu không có chàng, trận tấn công vừa qua chắc chắn đã thảm bại. Hai sự kiện căn bản của câu chuyện này là cái chết của ông Tiểu đoàn trưởng cùng cái chết của người binh sĩ Pháp do Pesth giết, là có thật, còn những chi tiết khác đều do Pesth phóng đại ra để tự đề cao.

Pesth phóng đại và tự đề cao nhưng không chủ ý làm như thể. Suối thời gian vừa qua chàng sống trong một màn sương huyễn hoặc cho nên chàng chỉ ghi nhận được những sự kiện xảy ra một cách hết sức mơ hồ. Chàng không ghi nhận được hết sự thực nhưng chàng lại tưởng tượng ra nhiều sự kiện khác, và chàng yên chí rằng những gì chàng tưởng tượng ra cũng đều là sự thực. Chàng không biết rằng đó chỉ là những sự kiện do chàng tưởng tượng.

Sự thực có những sự kiện như sau:

Tiểu đoàn có nhiệm vụ tấn công sang chiến lũy địch đêm nay đã phải nằm chờ suốt hai tiếng đồng hồ trong chiến hào và chịu đựng đan pháo kích của địch. Cho đến lúc địch ngừng pháo kích, ông Tiểu đoàn trưởng ra lệnh và các Đại đội trưởng đưa Đại đội của mình ra khỏi chiến hào, đứng sắp hàng trên khoảng đất trống sửa soạn vượt lũy.

Pesth được lệnh đứng ở cạnh Đại đội II và sẽ đi cùng với Đại đội này. Chàng không hiểu chuyện gì hết và cũng chẳng biết mình sắp phải làm gì. Chàng đứng đó nín thở và cảm thấy trong xương sống mình như có một luồng điện lạnh liên tiếp chạy qua. Chàng nhìn ngay qua khoảng cách đầy bóng tối sang chiến lũy bên kia, chờ đợi một cái gì ghê gớm xảy đến. Lúy ấy, Pesth không hẳn là sợ, vì quân địch đã ngừng bắn. Chàng khó chịu, hồi hộp vì thấy mình phải đứng ở giữa chỗ trống gần với quân địch quá.

Ông Tiểu đoàn trưởng lại nói nhỏ vài tiếng. Lệnh này được những Đại đội trưởng truyền khẽ lại cho nhau. Bỗng nhiên bức tường đen do những binh sĩ của Đại đội I tạo thành đổ xuống. Lệnh nằm xuống vừa được ban. Đại đội II nằm theo. Trong lúc nằm sấp trên mặt đất, Pesth chạm tay vào một vật gì sắc và nhọn. Nhìn lên, chàng chỉ còn thấy bóng dáng ông Đại úy Đại đội trưởng Đại đội II còn đứng, ông này rút kiếm ra cầm tay, đi đi lại lại trước mặt những binh sĩ trong Đại đội do ông chỉ huy.

- Nghe tôi nói đây. Anh em hãy tỏ ra anh em là những chiến sĩ can đảm. Đừng có bắn chúng nó, hãy đâm chúng bằng lưỡi lê. Khi tôi hô “Tiến lên”, anh em hay theo tôi. Chúng ta cùng tiến lên. Chúng ta sẽ cho chúng biết chúng ta tấn công như thế nào. Chúng ta sẽ không làm hổ danh quân đội ta. Vì Nga hoàng, vị cha chung của chúng la, chúng ta chiến đấu thật dũng cảm trong trận này.

Pesth hỏi nhỏ người sĩ quan nằm cạnh chàng:

- Tên ông Đại úy này là gì? Ổng can đảm ghê.

Người sĩ quan khẽ đáp:

- Lần nào xung trận ông cũng vậy. Tên ổng là Lissinkoffsky.

Đúng lúc ấy, một ánh lửa nháng lên rồi tiếp theo là tiếng nổ vang tai, gỗ đá bay tung lên trời. Vài giây đồng hồ sau, một tảng đá lớn rơi từ trên cao xuống đè gãy chân một binh sĩ. Quân địch nã trọng pháo sang trúng ngay vào giữa chỗ Tiểu đoàn xung kích nằm chuẩn bị vượt lũy. Sự kiện này là một bằng chứng cho thấy rằng tuy đêm tôi, quân địch ở chiến lũy bên kia đã nhìn thấy sự chuyển động của tiểu đoàn binh sĩ bên này.

- À... Chúng bây gửi tặng chúng tao đạn trọng pháo. Được lắm, lát nữa chúng tao sẽ cho chúng bay nếm mùi lưỡi lê. Bọn khốn kiếp...

Ông Đại úy chửi lớn đến nỗi ông Tiểu đoàn trưởng phải ra lệnh cho ông im lặng.

Đại đội I đứng lên rồi Đại đội II tiếp theo, những người lính nắm chặt những khẩu súng cắm lưỡi lê trong tay, tiến về bờ tường chiến lũy ngoài cùng.

Pesth, kinh hoàng vì sợ hãi, không còn nhớ rõ là đoàn quân đi như thế xa hay gần, đi mất bao nhiêu phút, chàng đi như người say rượu, đi như người đi trong mơ. Đột nhiên, cả ngàn tia lửa nháng lên bốn phía và từ bốn phía, những viên đạn bắn tới, những đường đạn réo rít quanh chàng. Pesth rú lên một tiếng rồi lao đầu chạy về phía trước mặt, bởi vì quanh chàng, tất cả mọi người đêu kêu rú và đều chạy như thế. Chàng vấp phải một vật gì đó và ngã lên vặt ấy. Vật ấy chính là ông Đại úy Đại đội trưởng Đại đội II. Ông này vừa trúng đạn và tưởng Pesth là quân địch, ông ta nắm chặt cứng hai chân chàng. Pesth cố dằng chân ra và đứng lên. Trong bóng tối, một kẻ nào đó xô mạnh vào chàng làm chàng loạng choạng đứng không vững. Một giọng nói la lên với chàng:

- Giết đi... Giết nó đi... Còn đợi gì nữa?

Một bàn tay nắm lấy khẩu súng của Pesth. Mũi lưỡi lê gắn trên đầu súng đâm ngọt vào một vật gì thật mềm

- A... Chúa ơi...

Tiếng kêu trên đây được kêu lên bằng tiếng Pháp. Tiếng kêu bi thảm nặng nhưng đau đớn và sợ hãi. Tiếng kêu ấy cho Pesth biết rằng chàng vừa đâm chết một binh sĩ Pháp. Mồ hôi lạnh toát đầy trong người chàng, chàng run lên và rời tay để khẩu súng rơi xuống. Nhưng tình trạng kinh hoàng, bủn rủn này chỉ đến với chàng trong có vài giây đồng hồ ngắn ngủi. Ý nghĩ chàng là một người hùng đến trong óc chàng và Pesth vớ vội lại khẩu súng, chàng bỏ người chết nằm đó để chạy lên với đoàn quân, miệng cũng hô lớn những tiếng “Giết.. Giết...” như họ. Chạy được khoảng hai mươi bước nữa, chàng tới được chiến hào trong đó có ông Tiểu đoàn trưởng cùng nhiều binh sĩ khác.

- Tôi vừa giết được một thằng.. - Pesth vừa thở vừa nói.

- Ông can đảm lắm.

Đó là câu phê bình của ông Tiểu đoàn trưởng.

Đánh máy: casau
Nguồn: Nhà xuất bản: Đất Mới Năm xuất bản: 1974
casau - VNthuquan.net - Thư viện Online
Được bạn: Thanh Vân đưa lên
vào ngày: 9 tháng 1 năm 2015