Sebastopol, tháng Năm năm 1855 (3)
dịch giả: hoàng hải thủy
Sebastopol, tháng Năm năm 1855 (3)
raskoukine chết rồi. Anh biết chưa?
Pesth hỏi Kalouguine trên đường hai người đi về thành phố.
- Thật ư? Làm sao hắn chết được?
- Sao hắn lại không chết được nhỉ? Chính mắt tôi trông hắn chết mà...
- Vậy thì hắn chết thật rồi. Thôi chào... Tôi phải về báo cáo với ông Tướng.
“Hôm nay mình gặp nhiều may mắn...” Kalouguine nghĩ thầm khi chàng bước chân vào vườn cây trước tòa nhà vắng, rộng “Đây là lần đầu tiên mình gặp nhiều may mắn kể từ ngày mình tới đây. Mình làm trọn vẹn công tác giao phó và trở về yên lành. Cũng có thể coi là mình từng tham dự vào trận tấn công lớn đêm nay vậy. Thể nào mình cũng được ghi tên vào danh sách được tưởng thưởng. Ít nhất họ cũng phải cho mình một cây kiếm danh dự. Thật vậy, mình xứng đáng được tưởng thưởng...”
Sau khi báo cáo với ông Tướng, chàng trở về phòng riêng Vương tử Galtzine đang ngồi đọc sách ông này ngồi chờ chàng về từ lâu rồi.
Một niềm hoan lạc không sao tả được xâm chiếm tâm hồn và thể xác Kalouguine khi chàng thấy chàng ngồi trong căn phòng quen thuộc, xa cách hẳn với mọi hiểm nguy. Cởi áo ngoài và giày, chàng nằm dài trên giường và kể cho Galtzine nghe những chuyện xảy ra trên chiến lũy. Những chi tiết của chuyện được dàn xếp khéo léo, được thay đổi đi đôi chút để cho chàng, Kalouguine, trở thành một sĩ quan can đảm và đầy đủ tài năng cùng đức tính. Tuy vậy, chàng cũng chỉ nói đến rất ít và nói một cách kín đáo đến sự can đảm của chàng, bởi vì chuyện chàng can đảm là chuyện tự nhiên rồi, không còn ai không biết là chàng can đảm, và không ai có quyền - trừ Đại úy Praskoukine đã chết - nghi ngờ sự can đảm của chàng. Đại úy Praskoukine, tuy vẫn lấy làm hân hạnh được đi chung với Kalouguine ở công viên, từng có lần nói với vài sĩ quan khác rằng Kalouguine không “ưa” đi trong chiến hào.
Chúng ta tạm rời Kalouguine để trở về với Mikhailoff. Lúc này, Mikhailoff và Praskoukine đang cùng đi xuống chân đồi. Khi đi ra hết đường chiến hào, Mikhailoff bắt đầu thở được dễ dàng hơn trước. Ra khỏi vùng nguy hiểm, ngực chàng nhẹ hẳn đi. Chàng vừa đi vừa quay đầu nhìn lại vùng tối đen sau lưng và tình cờ, chàng trông thấy ánh lửa lóe lên. Người lính gác kêu lên: “Moọt-chê”!. Một người lính khác, đi liền sau lưng Mikhailoff, nói tiếp:
- Nó bay thẳng tới mình đó.
Mikhailoff đứng ngửa cổ nhìn ngây lên trời. Điểm sáng của viên đạn như dừng lại lơ lửng ngay trên đầu chàng. Đây đúng là lúc mà không ai có thể đoán biết được viên đạn sẽ rơi về hướng nào, rơi vào đâu. Khoảnh khắc thời gian đó chỉ là một, hai giây đồng hồ. Rồi, với một tốc độ nhanh hơn gấp bội, trái đạn xuống gần, xuống gằn. Người đứng dưới trông rõ những tia lửa tóe ra ở đuôi trái đạn, tiếng đạn vo vo nghe rõ như ở ngay cạnh tai. Trái đạn rơi ngay vào giũa Đại đội đang rút lui. “Nằm xuống!”. Một người kêu lên. Cả Mikhailoff và Praskoukine cùng vội nằm xuống.
Hai mắt nhắm lại, Praskoukine nghe rõ tiếng trái đạn xuyên vào lòng đất ở ngay cạnh chỗ gã nằm. Vài giây đồng hồ trôi qua, với gã dài như cả tiếng đồng hồ, trái đạn không nổ. Praskoukine kinh sợ và gã tự hỏi vì sao gã lại có thể kinh sợ đến như thế. Rất có thể là trái đạn rơi xa gã lắm nhưng gã tưởng tượng là ở ngay cạnh gã. Gã mở mắt và cảm thấy hài lòng khi thấy Mikhailoff nằm bất động bên cạnh gã. Rồi gã nhìn thấy đuôi trái đạn vừa rơi xuống hãy còn quay như con vụ ở cách gã chỉ có vài thước. Cơn sợ lạnh ngắt làm cho trí óc gã ngừng hoạt động xâm chiếm tâm hồn gã. Gã nằm úp mặt vào hai bàn tay.
Lại một giây đồng hồ nữa đi qua trong đó cả một chuỗi dài những ý nghĩ, những hy vọng, những cảm giác, những kỷ niệm trôi qua óc Praskoukine.
“Ai sắp chết? Mikhailoff hay là mình? Hay là cả hai? Nếu mình trúng đạn, mình sẽ bị thương ở đâu? Ở đầu, mình chết ngay. Nếu vào chân, họ sẽ cưa chân mình đi. Mình phải đòi có nhiều thuốc mê, may ra mình thoát chết. Nếu chỉ có Mikhailoff chết, mai sau mình sẽ nói rằng mình nằm cạnh hắn khi hắn trúng đạn, máu hắn chảy sang người mình. Mình cố cứu hắn mà không được. Không... Đạn gần mình hơn. Chắc mình chết...”
Rồi gã nhớ lại số tiền 12 đồng ruble gã còn thiếu Mikhailoff, gã nhớ cả một món nọ khác ở Petesburg mà lẽ ra gã phải thanh toán từ lâu. Một điệu hát du mục gã vừa hát hồi chiều nay trở về với gã. Gã cũng nhìn thấy trong tưởng tượng hình ảnh người đàn bà hắn từng yêu đội mũ đan gài hoa đứng trong gió xuân, gã nhớ và nhìn thấy gã đàn ông từng chửi gã nhưng câu thật nặng trước đây năm năm, gã từng nguyền sẽ trả thù nhưng chưa bao giờ gã thực sự tính đến việc trả thù. Trong lúc gã nhìn thấy những hình ảnh ấy, cảm giác về hiện tại, vì cái chết gần kề, cái chết sắp đến, vẫn không rời bỏ gã. “Có thể là nó không nổ”, gã nghĩ và sắp mở mắt ngiêng đầu nhìn. Cũng đúng lúc đó, ánh lửa đỏ bùng lên, ánh lửa xuyên vào tận mắt gã mặc dầu hai mắt gã vẫn nhắm nghiền, một vật gì xuyên mạnh vào ngực gã với một tiếng xé rợn người...
Praskoukine chồm dậy, loạng choạng chạy vài bước, chân gã vướng vào thanh kiếm và gã ngã xuống:
- Lạy Chúa... Mình chỉ bị thương nhẹ...
Đó là ý nghĩ đầu tiên của Praskoukine sau khi bị thương, gã muốn đưa tay lên sờ vết thương ở ngực nhưng hai tay gã như bị trói cứng đơ. Nhiều binh sĩ chạy qua lại trước mắt Praskoukine
và gã nằm lẩm nhẩm đếm:
- Một, hai, ba... lính. Một sĩ quan rơi mất mũ...
Một ánh lửa khác lóe lên, Praskoukine nghĩ đến chuyện ánh lửa đó nháng lên từ súng bên mình hay bên địch? Đại bác bắn hay súng cối bắn? Chắc là đại bác.. Lại một tiếng nổ đinh tai nữa vang lên, thêm nhiều người lính chạy ngang mắt gã. Bỗng dưng, Praskoukine cảm thấy sợ bị những người chạy kia dẫm phải. Gã muốn kêu lên cho họ biết rằng gã chỉ bị thương nhẹ nhưng môi gã khô cứng lưỡi gã nằm bất động trong miệng gã. Gã khát khô cổ. Gã cảm thấy ngực gã ướt đẫm và cảm giác ấy làm gã nghĩ tới nước.
“Mình làm vết thương chảy nhiều màu vì mình ngã xuống...” Gã nghĩ, và gã càng cảm thấy sợ bị những người lính đang chạy kia dẫm lên. Gã cố gắng kêu:
- Đỡ tôi dậy...
Nhưng thay vì thốt ra những tiếng ấy, Praskoukine chỉ rên lên được một tiếng rùng rợn. Tiếng rên làm cho chính gã cũng phải kinh hoàng. Rồi những đốm lửa đỏ nhảy múa trước mắt gã, người gã nặng và gã khó thờ như có những tảng đá lớn đè lên. Những đốm lửa nhảy nhanh hơn, những tảng đá đè nặng hơn. Praskoukine ruỗi người ra, gã ngừng thấy, ngừng nghe, ngừng nghĩ, ngừng cảm. Gã chết vì mảnh đạn xuyên vào giữa ngực.
XII
Mikhailoff cũng nằm sắp xuống khi trái đạn đến. Cũng như Praskoukine, chàng nghĩ đến vô số chuyện trong khoảng hai giây đồng hồ trước khi trái đạn nổ. Chàng đọc thầm câu kinh và chàng nghĩ:
“Xin Chúa làm theo ý Chúa... ồ... Sao tôi lại làm lính? Sao tôi lại đổi sang bộ binh? Sao tôi không ở trong đội Kỵ binh bây giờ vẫn đóng ở F.? Ở đó tôi được gần Natacha! Tôi đến đây làm gì để mà... chết?”
Chàng bắt đầu đếm thầm “Một, hai, ba bốn...” với sự tin tưởng rằng nếu trái đạn nổ vào số chẵn, chàng sẽ sống, nếu nổ vào số lẻ, chàng sẽ chết...
Khi tiếng nổ vang lên, quên cả việc ghi nhớ đạn nổ vào số lẻ, chẵn, chàng nghĩ: “Xong rồi, mình đã chết...” Đầu chàng đau nhức như bị búa tạ đập vào.
- Xin Chúa tha tội cho tôi...
Mikhailoff nói nhẩm và chắp hai tay lại định nằm chờ chết, nhưng cùng lúc đó hai chân chàng tự động đứng lên. Chưa đứng hẳn lên được chàng lại ngã chúi xuống. Khi mặt chàng chạm đất, chàng biết rằng mũi chàng chảy máu. Rồi chàng ngất đi.
Khi tỉnh lại, chàng biết rằng máu chảy đầy trên mặt chàng nhưng đầu chàng đã bớt đau.
“Linh hồn tôi đang thoát đi. Không biết mình sắp thấy những gì đây? Xin Chúa nhận linh hồn Mikhailoff. Nhưng...” - Chàng lý luận với chính chàng. - “Lạ nhỉ? Mình chết rồi sao mình vẫn còn nghe thấy tiếng chân người, tiếng súng nổ?”
- Khiêng cáng lại đây. Đại đội trưởng bị thương...
Tiếng người nói vang lên trên đầu Mikhailoff. Chàng nhận ngay được tiếng đó là tiếng Hạ sĩ Ignatieff.
Có người nâng vai chàng lên, Mikhailoff mở mắt và nhìn thấy bầu trời đen lấp lánh ánh sao, thấy hai viên đạn bay ngang nền trời như đuổi nhau. Rồi chàng trông thấy Hạ sĩ Ignatieff cúi xuống nhìn vào mặt chàng, đằng sau Ignatieff là sườn đồi thoải dốc trên đó có nhiều người lính khiêng cáng hoặc cầm súng chạy qua, chạy lại. Đột nhiên Mikhailoff hiểu rằng mình vẫn còn sống.
Một cục đá bay tới làm cho đầu chàng bị thương nhẹ. Cảm nghĩ đầu tiên của Mikhailoff khi chàng biết mình không chết gần như một thất vọng. Chàng đã yên tâm, đã sẵn sàng đi sang thế giới bên kia đến nỗi sự trở lại với sự thực, với cảnh chiến trường giữa trận pháo kích, cảnh những chiến hào, cảnh máu đổ như làm cho chàng tỉnh mộng. Cảm nghĩ thứ hai là niềm vui được sống tự động đến làm cho ngực chàng chan hòa sung sướng và cảm nghĩ thứ ba là làm sao rời nơi này cho mau.
Hạ sĩ Ignatieff dìu Mikhailoff đi xuống đồi. Chàng Đại úy bắt đầu tỉnh hồn, chàng cất tiếng:
- Đưa tôi đi đâu đây? Đi xuống đồi làm gì? Tôi phải ở lại với đơn vị của tôi.
Và chàng dừng lại, đẩy người hạ sĩ ra:
- Tôi không về Quân Y Viện. Tôi ở lại chỉ huy Đại đội.
- Đại úy nên về coi kỹ vết thương ra sao. Lúc đầu, có khi chỉ bị thương soàng nhưng sau trở thành nặng. Đại úy nên về băng bó đàng hoàng.
Mikhailoff do dự không biết mình nên làm gì. Thực ra, chàng cũng muốn nghe theo lời khuyên của Ignatieff nhưng chàng từng nhìn thấy cảnh Quân Y Viện chật ních những thương binh, người nào cũng bị thương nặng.
Chàng nghĩ thầm: “Bọn y sĩ ở đó sẽ cười nhạo mình khi thấy vết thương của mình. Không được”. Không nói tiếng nào nữa với Ignatieff, chàng mạnh bạo đi trở lại.
- Đại úy Praskoukine vừa đi cạnh tôi đây đâu rồi? - Mikhailoff hỏi người Thiếu úy dưới quyền chàng.
Viên Thiếu úy ngập ngừng đáp:
- Tôi không được rõ. Có lẽ ông ấy chết rồi...
- Có lẽ là thế nào? Chết hay bị thương, Thiếu úy phải biết rõ. Sao không đi tìm ông ấy?
- Thưa Đại úy. Đang còn hỗn loạn lắm, tôi chưa kịp đi tìm.
- Bây giờ đi làm đi. Lỡ ra ông ấy chỉ bị thương thôi thì sao? Nếu ông ấy chết, chúng ta phải đem xác ông ấy về.
Mikhailoff ngồi xuống, hai tay ôm lấy đầu. Những bước đi vừa rồi làm cho đầu chàng nhức nhối trở lại.
- Phải tìm cho ra Đại úy Praskoukine - Chàng nhắc lại bằng giọng nói ôn hòa hơn - Thiếu úy Ivanitch. Nếu ông ấy chết, ta có bổn phận phải tìm xác ông ấy, đem về.
Thiếu úy Ivanitch không nói gì ca. Nhưng Ivanitch vẫn đứng đó chưa chịu bước đi.
Mikhailoff ngồi ôm đầu, nghĩ thầm: “Chỉ vì việc trở lại tìm xác Praskoukine, có thể có vài người nữa phải chết. Hắn không ở trong đơn vị mình, lại sao mình lại sai người đi chết vì hắn? Chết thật vô ích”. Tuy nghĩ vậy nhưng chàng vẫn nói:
- Anh em... Chúng ta phải trở lại tìm ông Đại úy Praskoukine. Tôi chắc ông ấy chỉ bị thương chứ chưa chết đâu.
Chàng nói bằng giọng yếu sìu, không chút uy quyền nào cả, vì chàng đang đau đầu nên không nói lớn được và chàng biết rõ hơn ai hết rằng không một ai muốn đi trở lại vùng đang bị pháo kích trên đồi.
Vì chàng không hẳn là ra lệnh, cũng không đích xác nói với ai, nên chẳng có ai rời bước đi trở lên đồi.
“Chắc hắn chết rồi. Binh sĩ của mình cũng chết nhiều, chẳng nên sai họ trở lại nơi nguy hiểm ấy. Mình phải đích thân trở lại. Mình phải trở lại. Mình trở lại tìm hắn thôi...” Nghĩ tới đây, Mikhailoff buông tay ôm đầu và đứng dậy:
- Thiếu úy Ivanitch - Chàng ra lệnh - đưa Đại đội xuống đồi. Tôi sẽ theo sau.
Một tay chàng nắm vạt áo choàng tay kia chạm vào tượng ảnh Thánh Mitrophanes đeo trên ngực - chàng luôn luôn đeo tượng ông thánh này trên ngực - Mikhailoff lầm lũi đi trở lên đồi.
Chàng tìm lại được chỗ hồi nãy chàng và Praskoukine nằm cạnh nhau. Sau khi biết chắc là Praskoukine đã chết, chàng vuốt mắt cho hắn rồi mới chậm chạp đi xuống đồi. Đại đội dừng lại chờ chàng ở đầu con đường đi vào thành phố. Trên trời đêm vẫn còn vài trái đạn bay như đuổi theo họ.
XIII
Nhiều trăm người mất chân, mất tay, mang những tấm thân nhầu nát, đẫm máu, những người trước đó hai tiếng đồng hồ còn đầy những ham muốn, những ao ước khác nhau, những ham muốn, ao ước cao đẹp hoặc tầm thường, nằm cứng ngắc trên mặt cỏ ướt sương đôi chỗ nở vài bông hoa cỏ giữa những chiến hào, giữa hai chiến lũy đối diện nhau hoặc trên mặt sàn tòa giáo đường trong thành phố Sebastopol. Nhiều người vẫn còn sống nhưng bị bỏ rơi giữa những xác chết, nhiều người khác nằm trên cáng, trên võng, trên mặt sàn đầy máu của Quân Y Viện. Trên cảnh tang thương đó và thản nhiên với tất cả, thản nhiên như mãi mãi muôn đời, mặt trời lên khỏi đỉnh núi Saponné và chiếu ánh nắng vàng xuống không khác gì buổi sáng hôm qua, ánh sao mờ đi và biến mất, sương mù dâng lên từ mặt biển đầy ắp thủy triều rì rào, làn mây dài vắt ngang chân trời bỗng lên màu tía. Cũng như sáng qua, như cả ngàn ngàn buổi sáng trước đó, mặt trời từ từ lên, mạnh và kiêu hãnh, hứa hẹn sự sống, niềm vui, hạnh phúc và tình yêu cho trái đất vừa trở giấc.
XIV
Buổi chiều, ban quân nhạc lại tấu nhạc ở công viên thành phố. Trong công viên và ở những đại lộ quanh đó, những nhóm sĩ quan, binh sĩ và những thiếu phụ, thiếu nữ lại đi đi lại lại như trong một ngay hội dưới những vòm cây nở hoa trắng xóa.
Kalonguine, Vương tử Galtzine và một sĩ quan khác đi bên nhau trên đại lộ, vừa đi vừa nói với nhau về những chuyện xảy ra trong đêm qua. Đề tài chính của cuộc nói chuyện này không phải là chiến tranh mà là về vai trò của những kẻ tham dự chiến tranh. Vẻ mặt, giọng nói của họ có một cái gì như nghiêm trọng làm cho người nhìn họ có thể nghĩ rằng con số tổn thất quá lớn về nhân mạng làm cho họ buồn rầu. Nhưng, thực ra sau trận đánh lớn đêm qua, ba sĩ quan trên đây chẳng mất người bạn nào thân thiết để họ phải buồn phiền, họ chỉ làm ra vẻ nghiêm trọng để tỏ ra họ là những nhân vật quan trọng. Kalouguine và người sĩ quan bạn, không muốn gì hơn là mỗi ngay được dự chiến như họ từng dư chiến đêm qua, miễn là như đêm qua, họ không bị chết, để rồi họ được tưởng thưởng và đặc cách thăng cấp. Mỗi lần nghe người ta nói đến một nhà chinh phục nào đó đưa cả triệu con người vào chỗ chết để thỏa mãn tham vọng riêng của mình và gọi nhà chinh phục đó là ác quỷ, tôi lại muốn phá lên cười [1]. Hãy hỏi Thiếu úy Petrochef Antonoff kia hoặc hỏi bất cứ một ông sĩ quan nào, bạn sẽ thấy rằng tất cả họ đều là những Đại đế Napoleon nho nhỏ, những ác quỷ sẵn sàng dự trận, sốt sắng giết cả trăm người để được thăng cấp, hoặc để được tăng lương.
- Xin lỗi... - Người sĩ quan, một Trung tá, nói với Kalouguine - Trận đánh đêm qua xảy ra ở cánh trái của chiến lũy. Tôi ở đó mà.
- Có thể lắm - Kalouguine nói tiếp - Tôi ở bên cánh mặt. Đêm qua, tôi tới đó hai lần để gặp ông Tướng, lần thứ ba, tôi tự ý đến đó. Tôi thấy mặt trận nặng hơn ở bên cánh mặt.
Như người ôn hòa và khiêm nhượng nhất đời, ông Trung tá gật đầu:
- Nếu ông nói vậy, chắc là cánh mặt nặng hơn. Tôi chỉ được biết có một góc chiến trường...
Rồi ông nói với Galtzine:
- Quân ta tổn thất nhiều quá. Riêng một trung đoàn tôi đã có tới bốn trăm người thương vong. Tôi không biết nhờ phép lạ nào tôi lại không hề hấn gì...
Đi đến đầu đại lộ, họ gặp Đại úy Mikhailoff đầu quấn băng trắng đi đến trước mặt họ.
- Bị thương à? - Kalouguine hỏi.
- Nhẹ thôi. - Mikhailoff đáp.
Galtzine nhìn qua vai Mikhailoff vào công viên hỏi trống không một câu bằng tiếng Pháp:
- Le général est il déjà arrivé?
Muốn tỏ ra mình cũng nói được tiếng Pháp, Mikhailoff vội đáp:
- Non, pas encore. [2]
- Đến giờ này, thỏa ước ngừng bắn có còn hiệu lực không nhỉ?
Galtzine nhìn thẳng vào mặt Mikhailoff khi hỏi câu trên bằng tiếng Nga. Việc Galtzine cố ý chuyển từ tiếng Pháp sang tiếng Nga là để cho chàng Đại úy này hiểu rằng mình muốn nói: “Tôi biết ông nói tiếng Pháp một cách khó khăn, sao ông không nói tiếng Nga đi cho rồi?”. Sau đó cả bọn cùng đi vào công viên. Cũng như buổi chiều hôm trước đến đây nghe tấu nhạc, Mikhailoff cảm thấy cô đơn và lạc lõng. Không muốn phải nói chuyện với bất cứ ai, chàng đến ngồi một mình trên chiếc ghế đá, lấy thuốc lá ra hút.
Bá tước Pesth cũng xuất hiện ở công viên. Chàng kể cho mọi người biết rằng chàng ở trong phái đoàn thương thuyết với địch quân để thực hiện cuộc ngưng bắn hôm nay và chàng từng nói chuyện với những sĩ quan Pháp trên mặt trận còn đầy những xác chết và một sĩ quan Pháp đã nói với chàng:
- Nếu trời sáng chậm một tiếng đồng hồ nữa, chúng tôi đã tấn kích một lần nữa sang bên ông.
Và Pasth kể là chàng đáp lại:
- Nếu các ông sang, chúng tôi đã có cái hân hạnh mời các ông trở về một lần nữa.
Nhưng sự thực, là mặc dầu Pesth có mặt trong đoàn sĩ quan lên mặt trận thương thuyết về thỏa ước tạm ngừng bắn và chàng rất muốn nói chuyện với những sĩ quan Pháp, chàng chẳng nói được câu nào đáng kể. Chàng chỉ đi đi lại lại quanh đám sĩ quan cao cáp của đôi bên đứng thảo luận với nhau ở khoảng đất trống giữa hai chiến lũy, và chàng có hỏi một binh sĩ Pháp:
- Anh là người miền nào?
Người lính Pháp này trả lời. Và cuộc nói chuyện chấm dứt. Khi Pesth đi tới gần một chiến hào địch, người lính Pháp đứng gác ở đó nghĩ rằng chàng không hiểu tiếng Pháp, chửi chàng một câu tục tĩu và nói:
- Nó dòm ngó mình đây, thằng khốn..
Trên đường trở về thành phố, Pesth tưởng tượng ra cuộc đối thoại lý thú với người sĩ quan Pháp và sắp đặt trước những câu tiếng Pháp để kể lại với các thân hữu.
Đại úy Zobkine, Đại úy Objogoff cùng nhiều sĩ quan khác từng có mặt trong công viên này chiều qua chiều nay vẫn có mặt. Tuy nhiên, cũng có nhiều người vắng mặt như Praskoukine, Neferdoff và nhiều người khác, xong chẳng ai để ý đến sự vắng mặt của họ. Chẳng ai nghĩ gì đến họ. Giờ này những người vắng mặt đó vẫn chưa được đem chôn, có người vẫn còn nằm ngoài kia, giữa những chiến hào.
Chú thích:
[1] Nhân vật “Tôi” trong đoạn này là tác già Sebastopol. (Lời người dịch)
[2] Trong thời đại này, giới quý tộc Nga rất sính nói tiếng Pháp, cho việc nói được tiếng Pháp là sang. Trong truyện này ta thấy các sĩ quan Nga tay đánh nhau với quân Pháp nhưng vẫn giữ cái tật nói tiếng Pháp với nhau.
XV
Những lá cờ trắng, dấu hiệu của cuộc tạm ngừng bắn để dọn xác chết tung bay trên chiến lũy của cả hai bên. Trong thung lũng cỏ mượt nở những bông hoa trắng từng đống xác người cụt đầu, cụt chân tay, vỡ ngực, lòi ruột được binh sĩ hai bên đi khiêng về đặt nằm chồng chất lên nhau chờ những chiếc xe ngựa tới chở đi. Không khí phảng phất mùi hôi của những xác chết. Dân chúng trong thành phố Sebastopol kéo nhau ra tận chân đồi để nhìn cảnh nhặt xác chết trên chiến trường. Trong lúc binh sĩ đôi bên làm việc, nhóm sĩ quan Nga Pháp chỉ huy họ đứng nói chuyện với nhau.
Chúng ta hãy nghe họ nói những gì với nhau. Ở một nhóm, một sĩ quan Nga trẻ tuổi đang cầm xem hộp đựng đạn của binh sĩ Pháp. Mặc dầu sĩ quan này nói tiếng Pháp thật dở, chàng cũng làm cho người sĩ quan Pháp đứng với chàng hiểu được chàng muốn nói gì.
- Sao lại in hình con chim lên đây?
- Vì đây là hộp đựng đạn của một đơn vị thuộc Ngự Lâm Quân - Người sĩ quan Pháp giải thích - Con chim này là con ó, dấu hiệu của Hoàng gia.
- Ông có thuộc Ngự Lâm Quân không?
- Không. Tôi ở Trung đoàn 6 Bộ binh.
- Cái này mua ở đâu?
Người sĩ quan Nga chỉ tay lên cái tẩu cắm thuốc lá bằng gỗ trên miệng người sĩ quan Pháp.
- Mua ở Balaklaya, bằng gỗ trắc đó.
- Đẹp.. Đẹp...
- Cho phép tôi được biếu nó cho bạn để kỷ niệm ngày hôm nay...
Người sĩ quan Pháp gỡ mẩu thuốc lá ra khỏi tẩu, thổi vào đó một cái rồi mới đưa cho người sĩ quan Nga. Xong, y còn lịch sự đứng nghiêm chào. Người sĩ quan Nga vội vã móc túi tìm vật tặng lại. Những sĩ quan Nga, Pháp khác đứng quanh đó thấy thế đều mỉm cười.
Hai sĩ quan Nga, Pháp đừng riêng một chỗ cùng nhìn về những đống xác người chết. Một người lắc đầu:
- Thê thảm quá. Việc đi nhặt xác không bao giờ vui cả. Đêm qua là đêm đánh nhau dữ nhất từ ngày nào đến giờ ông bạn có đồng ý như thế không?
- Dạ - Người sĩ quan kia đáp - Binh sĩ quả cảm như vậy là một vinh dự cho chúng tôi...
- Ông bạn nói làm tôi mắc cở. Binh sĩ các ông mới thực là tinh nhuệ và quả cảm...
Chúng ta hãy bỏ họ lại đó với những câu chuyện vô nghĩa của họ. Chúng ta hãy nhìn chú bé con mười tuổi kia, chủ nhỏ đội mũ nỉ cũ quá rộng dáng chừng là của cha chú để lại, đôi bàn chân không vớ nằm trong đôi giày quá lớn, chú bận cái quần rách được buộc bằng một sợi dây lên vai. Chú đi vào vùng chiến hào từ những phút đầu tiên của cuộc ngừng bắn. Và chú đi lang thang khắp nơi từ lúc đó, nhìn ngắm và xem xét một cách ngây ngô những xác chết nằm co quắp. Chú hái mấy đóa hoa dại nở trong thung lũng và chú cầm những bó hoa này đưa lên mũi, như để nhờ hương hoa làm mất mùi hôi hám của xác chết. Dừng lại bên một đống xác chết vừa được những người lính khiêng về, chú tò mò nhìn rất lâu một xác người cụt đầu. Cánh tay của xác chết gớm ghiếc này như đang muốn cầm vật gì. Đứng đó một lúc, chú nhỏ có vẻ bạo dạn hơn, chú lấy chân chạm nhẹ vào cánh tay đang giơ lên đó và bỗng nhiên cánh tay rơi bịch xuống đất. Chú nhỏ thốt ra một tiếng kêu sợ hãi, lùi lại rồi cắm cổ chạy.
Những lá cờ ngừng bắn bay trên những pháo đài, trên những chiến hào, mặt trời rực rỡ lên cao trên biển xanh, sóng biển lấp lánh phản chiếu ánh nắng vàng, cả ngàn người sống đứng tụ lại dưới ánh nắng đó, nhìn nhau, nói chuyện, cười cợt. Tất cả những người này đều theo đạo Gia-tô, họ đều tình nguyện tuân theo luật yêu thương nhân loại của Đấng Cứu Thế, nhưng họ vẫn thản nhiên trước cảnh tàn sát ghê gớm do chính họ gây ra, không một kẻ nào quỳ gối xuống tỏ lòng hối hận vì mình đã trót giết người, đã làm mất đời sống của người khác, đã không yêu thương lẫn nhau. Không một ai ôm hôn nhau như anh em, không một ai nhỏ một giọt nước mắt xót thương. Rồi những lá cờ trắng được hạ xuống, giờ ngừng bắn đã hết, những dàn máy gieo rắc cái chết và đau khổ lại lên tiếng và những giọt máu vô tội lại đổ xuống, những tiếng rên la đau đớn lại vang lên...
Đánh máy: casau
Nguồn: Nhà xuất bản: Đất Mới Năm xuất bản: 1974
casau - VNthuquan.net - Thư viện Online
Được bạn: Thanh Vân đưa lên
vào ngày: 9 tháng 1 năm 2015