Chương 11
Vài phút sau tôi lái xe về Benedict.
Cái xe tải màu đen và xe của Milo đã đi rồi. Hai trong số ba cánh cửa của gara đang mở và tôi thấy Robin bên trong, nàng đang mặc đồ làm việc, đeo kính bảo vệ mắt và đứng đằng sau cái máy tiện của nàng.
Nàng nhìn tôi, bước đến và tắt máy. Một chiếc BMW hai chỗ ngồi màu vàng đậu trong gara thứ ba. Phần còn lại của không gian trông gần như bản sao của cái xưởng ở Venice.
– Trông em có vẻ đã sắp xếp mọi thứ ổn thỏa rồi.
Nàng đẩy cái kính bảo vệ lên trên trán.
– Thực ra, chỗ này không quá tệ, miễn là em mở cửa để thông gió. Sao anh về sớm thế?
– Không có ai ở nhà cả.
– Họ ngủ quên à?
– Hình như họ đi vắng một thời gian.
– Đi vắng ư?
– Có thể khoảng một tuần.
– Sao anh biết?
– Thư từ của hai ngày qua còn để trong hòm thư và công việc của chồng bà ta bị ngưng trệ.
– Những người quan tâm đến bà ta cho anh biết à?
– Bà ta không phải là người xã giao tốt. Ban đầu bà ta còn không để tâm đến sự đánh giá của anh nữa kia dù anh nghĩ rằng bọn anh đang làm việc có tiến triển. Có thể bà ta đem lũ trẻ ra khỏi bang, có thể bà ta đến Hawai. Hôm qua, khi anh nói chuyện với bà ta, bà ta có khoe về kỳ nghỉ ở Hawai. Hoặc cũng có thể là Mehico. Chồng bà ta có lẽ có gia đình ở đó... Tốt hơn là anh nên gọi cho bên tòa án.
– Bọn em đã sắp xếp cho anh một văn phòng làm việc trong số các phòng ngủ – Nàng nói, dựa vào người tôi và hôn nhẹ má tôi – Cho anh căn phòng có khung cảnh đẹp nhất và còn có một bức tranh của Hockney treo trên tường nữa, bức hai chàng trai đang tắm. Nàng cười, tội nghiệp Milo, anh ấy hơi ngượng ngùng về nó và bắt đầu càu nhàu về “không khí”. Gần như là xin lỗi. Sau tất cả những việc anh ấy đã làm cho chúng ta, em mời anh ấy ngồi xuống và chúng em đã có một cuộc nói chuyện thú vị.
– Về cái gì?
– Tất cả mọi chuyện liên quan đến ý nghĩa cuộc đời. Em nói với anh ấy anh có thể giải quyết vấn đề “không khí” được.
– Anh ấy nói gì về chuyện đó.
– Chỉ làu bàu và xoa xoa mặt như anh ấy vẫn làm. Rồi sau đó em pha cà phê và nói với anh ấy nếu anh ấy biết chơi một nhạc cụ nào đó thì em sẽ làm một cái cho anh ấy.
– Một lời đề nghị an toàn.
– Có thể là không. Khi chúng em nói chuyện thì hóa ra là anh ấy đã từng chơi accócđiông khi còn bé. Và anh ấy còn hát nữa. Anh nghe anh ấy hát bao giờ chưa?
– Chưa.
– Vậy mà anh ấy hát cho em nghe chiều nay. Sau khi mạnh dạn anh ấy hát một bài hát đồng quê Ailen, em rất ngạc nhiên khi thấy anh ấy có giọng hát thực sự tốt.
– Giọng nam trầm à?
– Giọng nam cao. Anh ấy đã từng hát trong ban nhạc nhà thờ khi anh ấy còn là một cậu bé.
Tôi mỉm cười.
– Chuyện này hơi khó hình dung.
– Có thể có nhiều chuyện về anh ấy mà anh không biết.
– Cũng có thể. Mỗi năm anh lại thấy mình thờ ơ hơn... như là hay nói làu bàu – thế còn vị khách của chúng ta đâu rồi?
– Nó đang ngủ ở ngoài hiên. Em cố giữ nó ở đây trong khi em làm việc, nhưng nó cứ nhảy bổ vào các máy móc. Nó còn muốn nhảy vào cái cưa vòng, em đã lôi nó ra khỏi đó và khóa nó lại.
Nó có làm thế thường xuyên không?
– Ồ, tất nhiên rồi – Nàng quấn tay quanh cổ họng và tạo một âm thanh khôi hài – Em la bảo nó im lặng và nó thôi.
– Tội nghiệp con vật. Thế mà có lẽ nó nghĩ em là vị cứu tinh của nó kia đấy.
Nàng nhăn mặt.
– Có thể em nóng nảy và duy cảm nhưng em không dễ dãi.
Tôi thả con chó ra, cho nó ra ngoài tiểu tiện một lát rồi dắt nó vào phòng làm việc mới của tôi. Một cái bàn mặt kính thủy tinh màu vàng được đẩy sát vách tường. Giấy tờ và sách vở của tôi được xếp gọn ở trên cái trường kỷ nhung màu đen. Khung cảnh thật tuyệt vời, nhưng sau một vài phút tôi không để ý đến điều đó nữa.
Tôi gọi cho Tòa thượng thẩm, gặp Steve Huff trong phòng của ông ta và kể lại việc không trình diện của Evelyn Rodriguez.
– Có thể bà ta chỉ quên thôi. Từ chối hay tránh mặt gì đó.
– Tôi nghĩ là rất có thể bà ta đã bỏ đi, Steve. Tôi mô tả lại cảnh vật yên lặng trong cái sân của nhà Roddy Rodriguez.
– Có vẻ như thế. Lại thêm một người đáng quan tâm nữa.
– Không thể nói là tôi trách bà ta. Khi tôi gặp bà ta hai ngày trước bà ta thật sự cởi mở về những rắc rối của hai đứa bé. Chúng có rất nhiều khó khăn và Donald viết cho tôi một lá thư, không có sự ăn năn chỉ là to mồm nói rằng hắn là một ông bố tốt.
– Viết cho anh một lá thư ư?
– Luật sư của hắn cũng đã gọi cho tôi.
– Có sự đe dọa nào không?
Tôi hơi do dự.
– Không, chỉ có sự cằn nhằn thôi.
– Tệ quá. Không có luật nào cấm chuyện đó... không, cũng không thể nói tôi trách bà ta, Alex. Anh có muốn đợi và thử một lần nữa không, hay chỉ muốn kết thúc bản báo cáo ở đây, cung cấp những gì mà bà ta đã kể với anh?
– Sự khác nhau giữa hai việc đó là gì?
– Sự khác nhau là việc anh muốn được trả lương nhanh như thế nào với việc anh muốn cho bà ta bao nhiêu thời gian nữa nếu thực sự bà ta đã bỏ đi. Một khi anh hoàn thành bản báo cáo và tôi nhận được nó, tôi buộc phải chuyển nó qua cho Bucklear. Thậm chí là nếu tôi cố tình trì hoãn thì chỉ trong vòng vài tuần ông ta sẽ nhận được nó và tước quyền giám hộ của bà ta.
– Một tên giết người lấy quyền giám hộ của một bà ngoại đem cháu ra ngoài thị trấn sao? Đó là một sự mỉa mai hay điên rồ vậy?
– Tôi nghĩ điều đó có nghĩa là anh sẽ đợi hay không?
– Tôi sẽ đợi bà ấy.
– Một khoảng thời gian hợp lý, phù hợp với việc điều trị tâm lý y khoa.
– Nghĩa là sao?
– Nghĩa là những gì mà một bác sĩ tâm thần thường làm, ba, bốn thậm chí năm tuần cũng không sao. Bác sĩ tâm thần các anh rõ là thường cẩu thả với công việc giấy tờ. Anh cũng có thể kéo dài đến sáu, bảy tuần, nhưng coi như anh chưa nghe tôi nói gì cả, thật ra chúng ta chưa có cuộc nói chuyện này, được không?
– Ai mà biết được?
– Cừ lắm, chấp hành viên ở tòa án lại đang gọi tôi, tạm biệt nhé.
Tôi bỏ điện thoại xuống. Con chó Bun đặt móng của nó lên đầu gối tôi và cố trèo vào lòng tôi. Tôi nhấc nó lên, nó ngồi vào lòng tôi như một cục đất sét ấm, ít nhất nó cũng phải nặng tới mười hai ký.
Bức tranh của Hockney ở ngay trước mặt tôi. Một tuyệt tác. Bức tranh của Benton ở bức tường đối diện cũng thế – một bức bích họa miêu tả những công nhân lực lưỡng đang hăng hái xây dựng đập nước WPA.
Tôi nhìn cả hai bức tranh một lúc và tự hỏi Robin và Milo đã nói gì với nhau. Con chó vẫn nằm yên như một bức tượng Phật bằng lông. Tôi xoa xoa đầu và cằm nó, còn nó liếm tay tôi. Tôi chợt nghĩ đến một cậu bé và con chó của cậu ta... Tôi nhận ra rằng tôi đã quên chưa lấy số điện thoại của câu lạc bộ chó Bun. Đã gần năm giờ rồi. Đã quá trễ để gọi cho AKC rồi.
*
Sáng mai tôi sẽ gọi cho họ. Tôi bỗng muốn từ chối, trốn tránh hay một cái gì đại loại như thế.
Tối hôm đó tôi ngủ chập chờn. Sáng thứ sáu lúc tám giờ tôi gọi cho Bắc Carolina và lấy được địa chỉ của Câu lạc bộ chó Bun Pháp của Mỹ ở Rahway, New Jersey. Một hòm thư bưu điện, không có một số điện thoại nào cả.
Lúc mười giờ mười tôi gọi về nhà Rodriguez. Một băng ghi âm của công ty điện thoại nói rằng đường dây đã bị ngắt. Tôi mường tượng ra cảnh Evelyn và bọn trẻ trong thúng xe trên một con đường bẩn thỉu ở Bahia, Rodriguez theo sau trên chiếc xe tải của ông ta. Hoặc cũng có thể bốn người họ lang thang quanh Waikini với những cặp mắt tò mò của các du khách. Giá mà họ biết được hiện tại tôi và họ có nhiều điểm chung như thế nào...
Tôi bắt đầu giở sách ra. Lúc tám giờ ba mươi lăm, chuông cửa reo và Milo xuất hiện trên một trong những cái máy quan sát, dậm dậm chân và mang một cái túi trắng.
– Bữa sáng. Anh ấy nói khi tôi mở cho anh ấy vào. Tôi đã đưa bữa sáng cho bà Castagna rồi, lạy chúa, người phụ nữ ấy đang làm việc. Còn anh đang làm gì?
– Tôi đang sắp xếp lại cho gọn.
– Ngủ ngon chứ?
– Tuyệt – Tôi nói dối – Cảm ơn rất nhiều vì đã sắp đặt mọi thứ cho chúng tôi.
Milo nhìn quanh.
– Căn phòng thế nào?
– Hoàn hảo.
– Khung cảnh tuyệt vời phải không?
– Khỏi phải nói.
Chúng tôi vào bếp và anh ấy lấy vài lát hành và hai cái cốc cà phê Styrofoam khỏi cái túi.
Chúng tôi ngồi vào bàn bằng đá granite màu xanh. Anh ấy hỏi:
– Chương trình ngày hôm nay của anh thế nào?
– Khá thoải mái bởi vì chuyện của Wallace đã được thu xếp. Có vẻ như bà ngoại đã quyết định tự mình lo liệu vấn đề.
Tôi kể lại cho Milo những gì tôi phát hiện ở Sunland.
Anh ấy nói:
– Có lẽ họ đã khấm khá hơn. Nếu anh muốn có một công việc nhỏ khác thì tôi có một vụ cho anh đây.
– Vụ gì?
– Đến Trung tâm sức khỏe tâm thần và nói chuyện với bà Jean Jeffers. Cuối cùng tôi đã liên lạc được với bà ấy. Thực ra bà ấy gọi cho tôi tối qua, đó là điều hơi lạ đối với bà. Thái độ của bà ấy cũng tốt hơn tôi tưởng. Bởi vì bà ấy nên hợp tác sau những gì xảy ra với Becky. Tôi nói với bà ấy chúng ta đang phải đối mặt với một số vụ gây rối, tôi không kể chi tiết, mà chúng ta có lý do để tin rằng có thể xuất phát từ một trong số những bệnh nhân của bà ấy. Một ai đó mà chúng tạ cũng có cơ sở để tin rằng hắn là bạn thân của Hewitt. Việc tôi nhắc đến tên hắn khiến bà ấy tiếp tục câu chuyện. Bà ấy kể về việc Becky bị giết đã làm tất cả bọn họ chấn động như thế nào. Bà ấy có vẻ hơi chán nản.
Milo cắt bánh mì thành ba miếng, cho hành vào, đặt từng miếng lên bàn, lấy một miếng và ăn.
– Dù sao, tôi cũng hỏi bà ấy liệu bà có biết Hewitt có giao du với ai không và bà ấy bảo không. Rồi tôi hỏi liệu tôi có thể nhìn qua danh sách bệnh nhân của bà được không và bà ấy trả lời là rất muốn giúp nhưng phải giữ nguyên tắc bí mật. Vì thế tôi nói cho bà ấy về luật Tarasoft, hy vọng rằng bà ấy không biết rõ về luật đó, nhưng bà ấy lại biết rất rõ: nếu không có một mối đe dọa cụ thể nào đối với một bệnh nhân cụ thể thì không được áp dụng luật Tarasoft. Lúc này, tôi đưa ra con át chủ bài: nói với bà ấy rằng văn phòng có một chuyên gia tư vấn làm công việc sơ lược các vụ tội phạm tâm thần cho chúng tôi – một người thực sự luôn tôn trọng sự bí mật, thận trọng và tôi cho bà ấy tên của anh phòng khi bà ấy đã nghe qua về anh. Và thử đoán xem, bà ấy nghĩ là đã từng nghe qua, nhất là sau khi tôi nói là anh khá có tiếng.
– Hu ha...
– Cứ mừng đi. Bà ấy nói bà ấy không thể hứa trước điều gì, nhưng bà ấy sẵn lòng ít nhất là nói chuyện với anh, có lẽ sẽ có một cách nào đó để khai thác được điều gì đó. Chúng tôi càng nói chuyện lâu thì bà ấy càng tỏ ra thân thiện. Tôi có cảm giác là bà ấy muốn giúp, nhưng lại sợ búa rìu của dư luận vì thế hãy tỏ ra dịu dàng với bà ấy.
– Tôi nên nói cho bà ấy đến mức nào?
Milo ăn thêm một miếng nữa.
– Càng ít càng tốt.
– Khi nào thì bà ấy có thể gặp tôi?
– Chiều nay, đây là số của bà ấy. Anh ấy lấy một mảnh giấy ra khỏi túi và đưa nó cho tôi rồi đứng dậy.
– Anh đi đâu đấy?
– Đến đồi Van Nuys để thử tìm hiểu xem ai đã đâm Myra Paprock năm năm trước.
Sau khi Milo đi. Tôi mở hộp tin nhắn ra, nhưng vẫn không có gì từ Shirley Rosenblatt ở New York, sau đó tôi viết một lá thư cho câu lạc bộ chó Bun báo cho họ biết tôi đã tìm được một con chó mà rất có thể là thú nuôi của một thành viên của họ. Lúc chín giờ ba mươi, tôi gọi cho Jean Jeffers và được nối với thư ký của bà ấy, người mà có vẻ như đang chờ đợi tôi. Một cuộc hẹn với bà Jeffers sẽ sẵn sàng nếu tôi rảnh.
Tôi cầm một miếng bánh mì, đeo cà vạt vào và đi.
*
Trung tâm đó ở trong một tòa nhà màu tùng lam có vẻ ảm đạm trong một khu yên tĩnh ở phía Tây Los Angeles, gần một khu công nghiệp mà sự mở rộng chóng mặt của nó đã bị đình trệ. Những công trình bị gián đoạn có thể thấy ở mọi nơi trong khu: những tòa nhà xây dở, những miếng đất đá được đào móng và bị bỏ hoang thành những hố nước thải khô cạn, những biển hiệu “Để bán” bị chim bồ câu làm bẩn, những cánh cửa sổ đóng kín trên những ngôi nhà gỗ trước chiến tranh cũ nát.
Bệnh viện là nơi duy nhất còn trông được trong tổng thể công trình này. Những cửa sổ có chấn song được trang trí bằng những chậu hoa thu hải đường treo vào những thanh sắt. Chỗ trên lề đường nơi mà Hewitt ngã xuống và chết, rất sạch. Trừ hai cái xe chở hàng với rác rưởi ngổn ngang ở đằng trước thì đây có thể đã là một viện điều dưỡng tư.
Mảnh đất rộng kế bên hầu như trống và có biển đề: “Dành riêng cho nhân viên, bệnh nhân không được đỗ xe”. Tôi quyết định là một bác sĩ tư vấn ngang bằng với một nhân viên và đậu xe ở đó.
Tôi bước về phía trước của tòa nhà, đi qua phần tường đã bị máy camera của hãng truyền hình ghi lại. Một viên đá đặt nền bằng xi măng khắc tên những chính trị gia đã bị quên lãng cho thấy rằng tòa nhà này đã được truy tặng là Bệnh viện C chiến binh vào năm 1919. Cánh cửa mà Hewitt đã bước ra ngay ở phía bên phải, không có gì đặc biệt và được khóa kín bằng hai khóa, mỗi cái gần to bằng cái khóa ở sân gạch của nhà Rodriguez.
Lối vào chính là một khung bán nguyệt xỉn, qua một mái vòm thấp dẫn đến một cái sân có một vòi nước cạn. Một cái hành lang ngoài trời ở bên phải cái vòi nước, chính là con đường mà Hewitt đã qua để đến cánh cửa không bị đánh dấu đó, đã được chặn lại bởi một cái lưới sắt dày trông có vẻ mới tinh. Một hành lang mở rộng ở phía đối diện dẫn tôi quanh cái vòi phun nước đến những cánh cửa với những ô kính.
Một người bảo vệ mặc đồng phục màu xanh đứng đằng sau cánh cửa, cao, già, đen và đang nhai sing–gum. Anh ta nhìn lướt tôi, mở chốt một cánh cửa, rồi chỉ một cái máy soi bằng kim loại ở bên trái ông ta, giống như cái kiểm tra khi hành khách đi qua ở sân bay. Tôi đưa chìa khóa cho ông bảo vệ trước khi im lặng đi qua.
– Xin mời ông – Ông ta nói và đưa lại chìa khóa cho tôi.
Tôi bước đến bàn tiếp tân. Một phụ nữ da đen còn trẻ ngồi đằng sau nhiều tấm lưới.
– Tôi có thể giúp gì ông ạ?
– Tôi là bác sĩ Delaware có cuộc hẹn với bà Jeffers.
– Xin chờ cho một phút – Cô ta nhấc điện thoại. Đằng sau cô ta là ba phụ nữ nữa ngồi ở bàn đánh máy và nói chuyện điện thoại. Những cửa sổ đằng sau họ đều được chắn lại. Qua những thanh chắn tôi có thể thấy xe tải, ô tô và bóng bức tường được khắc chữ màu xám của một lối đi nhỏ.
Tôi đang đứng trong một khu nhỏ, không được trang trí, sơn màu xanh lá cây nhạt và chỉ thông được bằng một cái cửa duy nhất ở bên phải. Chắc là do bị ám ảnh bởi vụ Hewitt. Việc này gợi tôi nghĩ tới vụ một cảng bị tấn công ở nhà tù hạt và tôi tự hỏi làm thế nào mà một kẻ tâm thần phân liệt hoang tưởng hoặc một ai đó có thể xử trí được. Thật là dễ dàng biết bao cho một ai đó bị rối loạn tâm thần bày ra những chuyện từ việc cấm đỗ xe, phải qua máy soi đến cái phòng như xà lim này.
Người tiếp tân nói:
– Được rồi, bà ấy đã sắp xếp xong và nhấn nút. Cánh cửa kêu lên, không to như ở hiệu cầm đồ, nhưng đủ để khiến người ta khó chịu. Tôi mở cửa và bước vào một phòng dài màu kem có rất nhiều cửa. Những tấm thảm dày màu xám được lót dưới nền nhà. Đèn bật sáng trưng.
Hầu hết các cửa đều để trống, một vài cái được ghi “Liệu Pháp”, chỉ có một số rất ít có đề những tên người trên đó. Sơn màu kem trông có vẻ mới. Không biết người ta phải sơn bao nhiêu để che được những vết máu?
Hành lang rất yên lặng trừ tiếng bước chân của tôi giống như tiếng động chỉ có thể phát ra từ phòng cách âm. Khi tôi đi đến cuối hành lang, một cánh cửa bên trái mở ra, mọi người bước ra nhưng không hề gây tiếng động.
Ba người, hai phụ nữ và một đàn ông mặc xấu xí và cẩu thả, không đi thành một nhóm mà đi riêng lẻ. Người đàn ông có cái cằm nhô và hơi gù. Hai người phụ nữ to béo, mặt đỏ, chân bị gãy sưng phồng lên và tóc bết thành sợi. Tất cả bọn họ đều nhìn xuống thảm khi họ đi qua tôi. Tay họ cầm chặt một mẩu giấy trắng nhỏ, ở trên cùng có đóng dấu Rx.
Căn phòng mà họ bước ra có kích cỡ khoảng bằng một lớp học và chật cứng khoảng ba mươi người xếp hàng trước một cái bàn kim loại. Một người đàn ông trẻ tuổi ngồi ở bàn đó, nói ngắn gọn với người phía trước anh ta rồi điền vào chỗ trống trên tủ thuốc, đưa nó cho bệnh nhân kèm theo một nụ cười. Những người phía sau tự động dồn lên phía trước như những lon hộp trên băng chuyền. Một số đưa tay ra trước trước khi đến chỗ bác sĩ. Không có ai ra về mà không cầm theo tờ giấy và trông chẳng ai vui vẻ cả.
Tôi lại bước tiếp. Cánh cửa cuối cùng có một tấm biển đề Jean Jeffers, MSW, LCSW, Giám đốc.
Bên trong là một khu hình vuông khoảng hai mươi lăm mét vuông dành cho thư ký, có một phụ nữ trẻ mặt tròn gốc châu Á ở đó. Bàn của cô ta chỉ vừa đủ để đặt một máy vi tính cá nhân và một quyển sổ nháp. Bức tường đằng sau quá hẹp, đến nỗi một cái cửa giả gỗ màu tối gần như choán hết. Một cái radio đặt trên bàn, mở nhạc rốc nhẹ nhỏ đến nỗi hầu như chẳng nghe thấy gì. Một cái biển đề tên ở phía trước máy vi tính ghi chữ Mary Chin.
Cô ta nói:
– Bác sĩ Delaware phải không ạ? Xin mời vào bên phải, bà Jean sẽ tiếp ông.
– Cảm ơn.
Cô ta bắt đầu mở cửa. Một phụ nữ ở phía trong cầm tay nắm cửa và kéo hết về phía sau. Chị ta khoảng bốn mươi lăm tuổi, cao, tóc vàng, mặc một chiếc áo sơ mi đỏ thắm, thắt một chiếc thắt lưng rộng màu trắng ngang eo.
– Bác sĩ phải không? Tôi là Jean – Chị ta chìa tay ra. Tay chị ta to gần bằng tay tôi, nhưng mềm như lông cừu. Tay còn lại của chị ta đeo một chiếc nhẫn nạm ruby ở ngón trỏ, bên trên một dải băng cưới rộng màu vàng.
Cái hoa tai hình giọt nước và một cái vòng giả ngà voi quanh cổ tay chị ta thì thiên về màu trắng nhiều hơn. Tay kia. là một chiếc đồng hồ đeo tay nhìn khá hay.
Chị ấy có vóc người khỏe, mạnh nhưng không mập. Cái thắt lưng cho thấy một vòng eo rắn chắc. Mặt chị ấy dài, hơi bị rám nắng với những đường nét mềm mại và khả ái. Chỉ có môi trên của chị ấy hơi mỏng, không dày hơn một đường kẻ bút chì, còn môi dưới thì đầy đặn và bóng. Đôi mắt xanh đen nhìn tôi chăm chú qua hàng lông mi dưới đen mượt. Cặp mắt kính gọng vàng được buộc một sợi dây trắng quanh cổ chị ta. Tóc chị ấy lấm tấm bạc ở chân tóc, được cắt ngắn đằng sau và xếp thành từng lớp, trừ một lọn dày kiểu hồ Veronica ở phía trước. Nó xõa xuống phía phải gần như che mất mắt phải của chị. Nhìn chung chị là một người phụ nữ đẹp.
Chị ấy vuốt tóc và cười.
– Cám ơn đã tiếp tôi – Tôi nói
– Được rồi, bác sĩ ạ. Xin mời ngồi.
Văn phòng của chị rộng với một cái bàn gỗ xịn, hai cái ghế bành được bọc kín, một ô đựng tài liệu kép gồm ba ngăn, một kệ sách gần như trống và vài bức tranh chim mòng biển. Trên bàn là một cây bút, một tập giấy ghi và một chồng tài liệu.
Một tấm hình trong một cái khung để đứng, hướng về một trong số những kệ sách – chị và một người đàn ông đẹp trai, dáng người to béo trạc tuổi chị, cả hai đều mặc áo sơ mi kiểu Hawai và được tô điểm thêm những vòng hoa. Những bằng cấp công tác xã hội được cấp cho Jean Marie LaPort được đặt trên một cái kệ khác, tất cả đều từ các trường đại học ở California. Tôi nhìn ngày tháng, nếu chị ấy tốt nghiệp khi hai mươi hai tuổi thì bây giờ vừa đúng bốn mươi lăm tuổi.
– Anh là bác sĩ tâm thần bệnh viện, phải không?– Chị ấy hỏi, vẫn ngồi đằng sau bàn.
Tôi lấy một cái ghế và trả lời:
– Vâng.
– Anh biết đấy, khi thám tử Sturgis nhắc tên anh, tôi nghĩ là tôi đã biết anh, dù tôi chưa hình dung được tôi đã gặp anh ở đâu.
Chị ấy lại cười và tôi cũng cười đáp lễ.
– Làm thế nào mà một bác sĩ tâm thần lại trở thành một cố vấn của cảnh sát.
– Thật tình là do tình cờ thôi. Mấy năm trước tôi điều trị cho vài cháu bé đã bị đối xử tệ tại một trung tâm chăm sóc ban ngày. Cuối cùng tôi phải ra tòa làm chứng và dính vào hệ thống pháp luật. Vụ này dẫn sang vụ khác.
– Một trung tâm chăm sóc ban ngày... người đàn ông đã lấy những bức tranh? Kẻ có dính líu với câu lạc bộ, những kẻ quấy rối kinh khủng đó phải không?
Tôi gật đầu.
– À chắc đó là nơi mà tôi nhớ tên anh. Anh thực sự là một anh hùng, phải không?
– Không hẳn thế. Tôi chỉ làm công việc của mình.
– Hừm – Chị ấy nói, rồi ngồi lên phía trước và vuốt tóc khỏi mắt – Tôi chắc là anh khiêm tốn thôi. Nói thật với anh, đối xử tệ với trẻ em là điều không thể tha thứ. Tôi không thể làm việc một mình với công việc này. Điều đó có vẻ khá buồn cười nếu xét đến những gì chúng tôi đang xử lý ở đây.
– Nhưng trẻ em...– Chị ấy lắc đầu – Tôi thật khó có thể thông cảm cho những kẻ đối xử tệ với trẻ em như thế, ngay cả khi chính họ cũng đã từng là nạn nhân của tình trạng đó.
– Tôi hiểu ý chị.
– Đối với tôi, đó là việc tệ nhất – vi phạm lòng tin của trẻ em. Anh làm thế nào để vượt qua?
– Việc đó thật không dễ dàng. Tôi tự coi mình là một đồng minh của trẻ em và cố gắng làm những điều có thể để giúp chúng.
– Sao lại cố gắng? Anh không làm công việc đó nữa à?
– Thỉnh thoảng, khi việc đó được xem là một phần của một vụ tranh chấp quyền giám hộ. Tôi thường tham khảo ý kiến tòa án về những vấn đề tổn thương và ly hôn.
– Anh có làm công tác trị liệu không?
– Không nhiều.
– Tôi cũng vậy – Chị ấy vẫn ngồi phía sau bàn – Mục tiêu chính của tôi ở đại học là trở thành một bác sĩ điều trị, nhưng tôi không nhớ được lần cuối cùng tôi thực sự làm một cuộc trị liệu.
Chị ấy lại cười và lắc đầu. Một lọn tóc rủ xuống mắt, chị ấy vén nó về phía sau – một phong cách của giới trẻ.
– Dù sao, về việc mà thám tử Sturgis muốn, không biết tôi có thể thực sự giúp được gì. Tôi cần phải bảo đảm tính bí mật của nhân viên và bệnh nhân, mặc dù có chuyện xảy ra với Becky – Chị ấy mím môi, sụp mắt xuống và lắc đầu.
– Đó hẳn là một chuyện kinh khủng.
– Nó xảy ra quá nhanh để mà kinh hoàng. Tôi không cảm thấy kinh hoàng cho đến khi mọi chuyện qua đi. Nhìn thấy cô ấy... những điều hắn... bây giờ thì tôi đã thực sự biết trạng thái căng thẳng sau khi chấn thương có nghĩa là gì. Trăm nghe không bằng một thấy phải không?
Chị ấy lấy một ngón tay nhấn vào làn môi trên của mình như thể muốn giữ cho nó yên.
– Không ai biết hắn đang làm gì với cô ấy. Lúc đó tôi ở ngay đây, làm những công việc của mình trong suốt thời gian hắn làm chuyện đó, phòng điều trị hoàn toàn bị cách âm. Hắn... Chị ấy bỏ ngón tay ra. Một vết hằn trắng in trên môi chị, rồi từ từ trở lại bình thường. Rồi tôi nghe tiếng ồn trong phòng lớn. Chính là tiếng thét kinh hoàng đó... hắn cứ la mãi.
– Tình yêu dối trá – Tôi nói
Miệng chị ta vẫn há hốc. Đôi mắt xanh dại đi trong một chốc.
– Vâng... hắn... Tôi đi ra ngoài văn phòng của Mary và không thấy cô ấy ở đó, vì thế tôi mở cửa đến phòng lớn và thấy hắn đang la hét, vẫy vẫy con dao, máu toé ra. Hắn trông thấy tôi, tôi thấy mắt hắn cứ nhìn tôi chằm chằm và hắn vẫn cứ la. Tôi đóng cái cửa đó và khóa nó lại, trốn đằng sau cái ghế của tôi trong suốt thời gian... không phải, mãi sau tôi mới nhận ra hắn đang giữ Adeline – Chị ấy dụi mắt – Xin lỗi, anh không cần phải nghe chuyện này.
– Không, không, làm ơn...
Chị ấy liếc nhìn tập tin nhắn của mình, nó trống không. Lấy một cây bút chì chị ấy viết cái gì vào đó.
– Không, chính là chuyện đó. Tôi đã nói chuyện đó nhiều lần rồi... không ai biết hắn bao lâu... liệu cô ấy có phải chịu đựng một lúc lâu không. Đó là điều duy nhất tôi có thể hy vọng, là cô ấy đã không phải chịu đựng. Những ý nghĩ về cô ấy luôn bị khóa chặt ở đây cùng với hắn... Chị ấy lại lắc đầu và lấy tay chạm vào thái dương. Họ đã cách âm những căn phòng này từ những năm 60. Chúng tôi tin là chúng không cần thiết.
– Sao lại thế?
– Bởi vì không ai còn làm công việc trị liệu quanh đây nữa – Chị ấy hít một hơi thật sâu và vỗ nhẹ tay vào bàn – Cuộc sống vẫn tiếp diễn, phải không? Anh có muốn uống gì không? Chúng tôi có một cái máy pha cà phê ở bên kia, tôi có thể nhờ Mary đi lấy.
– Không, cảm ơn.
– Sự lựa chọn may mắn – Chị ấy cười – Bởi vì thực ra nó khá dở.
– Sao lại không có ai làm nhiều công tác trị liệu nữa? Vì dân quá phiền nhiễu sao?
– Quá phiền nhiễu, quá nghèo, và có quá nhiều người. Họ cần thực phẩm, chỗ trú thân và để không phải nghe những giọng nói. Thorazine là phương pháp điều trị và Haldol, Lithi, Tegretol và tất cả những gì có thể đuổi được ma quỷ đi. Những lời tư vấn có vẻ là một thứ hàng xa xỉ phẩm đối với họ, nhưng đối với tập thể chúng tôi cuối cùng nó trở thành một ưu tiên thứ yếu. Đó là chưa kể đến ngân quỹ. Đó là lý do tại sao chúng tôi lại không có một bác sĩ tâm lý nào. Trong đội ngũ của chúng tôi chỉ có những bác sĩ làm hợp đồng và hầu hết họ đều là nhân viên của SWA, giống như Becky.
– Trên đường vào đây tôi thấy một bác sĩ đang phát thuốc.
– Đúng vậy. Hôm nay là thứ sáu phải không? Đó là bác sĩ Wintell, một bác sĩ tâm lý của chúng tôi làm việc một tuần một lần. Anh ta vừa ra trường, đó là một chàng trai dễ thương, nhưng khi tay nghề của anh ta đã vững, anh ta sẽ rời khỏi đây như tất cả những người khác thôi.
– Nếu không ai làm công tác trị liệu, vậy thì
Becky làm gì với Hewitt trong phòng trị liệu?
– Không hẳn là như thế, chỉ là chúng tôi không làm nhiều công việc về tâm lý. Đôi khi do thiếu không gian, những nhân viên dùng phòng trị liệu để làm công việc giấy tờ của họ. Về cơ bản, tất cả chúng tôi đều dùng những gì trong tầm tay. Còn Becky đã làm gì với hắn, có thể là bất cứ chuyện gì: cho hắn một hóa đơn để đến một khách sạn SRO, nói cho hắn cần phải bắt rận ở đâu. Cứ như thế, có lẽ Becky muốn hiểu được những ý nghĩ trong đầu hắn, cô ấy là kiểu người như vậy.
– Kiểu nào?
– Một người lạc quan, lý tưởng hóa. Mà phần lớn chúng ta ban đầu cũng thế phải không?
Tôi gật đầu.
– Hewitt có tiền án dùng bạo lực chưa?
– Trong hồ sơ của chúng tôi thì không có. Hắn đã bị bắt một vài tuần trước đó vì tội ăn trộm và sắp phải ra tòa, có lẽ Becky đang tư vấn cho hắn về chuyện đó. Trên giấy tờ chẳng có cái gì mà lẽ ra có thể cảnh báo trước cho chúng ta được. Và thậm chí ngay cả khi hắn có tiền sử bạo lực, thì vẫn có khả năng thông tin đó không bao giờ có thể đến được với chúng tôi với tình trạng quan liêu như vậy.
Chị ấy đặt cây bút chì xuống và nhìn tôi, vuốt vuốt tóc.
– Sự thật là hắn chỉ như rất nhiều người khác ra vào đây, không có cách nào để biết được.
Chị ấy lấy một tập giấy.
– Đây là hồ sơ về hắn. Cảnh sát đã tịch thu nó và trả lại vì thế tôi đoán là nó không còn bí mật nữa.
Bên trong chỉ có hai tờ giấy, dính chặt với nhau. Tờ thứ nhất là đơn nhập viện, trong đó liệt kê Dorsey Hewitt, tuổi: ba mươi tám, địa chỉ: không. Dưới mục Lý do nhập viện, ai đó đã ghi là: có nhiều vấn đề về mặt xã hội. Dưới mục Chẩn đoán là: PROB, CHRON, SCHIZ. Những phần còn lại như: Dự đoán, Sự hỗ trợ của gia đình, Lịch sử bệnh tật, Các điều trị tâm lý khác đều bị bỏ trống. Không có gì về “Tình yêu dối trá”.
Ở cuối tờ đơn là những lời chú thích về việc chuyển tem thực phẩm đến, bên dưới là chữ ký R.Basille, SWA
Trang đối diện trắng trơn, chỉ ghi mỗi lời giải thích “Sẽ theo dõi nếu cần thiết, R.B, SWA”. Ngày tháng là tám tuần trước khi xảy ra vụ giết người. Tôi đưa trả lại tập tài liệu.
– Không có gì nhiều.
Chị ấy cười buồn.
– Công việc giấy tờ không phải là sở trường của Becky.
– Vậy chị không biết tí gì về việc Becky thực tế đã gặp hắn mấy lần sao?
– Anh cũng đoán được là việc đó không liên quan lắm đến kỹ năng điều hành của tôi phải không nào? Nhưng tôi không thuộc mẫu người thích lãnh đạo nhân viên và kiểm tra mọi chi tiết vụn vặt. Tôi cố tìm ra được những người tốt nhất, động viên họ và giao lại cho họ làm. Nhìn chung thì nó tỏ ra có hiệu quả. Còn với Becky... Chị ấy duỗi tay ra. Cô ấy là một con búp bê, một người thực sự ngọt ngào, không thích những luật lệ và quy chế lắm, nhưng thế thì sao nào? Chị ấy lắc đầu. Chúng tôi đã nói với cô ấy về chuyện này, giúp cô hoàn thành công việc giấy tờ đúng giờ. Cô ấy hứa sẽ cố, nhưng nói thật là tôi không đặt nhiều hy vọng lắm và tôi cũng không để ý bởi vì cô ấy làm việc rất hiệu quả: gọi điện thoại cả ngày cho các ban và tranh cãi từng xu một cho từng trường hợp cô ấy phụ trách, cô ấy về trễ, làm tất cả mọi thứ để giúp họ. Ai mà biết được là cô ấy có thể lại phải chịu cảnh đó trong trường hợp của Hewitt.
Chị ấy nhấc điện thoại.
– Mary, làm ơn mang cà phê... Không, chỉ một ly thôi...
Bỏ điện thoại xuống, chị ấy nói:
– Nỗi kinh hoàng thực sự là chuyện đó có thể được lặp lại. Giờ đây chúng tôi đã có hàng rào thép để chỉ cho họ đường ra sau khi đã lấy thuốc xong. Chính quyền hạt cuối cùng cũng điều cho chúng tôi một bảo vệ và một cái máy soi, nhưng anh nói cho tôi biết làm thế nào để đoán trước được ai trong số họ sẵn sàng làm chuyện đó.
– Chúng ta không phải là những nhà tiên tri giỏi trong những hoàn cảnh tốt nhất.
– Đúng thế. Có hàng trăm hồ sơ ở đây mỗi tuần xin thuốc và chứng từ. Chúng tôi phải để cho họ vào. Chúng tôi chỉ trở thành quan tòa khi không còn sự lựa chọn khác. Bất kỳ ai trong số họ đều có thể trở thành một Hewitt. Ngay cả khi chúng tôi muốn quản chế họ cũng không thể. Các bệnh viện công mà không bị đóng cửa thì đầy ắp bệnh nhân. Tôi không biết lý thuyết của anh về chứng rối loạn tâm thần là gì, nhưng lý thuyết của tôi là hầu hết những người bị bệnh tâm thần sinh ra đã bị như thế, đó là do cấu tạo sinh học cũng như tất cả những thứ bệnh khác. Nhưng thay vì trị bệnh cho họ chúng ta lại chê bai họ hoặc lý tưởng hóa họ và thế là họ bị rơi vào đường cùng, giữa một người có tư tưởng rộng mở – những người mà cho là họ phải được phép tự do, với một kẻ bần tiện, tự nghĩ là tất cả những gì họ cần là tự nỗ lực vươn lên.
– Tôi biết. Khi tôi còn ở đại học tất cả những thứ làm rối trí mọi người thì đầy rẫy – coi tâm thần phân liệt như một lối sống thay thế, giải phóng bệnh nhân khỏi sự chăm sóc và cho phép họ cái quyền tự trông coi lấy việc điều trị của mình.
– Cho phép họ – Chị ấy cười mà không hề mở miệng.
– Tôi có một giáo sư là một tín đồ đối với đề tài này. Ông ấy nghiên cứu hệ thống sức khỏe tâm thần ở Bỉ hoặc một nơi nào đó và viết một quyển sách về đề tài này. Ông ấy bắt chúng tôi viết một bài về việc giảm thể chế hóa. Tôi càng nghiên cứu kỹ nó thì càng thấy kém khả thi hơn. Tôi bắt đầu tự hỏi chuyện gì sẽ xảy ra với những người tâm thần, những người mà cần được cung cấp thuốc men và không hề được trông mong sẽ nhận nó. Ông ấy trả bài lại cho tôi với một lời nhận xét: “Thuốc thang là sự kiểm soát tâm thần” và cho tôi điểm C trừ.
– Tôi sẽ cho anh điểm A. Một số bệnh nhân của chúng ta không thể được trông mong tự nuôi mình, nói chi là dùng thuốc. Theo tôi, tinh giản biên chế là thủ phạm chính đối với những vấn đề của người vô gia cư. Dĩ nhiên một số người sống lang thang là những công nhân gặp chuyện xui xẻo, nhưng có ít nhất 30 hay 40% số họ bị suy giảm tinh thần nghiêm trọng. Họ lẽ ra phải thuộc trách nhiệm của các bệnh viện chứ không phải là ở một xa lộ nào đó. Và bây giờ với việc những loại thuốc kỳ lạ ngoài đường phố thì những câu sáo rỗng bệnh tâm thần không phải là bạo lực không còn đúng đắn nữa. Mỗi năm tình trạng đó ngày càng tệ hơn, bác sĩ Delaware ạ. Tôi cầu mong sẽ không hề có thêm một Hewitt khác, nhưng tôi không hy vọng.
– Chị có thử xác định bệnh nhân nào bạo lực không?
– Nếu chúng tôi có hồ sơ của cảnh sát, chúng tôi sẽ quan tâm đến vấn đề này nghiêm túc hơn nhưng như tôi nói, chuyện đó thật là hiếm. Chúng tôi phải tự mình làm cảnh sát ở đây. Nếu có ai định đe dọa, chúng tôi sẽ gọi lực lượng an ninh. Nhưng hầu hết các bệnh nhân đều rất yên lặng. Hewitt cũng thế. Điều đó thật ra không liên quan gì đến một ai khác mà tôi lo ngại. Đó là lý do vì sao có lẽ chúng tôi không giúp gì nhiều cho thám tử Sturgis. Nhân tiện, chính xác là anh ta đang điều tra cái gì vậy?
– Bề ngoài anh ấy nghi ngờ Hewitt có một người bạn, kẻ có thể đang gây phiền toái cho ai đó và anh ấy đang cố tìm ra liệu kẻ đó có phải là một bệnh nhân ở đây không?
– Sau khi Sturgis gọi cho tôi, tôi đã hỏi một số nhân viên khác xem liệu họ có thấy Hewitt thân với một người nào không và họ đều bảo không. Người duy nhất có thể biết được chuyện đó là Becky.
– Cô ấy có phải là người duy nhất làm việc với hắn không?
Chị ấy gật đầu.
– Cô ấy làm việc ở đây được bao lâu rồi?
– Hơn một năm. Cô ấy làm chân phụ tá ở một trường cao đẳng mùa hè năm ngoái và nộp đơn xin việc ngay sau đó. Cô ấy làm như một thư ký trong một thời gian, rồi quyết định trở lại trường để làm việc xã hội gì đó quan trọng. Đó là theo lời của cô ấy.
Mắt chị ấy lấp lánh và môi mím, làm cho chị có vẻ già hơn.
– Một cô gái dễ thương như thế – Chị ấy lắc đầu rồi nhìn tôi – Anh biết đấy, tôi chỉ nghĩ đến một điều. Luật sư của Hewitt, người đã biện hộ cho hắn trong vụ ăn trộm đó. Anh ta có thể biết liệu Hewitt có người bạn nào không. Tôi nghĩ là tôi có để tên anh ấy ở đâu đó, chờ một chút.
Chị ấy đến bàn đựng hồ sơ, mở ngăn giữa ra và bắt đầu lục tìm.
– Chỉ một lát thôi, có quá nhiều thứ linh tinh ở đây... anh ta có gọi cho tôi sau khi Becky bị giết, muốn biết liệu anh ấy có thể giúp gì được. Tôi nghĩ là anh ta muốn nói chuyện, để xóa bỏ mặc cảm tội lỗi khỏi tâm trí... Nhưng tôi không có thời gian... a, đây rồi.
Chị ấy lấy ra một bìa cứng kẹp các danh thiếp thương mại. Lấy móng tay bỏ cái kẹp ra. Chị ấy lấy tấm danh thiếp và đưa cho tôi.
Đó là một danh thiếp rẻ tiền, giấy trắng, chữ màu xanh.
Andrew Coburg
Luật sư
Trung tâm tư vấn quyền con người
1912 Đại lộ Lincoln
Venice, California
– Trung tâm tư vấn quyền con người – Tôi nói.
– Tôi nghĩ đó là một trong những văn phòng trước mặt cửa hàng đó.
Cửa mở và Mary mang cà phê bước vào.
Jean Jeffers cảm ơn Mary và bảo cô nói với ai đó tên là Anny là chị ấy đã sẵn sàng tiếp cô trong vài phút nữa.
Khi cửa đóng, chị bắt đầu khuấy cà phê.
– Rất vui được nói chuyện với anh, xin lỗi là tôi không thể tiếp tục được.
– Cám ơn chị đã dành thời gian tiếp tôi. Tôi có thể gặp ai để nhận được sự giúp đỡ không?
– Tôi không nghĩ ra ai cả.
– Thế còn người phụ nữ bị bắt làm con tin thì sao?
– Adeline à? Bây giờ có một chuyện thực sự rất buồn. Cô ấy được chuyển tới đây một tháng trước từ một trung tâm ở miền Trung Nam bởi vì cô ấy bị huyết áp cao và muốn một môi trường an toàn hơn.
Chị ấy lại duỗi tay ra và cười chua chát.
– Có lý do gì đặc biệt để Hewitt lại bắt cô ấy không?
– Anh có ý rằng liệu cô ta có biết hắn không chứ gì?
– Vâng.
Chị ấy lắc đầu. Một vạt tóc che mắt chị ấy và chị cứ để nguyên như thế.
– Chỉ đơn thuần là do xui xẻo thôi. Cô ấy tình cờ ngồi đúng cái bàn ngay lúc hắn chạy ra và tóm lấy cô ấy.
Jean Jeffers tiễn tôi ra cửa. Mọi người vẫn tiếp tục bước ra từ phòng của bác sĩ tâm thần. Chị ấy nhìn họ rồi nói:
– Làm sao mà anh có thể biết được một người nào đó trong số họ sẽ như Hewitt. Làm sao anh có thể thực sự biết ai được?