Chương 12
Tôi quyết định lái xe tới văn phòng của Andrew Coburg để yêu cầu anh ta giúp đỡ. Từ con đường Picô qua đường Lincoln, tôi hướng về phía Nam để tới Venice.
Văn phòng Trung tâm Tư vấn bảo vệ quyền lợi của con người nằm quay ra phía ngoài tạo thành một mặt tiền, một trong ba căn nhà là nhà một tầng, màu sơn đã cũ, mặt ngoài những viên gạch xây cũng bị tróc nham nhở. Cạnh đó là một hầm rượu đang quảng cáo về cách mở rượu đặc biệt. Phía bên kia đang để không. Trên cửa sổ của căn nhà đó có dòng chữ PELI – LUNCH AND DINNER.
Trên mặt kính cửa sổ của văn phòng tư vấn có dán mảnh giấy đã nhăn và bạc mầu. Trước cửa ra vào có một lá cờ Mỹ, trong phần vạch trắng của nó có dòng chữ “Hãy hiểu rõ hơn về các quyền của bạn”.
Cửa không khóa nên tôi cứ bước vào, chuông kêu, nhưng chẳng có ai ra tiếp tôi cả. Một bức vách chắn ngay phía trước mắt tôi, trên đó có một hình mũi tên màu đen chỉ hướng sang bên trái và một chỉ dẫn được viết tay ghi “Xin hân hạnh được tiếp đón quí vị”, dòng chữ đó cũng được dịch sang tiếng Pháp.
Trong phòng rất ồn ào do nhiều thứ âm thanh tạo nên: tiếng điện thoại kêu, tiếng lách tách của máy chữ, tiếng mọi người đang nói...
Tôi đi theo hướng mũi tên chỉ, vòng ra phía sau bức vách và bước vào một căn phòng dài nhưng hẹp. Những bức tường màu trắng đục với vô số mẫu quảng cáo, những thông báo... Trần nhà cao và chằng chịt những đường ống dẫn, dây điện và đèn ống huỳnh quang...
Ở đây chẳng có một cô thư ký hay một người tiếp tân nào. Quanh căn phòng người ta đặt khoảng tám hay chín chiếc bàn làm việc. Trên mỗi bàn đều có đặt một máy điện thoại màu đen, một máy chữ và một ghế ngồi. Phía sau mỗi ghế là một ống PVC hình chữ U, trên treo rèm muslin trắng, loại vải giống như trong bệnh viện. Ở một số bàn làm việc thì rèm được buông kín, một số bàn khác rèm vẫn được kéo lên. Phía dưới những tấm rèm lộ ra những đôi giày, những ống quần đang xắn lên.
Ngồi phía sau những chiếc bàn đó là những người trẻ tuổi, họ đang nói chuyện điện thoại hoặc đang tiếp khách. Những người được đón tiếp hầu hết là người da đen hoặc người Tây Ban Nha. Một vài người trông rất mệt mỏi hoặc buồn ngủ. Có một người đàn ông trông cũng chững tuổi nhưng khó có thể phân biệt được ông ta thuộc dân tộc nào. Trên tay ông ta đang ôm một con chó lai cao. Tiếp đến là mấy em bé trông rất tiều tụy, đang ngơ ngác ngó nhìn xung quanh.
Ngồi sau cái bàn gần tôi nhất là một người đàn ông có bộ tóc đen, khoác chiếc áo xanh kẻ ô, áo sơ mi màu trắng và một chiếc cavát to bản. Ông ta có bộ râu chưa cạo, tóc được chải bóng, khuôn mặt thông minh, nhưng hết sức lạnh lùng. Mặc dù trên tay đang cầm điện thoại, nhưng ông không vội nghe người đầu dây bên kia mà ngước mắt nhìn tôi và hỏi:
– Tôi có thể giúp gì cho ngài?
– Tôi muốn tìm ông Andrew Coburg.
– Ở đằng kia kìa! – Ông ta hất cái đầu nhỏ của mình để chỉ hướng cho tôi, một cử chỉ mang nhiều ý nghĩa lắm. Ông ta nói tiếp – Nhưng tôi e rằng anh ta đang bận tiếp khách đấy!.
– Ở bàn nào thưa ông? – Tôi hỏi
Ông ta đặt ống nghe xuống rồi xoay ghế và chỉ cho tôi chiếc bàn nằm ở giữa phòng. Phía đó tấm rèm che đang buông, bên dưới rèm lộ ra đôi giày cầu thủ bóng chày chuyên nghiệp bẩn thỉu cùng một đôi cẳng chân đầy lông.
– Thưa ngài, liệu tôi có thể ngồi đợi được không?
– Ồ, dĩ nhiên rồi. Anh có phải là một luật sư không?
–Dạ, không.
–Anh có thể ngồi đợi – Nói xong ông ta nhấc điện thoại lên và bấm lia lịa. Có ai đó nói ở đầu dây bên kia, vì tôi thấy ông ta trả lời:
– Xin chào, Hank đây, hãy đến H.I nhé. Ừ, tôi cũng vậy, ừ, và ông ta cười. Nghe này, thế còn vấn đề mà chúng ta đã bàn bạc thì thế nào? Hãy đến và kiểm trả đi nhé... ừ, tôi cũng nghĩ vậy, ừ.
Tôi đứng lên, đọc mấy tờ ghi trên tường. Một trong số đó có hình biểu tượng con đại bàng trắng kèm dòng chữ “Hãy cùng là một dân tộc”', bên cạnh có dòng chữ tiếng Tây Ban Nha ghi “Hãy làm gì đó cho những người nhập cư và cho sự tự do”.
Người đàn ông có bộ mặt lạnh bắt đầu chuyển sang biệt ngữ của giới luật sư. Chiếc bút của ông ta cầm trong tay bị vung lên rất mạnh, thỉnh thoảng ông lại cất tiếng cười. Cuộc nói chuyện vẫn tiếp tục khi phía bàn làm việc của Coburg chiếc rèm được kéo ra. Một người đàn ông gầy gò mặc một chiếc áo len bẩn thỉu và một chiếc quần lửng cắt ngắn. Anh ta cạo râu sạch sẽ và chải tóc gọn gàng. Tim tôi chợt thắt lại khi nhìn thấy anh ta, bởi vì trông anh ta rất giống người anh em của Dorsey Hewitt. Nhưng ngay lập tức tôi nhận ra mình đã nhầm, đó là một người bần cùng, nghèo khổ.
Anh ta và Coburg bắt tay nhau, rồi anh ta bước đi trong tâm trạng phiêu diêu. Khi bước ngang qua tôi, mùi tanh hôi sộc lên khiến tôi phải quay đi. Anh ta cũng tiến lại phía Hank, nhưng vị luật sư này không để ý và vẫn tiếp tục nói, cười qua điện thoại.
Coburg vẫn đứng đó và đang lau tay. Anh ta thở hổn hển, ngáp và vươn vai. Anh ta chạc tuổi ba mươi, khuôn mặt trái xoan trắng trẻo, tay quá ngắn so với thân hình dài ngoẵng. Bộ tóc màu đồng thau, mỏng, lẹm về một phía. Khuôn mặt anh ta mịn màng, hai má hồng hào giống như một búp bê xinh đẹp. Anh ta mặc một chiếc áo sơ mi công sở, tay áo vén cao lên tận khuỷu, chiếc cavát có hoa văn nhỏ, chiếc quần kaki nhàu và đôi giày hình yên ngựa, một chiếc dây đã tuột ra từ lúc nào.
Anh ta vươn vai một cái nữa, nhấc ống điện thoại và quay số. Hầu hết các luật sư ở bàn khác cũng đang cầm ống điện thoại. Căn phòng hệt như một tổng đài lớn vậy.
Tôi bước tới gần anh ta. Anh ta nhướng mày nhìn tôi. Tôi ngồi xuống nhưng anh ta không cảm thấy phiền. Ngày nào họ chẳng bị làm phiền thế chứ!
Anh ta đang nói điện thoại, “Nghe này, phải đấy, cái gì cơ? đúng rồi... Tôi chấp nhận điều đó cho đến khi chúng ta hiểu rõ mọi chuyện, đồng ý chứ? Gì... không, tôi đang có khách. Đồng ý. Chào?
Anh ta dập máy và hỏi rất nhã nhặn:
– Xin chào. Tôi có thể giúp gì không? Anh ta có chiếc cavát gắn đồ trang sức rất đặc biệt, một chiếc đàn ghi ta màu đỏ có gắn những thanh bạc.
Tôi giới thiệu cho anh ta biết tôi là ai và cố gắng thể hiện mình là một trong số người bạn của Dorsey Hewitt.
– Dorsey. Một thắng lợi của tôi – Anh ta nói nhưng không còn nhã nhặn nữa. Ngả người về phía sau, bắt chéo chân và anh ta hỏi tôi:
– Thế hiện giờ anh đang làm cho tờ báo nào vậy?
– Tôi là một nhà tâm lý học, như tôi đã giới thiệu.
Anh ta mỉm cười và nói:
–Thật thế sao?
Tôi cũng cười đáp lại:
– Đúng vậy.
– Và cũng là một thanh tra cảnh sát phải không?
– Vâng.
– Nếu ông không thấy phiền tôi muốn xem qua giấy tờ của ông có được không?
Tôi cho anh ta xem giấy chứng nhận tâm lý, thẻ học y khoa và thẻ LADD cũ của tôi.
– Là một cảnh sát thì anh sẽ gặp nhiều rắc rối đấy – Anh ta nói mà có vẻ như không tin vào điều đó.
– Về phương diện nào vậy?
– Trong môi trường của cảnh sát thì sẽ không có chuyện khoan dung mà chỉ có sự độc đoán thôi.
Tôi trả lời anh ta:
– Không hẳn vậy đâu, họ cũng giống như mọi người vậy.
Nhưng anh ta vẫn cố chấp.
– Đó không phải là những gì mà tôi chứng kiến – Anh ta với lấy hộp cam thảo ở gần bàn chữ và lôi ra một thanh đưa cho tôi.
– Không, cám ơn.
– Anh bị huyết áp sao?
– Không.
– Vị của cam thảo sẽ làm cho huyết áp tăng lên, anh ta nói khi bắt đầu nhai, ý tôi nói rằng cảnh sát là rất tệ. Khởi đầu bao giờ họ cũng là người tốt, nhưng trong quá trình làm việc thì càng ngày càng tệ: quá nhiều áp lực và quá nhiều trách nhiệm.
– Tôi cho rằng chuyện đó cũng xảy ra với nghề khác, như nghề bác sĩ hay nghề luật sư vậy.
Anh ta cười:
– Không giống như vậy đâu. Thái độ anh ta chợt thay đổi khi nói: Vậy, tại sao cảnh sát lại cần phải biết thông tin về bạn bè của Dorsey?
– Tôi giải thích cho anh ta biết rằng tôi đã giúp đỡ Jean Jeffers.
Chuông điện thoại vang lên làm gián đoạn câu chuyện của chúng tôi. Anh ta nhấc ống nghe và bắt đầu nói:
– Cái gì? Được, chắc chắn rồi... chào Bill, cái gì? Cái gì? Anh có bị dở hơi không hả? Không đi đâu cả, không nói gì cả. Tôi nói vậy đấy. Chúng tôi cho đấy là một sự khinh miệt. Tôi không quan tâm anh ta là ai, hiểu chưa. Hãy làm việc đó. Ý kiến hay đấy. Hãy nói cho anh ta biết và quay về gặp tôi. Chào!
Anh ta đặt máy xuống, rồi nói:
– Chúng ta đang dừng ở đâu nhỉ... ồ vâng, sự quấy rầy, loại gì vậy?
– Tôi không được biết tường tận các chi tiết.
Anh ta ngả đầu về phía sau và nheo nheo mắt. Anh ta có cái cổ dày và mềm. Hai cánh tay anh ta gập lại phía trước bụng và không cử động.
– Cảnh sát yêu cầu anh đến đây để điều tra, nhưng lại chẳng cho anh biết một thông tin cụ thể nào cả. Thật là một kiểu đặc thù. Và hơn nữa tôi không phải là người đi làm thuê.
Không hề chạnh lòng trước những câu nói như vậy, tôi nói:
– Có một ai đó đã gửi các cuốn băng gây rối, trong đó có giọng nói của Hewitt cùng với tiếng hét – “Tình yêu dối trá”... nó giống như tiếng thét khi anh ta giết Becky Basill.
Coburg suy nghĩ một lát rồi cất tiếng:
– Vậy sao? Có ai đó đã ghi lại ở đài truyền hình chăng. Ở đó không thiếu gì người lạ. Tất cả đều bắt chúng ta phải tìm kiếm.
– Có thể phải vậy – Tôi trả lời – Nhưng cảnh sát cho rằng cần phải lưu ý hơn đến điều đó.
– Ai đã đưa cuốn băng đến đó?
– Tôi không biết.
– Chắc chắn là có người nào đó rất quan trọng đối với cảnh sát, đang gặp rắc rối trong câu chuyện này.
Tôi nhún vai đáp lại lời phỏng đoán và nói:
– Anh có thể hỏi họ.
Tôi đưa anh ta tên và số của Milo. Nhưng anh ta cũng không thèm ghi lại.
Bỏ một thanh cam thảo nữa vào mồm, anh ta tiếp tục:
– Chuyện về cuốn băng ấy, vấn đề lớn nhất ở đây là gì?
– Cảnh sát đang điều tra xem Hewitt liệu có người bạn nào thân thiết không? Có ai đó có ảnh hướng đến công việc anh ta đang làm không? Có ai đó cũng đang gặp nguy hiểm không?
– Có ảnh hưởng không á? Lúc này trông anh ta có vẻ không tự nhiên. Liệu có một tập thể nào đó gây rối không? Có thể những người qua đường họ đã tới chăng?
– Hewitt không phải là hạng người dễ bắt nạt.
Anh ta bắt đầu vân vê thanh cam thảo.
– Thực tế thì anh ta lại vô hại đến mức đáng ngạc nhiên khi anh ta đang trong thời gian uống thuốc. Và vào một ngày đẹp trời nào đó anh có thể được gặp anh ta và sẽ thấy rằng anh ta hoàn toàn tốt.
– Thế thì anh ta đã gây án khi anh ta hết thuốc sao?
– Đó là những gì mà các nhân viên điều tra đã nói. Đã có quá nhiều lượng cồn và không đủ chất Thorazine. Anh ta đã được đưa đến điều trị ở khoa hóa sinh và sẽ phải ngừng uống thuốc một tuần hoặc hơn thế.
– Tại sao vậy?
– Ai mà biết được điều đó? Tôi nghĩ rằng đó là một quyết định khá tỉnh táo. Hừm, hãy đoán xem nếu sáng nay anh ta không uống thuốc thì chuyện gì sẽ xảy ra. Rất có thể anh ta đã chạy đi kiếm thuốc, rồi sau khi có thuốc anh ta quay trở về. Sau đó, khi anh ta trở nên điên loạn hơn thì anh ta sẽ quên hẳn những viên thuốc, và tại sao anh ta vẫn đến và lấy được chúng đầu tiên. Mọi chuyện xảy ra trong cuộc sống thường nhật đôi với họ đều rắc rối, nhưng tất cả đều được đánh dấu trong các chuỗi sự kiện, hình ảnh in lại trong tiềm thức và biến thành hành động như được sắp sẵn theo lịch trình.
– Tôi không biết điều đó! Tôi đã từng đến các trung tâm và tự hỏi không biết làm sao mà những người bệnh ở đó có thể chịu đựng được.
– Vấn đề không phải là làm sao họ có thể chịu đựng được, mà kể cả khi họ tuân theo các quy định của trung tâm thì họ cũng vẫn phải ra đi. Đó là điều mà ngài Recession đã nói: Anh có ý kiến gì về một người bệnh không có tiền, anh ta sẽ gặp khó khăn thế nào khi họ muốn giúp đỡ ở cái thành phố này không?
– Tôi có, chắc chắn vậy. Tôi đã từng làm việc mười năm ở bệnh viện Western Pediatric.
– Ở Hollywood ư?
Tôi gật đầu.
– Ờ, tốt thôi, như vậy anh đã biết tôi không hề muốn che đậy những việc mà Dorsey đã làm. Một cô giáo đáng thương, một cơn ác mộng đối với tất cả các nhân viên điều tra. Tôi vẫn không thể nào quên được điều đó. Nhưng anh ta cũng là một nạn nhân, nghe có vẻ là vớ vẩn. Đáng lý ra anh ta phải được chăm sóc chứ không phải là bị loại ra.
– Với tính chất từ thiện chăng?
Đôi mắt anh ta nảy lửa, đến nỗi chúng chuyển thành màu vàng.
– Phải quan tâm đến mọi thứ, chứ không phải là các nhà giam. Ồ, mà kể cả trại giam thì cũng có gì là xấu, nếu như ở đó có các biện pháp chăm sóc, chữa trị. Nhưng đáng buồn là các điều kiện đó không hề có.
– Liệu anh ta có bị điều tra tâm lý dài ngày không?
– Tôi không biết. Anh ta không được gặp ai, thậm chí là nói một lời cũng không được... Vậy anh hãy kể về mình đi, anh bạn. Có lẽ anh ta đã đến một nơi nào khác rồi.
– Anh ta là người ở đâu, nơi sinh của anh ta?
– Anh ta là người vùng Okalahoma, như tôi đã biết. Nhưng anh ta đã đến sống ở L.A nhiều năm rồi.
– Anh ta sống lang thang sao?
– Từ khi anh ta còn là một cậu bé.
– Anh ta có sống cùng gia đình nào không?
– Theo tôi biết thì không.
Coburg lấy thêm một thanh cam thảo đưa lên miệng, một tay chỉnh lại chiếc cavát. Dường như anh ta đang nghĩ đi đâu đó.
Anh ta đưa tay nhấc điện thoại. Điều đó hàm ý là câu chuyện của chúng tôi đã kết thúc.
– Anh đang chơi loại nhạc gì vậy? – Tôi liếc nhìn chiếc gài áo hình cây đàn ghi ta và hỏi.
– Anh hỏi gì nhỉ? Ờ, cái này chứ gì? Tôi chỉ chơi vào những ngày cuối tuần thôi.?
– Tôi cũng vậy. Trên đường đi làm tôi thường đi qua trường nghệ thuật, ở đó có chơi ghi ta.
– À, vậy ư? Có rất nhiều thanh niên chơi loại nhạc cụ này – Anh ta kéo cavát xuống và nhìn lên trần nhà suy tư.
– Anh thường chơi thể loại nào, ghi ta điện hay thường?
Anh ta cười và nói:
– Sau này tôi đã chuyển sang chơi ghi ta điện. Có chuyện gì vậy? Có mối liên quan gì đến chuyện của chúng ta đang bàn sao? Hãy nắm lấy nó, ít nhất thì cũng đừng đi theo cách mà cảnh sát và các ngài công tố hay làm... đừng gán ghép cho tôi những gì mà Dorsey đã làm mà hãy hỏi tôi xem bằng cách nào tôi có thể sống được để bào chữa cho những tội lỗi xảy ra.
– Đó là vì tôi chẳng có rắc rối gì ca – Tôi nói và là một tập thể tốt trong đó anh là một người quan trọng. Ồ, không phải tôi có thái độ kẻ cả với anh đâu nhé.
Anh ta dang hai tay ra và kêu lên một tiếng “nhoa”
Tôi phải bật cười vì hành động đó.
Anh ta nói:
– Thực ra thì đó đúng là một tập thể tốt. Tôi tin rằng nếu anh mà được gặp người phụ trách thì anh sẽ không cho rằng họ là những người tuyệt vời đến vậy đâu. Đó là những chủ nô lệ, những con mèo béo mập và họ sẽ cho anh thấy một điều là họ không quan tâm đến phụ nữ hay trẻ em.
Tiếng điện thoại lại vang lên. Anh ta vừa nói điện thoại vừa nhai kẹo. Đầu dây bên kia là một luật sư, họ trao đổi về một vụ kiện tụng sắp tới, giọng anh ta không hề thay đổi.
Khi đặt máy xuống, anh ta nói:
– Chúng tôi đang cố gắng làm những việc mà nhóm Founding Father không quan tâm.
– Ai là người đã trợ cấp cho nhóm đó?
– Các tổ chức từ thiện. Họ là những nhà tài trợ cho nhóm.
– Tôi sẽ suy nghĩ thêm về việc này.
Anh ta nhe răng cười:
– Chắc chắn là thế rồi. Chúng ta cũng hỗ trợ nhé, lương ít, không có thu nhập thêm. Chính vì điều đó họ sẽ phải ra đi vào năm tới, khi có quyết định mới về quyền nhà cửa và xe hơi nhập khẩu của Đức.
– Thế anh thì sao?
Anh ta cười phá lên và nói:
– Tôi à? Tôi là một chiến binh kỳ cựu: năm năm trường đời từng trải. Và thật là ngu xuẩn nếu chỉ có hưởng thụ mà không làm việc, hay làm vấy bẩn những gì mình đã có.
Anh ta quay đi một cách giận giữ.
– Đồng ý là sự việc có xấu đi – Cách nói của anh ta như thể đáp lại một câu chất vấn – Dorsey đã làm gì để mọi việc trở nên tồi tệ đến mức như vậy – Đôi mắt anh ta sáng quắc – Lạy chúa Jesus, đó là một bi kịch, sao ngài có thể để chuyện xảy ra như thế? Một bi kịch đáng nguyền rủa. Tôi biết là tôi đã chẳng thể nào làm khác được, nhưng lẽ ra mọi việc cũng không đáng xảy ra như vậy. Nó mới chỉ bắt đầu thôi mà, và bạn sẽ làm gì khi mà xã hội đang đi xuống theo đà của những vụ chia chác? Tôi chưa bao giờ thấy ở Dorsey một thái độ bạo loạn nào cả. Không bao giờ. Tôi thấy thật bất tiện khi nói rằng anh có nét hơi giống anh ta. Anh ta luôn dịu dàng: giọng nói nhẹ nhàng và rất kiệm lời. Anh ta là một trong những khách quen của tôi và là khách hàng dễ tính nhất. Trông anh ta có vẻ hoang tưởng, nhưng luôn ở trạng thái kiềm chế và anh ta không bao giờ biết giận một ai.
– Anh ta mắc chứng hoang tưởng gì vậy?
– Cũng như mọi khi, có những giọng nói xuất hiện trong đầu anh ta, ra lệnh cho anh ta làm những điều ngốc nghếch, như việc đi qua đường sáu lần trong ngày, rồi uống nước cà chua... tôi không nhớ rõ mọi việc lắm.
– Những giọng nói đó làm anh ta tức giận à?
– Chúng đã làm cho anh ta cảm thấy bức bối. Nhưng không, tôi không thể gọi đó là sự tức giận. Những chuyện đã xảy ra đối với anh ta chứng tỏ rằng những giọng nói ấy không dứt ra khỏi đầu anh ta được. Tôi đã chứng kiến điều đó xảy ra rất nhiều lần rồi. Thường xuyên như vậy và phải đối mặt với nó thôi. Không có sự tức giận hoặc thù địch nào. Đó là điều chắc chắn.
– Chuyện đó xảy ra cùng thời gian khi anh ta dùng thuốc phải không?
– Tôi cho rằng anh ta đã dùng thuốc vì anh ta luôn đối tốt với tôi.
– Anh và anh ta đã quen biết nhau như thế nào?
– Tôi không nghĩ là tôi nhớ điều đó. Tôi phải chịu trách nhiệm pháp lý cho anh ta.
– Anh gặp anh ta khi nào?
Một lần nữa anh ta ngước nhìn lên tờ lịch.
– Anh hãy xem đây... chuyện đã xảy ra cách đây một năm rồi.
– Anh đã tìm đến với vụ này à?
– Không. Anh ta đã bị đưa ra tòa.
– Anh đang thụ lý bào chữa cho loại trộm cắp nào vậy?
Anh ta cười và nói:
– Thế bên cảnh sát không cho anh biết sao?
– Tôi không nhất thiết phải biết nhiều hơn những gì tôi cảm thấy cần thiết.
– Anh thật thông minh đấy. Trộm cắp ư, đó là một sự phóng đại. Anh ta chỉ lấy có một chai rượu Gin nhỏ ở quầy và một hay hai gói thịt bò khô gì đó. Nhưng anh ta đã bị một nhân viên đứng quầy phát hiện, rồi bị khám xét. Tôi tin rằng anh ta không cố ý lấy trộm. Người nhân viên đó gần như đã làm gãy tay anh ta.
– Anh định sẽ bào chữa thế nào?
– Theo anh thì nên thế nào?
– Hãy thương lượng.
– Còn gì nữa không? Anh ta chỉ mới phạm vài tội lặt vặt thôi. Mà trong trại tù thì lại đang quá chật chội.
Anh ta đứng dậy, đan ngón tay vào tóc, xoa xoa vài cái rồi nói: “Gritz”.
– Xin lỗi, anh nói gì?
– Đó là một cái tên, Gritz.
– Tên người à?
– Có chữ z. Đó là cách tiếp cận mà tôi hay áp dụng với những người tôi cho rằng là bạn của Dorsey.
– Đấy là họ hay tên vậy?
– Tôi không biết. Anh ta đến đây cùng Dorsey, khoảng một hay hai lần gì đó. Một kẻ lang thang. Lý do để tôi biết được tên anh ta đơn giản là vì anh ta cứ lượn lờ ở đó – Coburg chỉ về phía bức vách chắn ở cửa ra vào rồi nói tiếp – Tôi đã hỏi Dorsey và biết được tên người đó là Gritz. Và tôi cũng có câu hỏi giống như anh. Tôi đã quan sát anh ta và cố gắng giải thích đó là họ hay tên. Anh ta đã cho biết đó là một cái tên và chữ cái cuối cùng là z. Đồng thời anh ta đánh vần chậm các chữ cái cho tôi, như thể lồng cảm xúc vào trong giọng đọc vậy. Tôi cho rằng anh ta cố tình làm ra vẻ như vậy.
– Anh ta cố tạo ra sao?
– Anh ta là một người bị chứng tâm thần phân liệt. Vậy anh nghĩ sao?
– Có bao giờ anh ta nhắc đến câu “Tình yêu dối trá” chưa?
– Lần đầu tiên tôi được nghe đến điều đó từ phía cảnh sát. Họ đã hỏi tôi tại sao Dorsey lại hét lên như thế, cứ như thể tôi là người biết tất cả mọi điều – Rời người ra khỏi chiếc bàn, anh ta kéo ghế và ngồi xuống – Đó là những gì anh ta viết.
– Anh có thể mô tả về anh chàng Gritz kia không?
Suy nghĩ một lát vị luật sư nói:
– Anh ta trạc tuổi Dorsey... dù cho những người lang thang thường rất khó đoán. Phom người nhỏ hơn Dorsey, tôi nghĩ rằng... – Anh ta liếc nhìn đồng hồ – Xin lỗi, tôi có hẹn gọi điện cho một người.
Tôi đứng dậy và cám ơn anh ta đã tiếp tôi.
Anh ta vẫy tay chào rồi nhấc điện thoại.
Tôi hỏi thăm một chi tiết nữa khi anh ta đang quay số
– Anh sẽ cho tôi biết nơi ở của Gritz chứ?
– Không.
– Có thể đến gặp Gritz ở đâu?
– Anh ta có mặt ở mọi nơi, hơn nữa tôi không phải là một quả bóng. Khi nào trời trở nóng thì anh ta ra biển Pacific Palisales Park, lượn lờ trên chiếc xe hiệu PCH. Còn khi trời mát mẻ, tội thấy anh ta xuất hiện ở các ổ gái điếm, hoặc ở SRO một đôi lần, nhưng kỳ thực anh ta thích ngủ ngoài trời, thường là con đường Little Calcutta.
– Con đường đó nằm ở đâu vậy?
– Đó là con đường cao tốc, nằm phía nam L.A.
– Đường cao tốc nào nhỉ?
– Con đường San Diego, nó đi qua Sepulveda. Có lẽ anh chưa từng được biết đến nó đâu.
Tôi gật đầu.
Anh ta cười, gật đầu phụ họa, rồi buông ống điện thoại.
– Thành phố này chưa biết tới... Ở đó toàn những túp lều nhỏ rách nát được gọi với cái tên Komfy Kort... Có Chúa mới biết được nơi đó xuất hiện từ bao giờ. Những khu nhà dành cho dân lao động sau một ngày làm việc gọi là Sawtelle.
– Chỗ đó thì tôi nhớ rồi.
– Anh có để ý thấy là họ không còn ở đó nữa không? Thành phố đã xóa bỏ khu đó vài năm trước và dân lang thang đã kéo nhau về khu xóm nghèo này. Chẳng còn chuyện gì để làm với đống đổ nát đó ngoài việc thành phố sẽ tống cổ họ ra khỏi khu đó. Dường như có một phép thuật nào đó bao trùm, nên mọi cái ở đó trở nên quá đắt. Chính vì vậy thành phố đã quyết định để cho nó tồn tại.
– Calcutta nhỏ bé.
– Vâng, đó là một vùng ngoại ô nhỏ nhưng đẹp. Trông anh có vẻ rất giống một gã đến từ phía Tây lắm hoặc quanh đâu đó gần đây.
– Không xa đến vậy đâu.
– Anh hãy đến đó và sẽ tận mắt chứng kiến mọi cái, đồng thời anh sẽ có cơ hội tìm kiếm người bạn của mình.