← Quay lại trang sách

Chương 26

Hơn một giờ, chuông điện thoại đánh thức tôi dậy. Sau khi tắm, cạo râu, tôi ngắm nhìn cảnh vật xung quanh. Đối diện với khách sạn tôi ở là một tòa nhà bằng gạch màu đỏ. Qua những khung cửa sổ tôi trông thấy những người đàn ông ăn mặc lịch sự ngồi bên bàn giấy nói chuyện điện thoại, tay cầm bút huơ huơ. Nhìn xuống dưới đường, xe cộ đi lại tấp nập. Tiếng còi xe kêu inh ỏi. Từ phòng ở của mình tôi vẫn có thể cảm nhận được nhịp sống của thành phố.

Hơn chín giờ tôi gọi điện cho Robin. Chúng tôi nói chuyện với nhau một lúc trước khi tôi nói chuyện với Milo.

– Anh đang đi khám phá mọi thứ hay đang lánh nạn vậy?

– Có lẽ cả hai. Cảm ơn anh đã quan tâm tới Robin và kẻ lang thang này.

– Có gì đâu. Tôi có một vài thông tin về Gritz đây. Tôi theo dấu vết của hắn tới một thị trấn nhỏ ở Georgia. Tôi cũng đã nói chuyện với cảnh sát trưởng ở đó. Hắn có vẻ như một đứa trẻ kỳ quặc. Hắn hành động điên rồ, đi đứng rất buồn cười, hay lẩm bẩm điều gì đó. Hắn cũng chẳng có bạn bè. Hắn bỏ học nhiều hơn đi học. Cuộc sống ở gia đình hắn rất tồi tệ. Hắn không có cha, hai mẹ con hắn phải sống trong một chiếc xe moóc ở ngoại ô thành phố. Hắn hay rượu chè, móc túi, trộm cắp. Một lần hắn đánh nhau với một kẻ mạnh hơn và bị thua. Cảnh sát trưởng nói hắn thường xuyên bị giam giữ. Tuy nhiên việc đó cũng chẳng là gì, với hắn nhà giam cũng tốt như nhà hắn, có khi còn tốt hơn. Hắn thường hay hát và nói chuyện một mình khi bị giam trong phòng.

Tôi nói:

– Những biểu hiện đó giống những biểu hiện ban đầu của bệnh tâm thần phân liệt hơn là bệnh thần kinh. Điều đó không phù hợp với những dự đoán của chúng ta.

– Không hẳn thế. Có thể khi trưởng thành hắn đã thay đổi tính cách.

– Còn người tên Silk? –Tôi hỏi.

– Có thể hắn là một kẻ giả mạo. Có lẽ tất cả những kẻ tâm thần đều như vậy?

– Họ luôn làm như vậy. Thế còn điều cảnh sát trưởng nói có đúng không?

– Không. Ông ấy nói đứa trẻ có khả năng đặc biệt về âm nhạc. Nó tự học chơi ghita, đàn kéo một dây, trống và hàng loạt các nhạc cụ khác.

– Hậu duệ của Elvis?

– Đúng. Có lúc mọi người nghĩ hắn rất có triển vọng. Khi hắn rời thị trấn chẳng ai biết tin gì về hắn nữa.

– Việc đó xảy ra lâu chưa?

– Năm 1970.

– Khi đó nó mới chỉ mười hai tuổi. Không biết tại sao nó lại bỏ đi?

– Cảnh sát vừa bắt nó vì tội say rượu. Sau đó cảnh sát lại cho nó tiền cắt tóc và mua quần áo. Người ta nghĩ nếu một đứa trẻ trông sáng sủa, sạch sẽ hơn, có thể chúng sẽ cư xử tốt hơn. Lyle ra khỏi đồn cảnh sát, đi đến ga tàu hỏa. Sau đó cảnh sát mới biết nó dùng tiền đó để mua vé đến Atlanta.

– Mười hai tuổi. Có thể nó đến Santa Barbara và được bác sĩ de Bosch nhặt về nuôi dưỡng. Ông ta có vẻ thích làm việc thiện trước mặt mọi người.

– Ước gì tôi có dữ liệu về ngôi trường. Khắp thành phố cũng chẳng có tin tức gì về nó.

– Thế Cục điều tra Liên bang thì sao? Nếu de Bosch yêu cầu chính phủ hỗ trợ cho những trường hợp nhân đạo thì chắc chắn phải có văn bản nào đó chứ?

– Không biết những cơ quan đó giữ lại tài liệu từ năm nào, tôi sẽ kiểm tra lại. Tôi đang cố dựng lại cuộc sống của đứa trẻ này. Lần đầu tiên nó xuất hiện ở California trong một vụ bắt giữ cách đây chín năm. Trước đó không có dữ kiện về NCIC, vì thế hơn mười năm qua hắn rời Georga và bắt đầu cuộc sống ở vùng biển phía Tây. Nếu hắn bị bắt giữ ở những thành phố nhỏ, hắn sẽ may mắn không bị đưa vào hệ thống dữ liệu quốc gia trên máy tính. Tuy nhiên anh vẫn có thể hy vọng điều gì đó. Không biết bây giờ hắn ở đâu.

– Thế còn một bệnh viện tâm thần nào đó thì sao?– Tôi nói – Mười hai tuổi. Có Chúa mới biết điều gì sẽ xảy ra với một đứa trẻ lang thang trên phố. Có thể nó phải chịu đựng một áp lực tinh thần nào đó, cũng có thể nó học cùng với Delmar Parker và chứng kiến cái chết của Delmar nên cảm thấy thất vọng.

– Đúng đấy. Nó và Delmar biết nhau.

– Có nhiều bằng chứng đi theo hướng này. Nó và Delmar cùng độ tuổi. Cả hai đều là người miền Nam bỏ nhà đi. Có thể Gritz đã kết bạn với Delmar và giúp Delmar ăn trộm xe. Nếu nó làm như vậy và thoát chết thì khi chứng kiến cái chết của Delmar nó có thể đã rất tuyệt vọng. Về phương diện tâm lí học mà nói điều này rất nghiêm trọng, vì người thân yêu duy nhất bên cạnh nó lúc đó đã chết.

– Vì thế nó đổ lỗi cho trường học, cho de Bosch và tất cả những người liên quan đến việc đó?

– Chắc chắn như vậy. Tôi chỉ mong chúng ta có thể tìm ra bằng chứng rõ ràng.

– Có biết thông tin nào về mẹ của Parker không?

– Bà ta sống ở New Gileans. Tôi cũng chẳng tìm thấy một người họ hàng nào khác. Còn chuyện về Silk và Merino thì sao? Tại sao hắn là người miền Nam mà lại có mặt ở đó?

– Có thể hắn bị lạc đường.

– Khi nào anh gặp con của Rosenblatt?

– Hai giờ nữa.

– Chúc may mắn. Đừng lo lắng gì, mọi việc ở đây đều ổn. Cô Cartagna sẽ đến đây, có lẽ chúng tôi sẽ giữ cô ấy lại.

– Tôi không nghĩ vậy.

– Tại sao lại không? Anh ấy nói và cười khúc khích.

*

New York trông như một tấm bản đồ chằng chịt. Tất cả các góc phố, các ô cửa sổ và những mái nhà đều hiện lên rõ nét dưới bầu trời trong xanh.

Tôi tới văn phòng luật ở đại lộ 5 theo hướng về phía Nam. Đại lộ 5 là một con đường bằng đá dài ba trăm mét. Con đường bằng đá cẩm thạch và đá granit xám. Tôi đến đó lúc một giờ, nghỉ ngơi, rồi đi lại một lúc quanh tòa nhà. Tôi chẳng biết phải làm gì trong thời gian chờ đợi. Vì thế tôi mua một suất xúc xích ăn nhanh. Tôi ngồi ăn và nhìn mọi người đi lại. Sau đó tôi đến chi nhánh chính của thư viện công cộng gần đó để xem báo. Sau một lúc xem tập báo chí xuất bản định kỳ tôi tìm thấy mục cáo phó về cái chết của Harvey Rosenblatt trên tờ báo New York cũ từ bốn năm trước.

Tôi nghĩ đến Rosenblatt. Ông là nhà vật lí trị liệu tốt bụng và cởi mở. Ông hào hứng khi kể cho tôi nghe về vợ con mình. Con trai ông rất thích món xúc xích. Sau đó tôi lại nghĩ đến cậu bé mười hai tuổi bỏ nhà đi đến Atlanta.

Đến giờ hẹn tôi quay lại văn phòng luật. Cô nhân viên kiểm tra sổ và nói:

– Mời ông ngồi, ông Rosenolatt sẽ tới ngay.

Tôi chờ hai mươi phút, cho đến khi cánh cửa dẫn vào các văn phòng mở ra. Một người đàn ông trẻ, cao, ưa nhìn bước ra. Tôi biết anh ta khoảng hai mươi bảy tuổi, nhưng trông như một sinh viên đại học.

Tóc anh ta đen, bồng bềnh. Khuôn mặt nghiêm nghị. Cái mũi nhỏ, cao, cằm chẻ. Anh ta mặc bộ vét màu tro, chiếc áo sơ mi màu trắng, cà vạt màu đỏ đính ngọc trai. Một chiếc khăn tay gấp làm tư để túi trước ngực. Đôi mắt anh ta màu nâu, da rám nắng, có lẽ do chơi gôn.

– Bác sĩ Delaware, tôi là Josh Rosenblatt.

Anh ta không cười. Một cánh tay đưa ra. Cái bắt tay của anh ta mạnh như muốn nghiền nát xương của tôi.

Tôi đi theo anh ta đến văn phòng làm việc. Lối đi đó qua khu vực của các thư kí, qua chỗ để các tập dữ liệu. Tên của anh ta được gắn trên cửa bằng gỗ sồi và đồng thau.

Văn phòng của anh ta không lớn hơn phòng khách sạn của tôi, nhưng qua một bức tường bằng kính có thể nhìn thấy toàn cảnh của thành phố. Trên tường treo hai tấm bằng ở Colombia: một là bằng Phibecta Kappa, một là giấy chứng nhận môn Prockey. Một chiếc túi thể thao để trong góc. Giấy tờ ở khắp mọi nơi, trên ghế, trước bàn làm việc. Tôi lấy một cái ghế trống để ngồi. Anh ta cởi áo khoác ngoài, để lộ đôi vai rộng, bộ ngực nở nang và đôi cánh tay dài.

Anh ta ngồi giữa đống giấy tờ bề bộn nói chuyện với tôi.

– Anh làm ngành luật nào?–Tôi hỏi.

– Kinh doanh

– Anh có thưa kiện không?

– Chỉ khi nào tôi cần có một chiếc taxi. Tôi ủng hộ các cậu bé đường phố.

Anh ta gõ gõ tay xuống bàn và nhìn chằm chằm vào tôi.

– Anh giống với trong ảnh. Tôi cứ nghĩ là sẽ gặp ai đó già hơn kia.

– Tôi rất vui vì anh đã dành thời gian cho tôi. Anh nghĩ gì khi người anh yêu thương bị sát hại?

– Ông ấy không bị ám sát – Anh ta nói – Chính ra ông ấy đã tự tử. Các giáo sĩ coi đó là một tai nạn, nên ông ấy có thể được chôn cùng với cha mẹ.

– Tự tử à?

– Ông đã gặp cha tôi. Trông cha tôi có giống một người bất hạnh không?

– Ngược lại thì có.

– Đúng thế – Mặt anh ta đỏ lên – Bố tôi rất yêu cuộc sống, ông biết cách để có được sự vui vẻ. Chúng tôi thường trêu đùa ông. Điều đó biến ông thành một nhà tâm lí học giỏi. Ông là một người đàn ông hạnh phúc. Mọi người thường lấy điều đó ra để trêu ông. Ông là bác sĩ chuyên khoa tâm thần duy nhất có thể tự điều chỉnh tốt ở New York.

Anh ta đứng dậy và nhìn tôi.

– Bố tôi không bao giờ bị suy sụp. Ông là người ít bị dao động nhất mà tôi từng gặp. Ông cũng là một người cha vĩ đại. Ở nhà, ông ấy không bao giờ là bác sĩ tâm thần học với chúng tôi, ông chỉ là một người cha. Ông chơi bóng với tôi, ngay cả khi ông ghét thể thao. Chúng tôi rất yêu ông. Ông biết lắng nghe ý kiến của người khác. Chúng tôi không bao giờ tin ông lại tự hủy hoại mình, nhưng cảnh sát cứ khăng khăng điều đó là đúng. Bằng chứng rõ ràng. Mẹ kiếp, chẳng hiểu ra làm sao nữa – Anh ta chửi thề và đập tay xuống bàn – Bọn chúng làm ăn rất quan liêu, vì thế chúng tôi đã thuê một nhà điều tra riêng. Tất cả những gì hắn ta làm là kiểm tra tất cả những nơi mà cảnh sát tìm kiếm và nói hệt như những gì cảnh sát đã nói. Vì vậy tôi rất vui khi ông tới đây và nói cho chúng tôi biết cách phải làm thế nào.

– Họ nói chuyện đó xảy ra như thế nào? – Tôi hỏi – Ông ấy bị đụng xe hay bị ngã?

Anh ta giật đầu về phía sau như thể để tránh một cú đấm. – Anh nhìn trân trân vào tôi, nới lỏng cà vạt, sau đó lại kéo nó lại và thít chặt hơn, ta nhặt áo khoác lên, vắt nó qua vai.

– Chúng ta ra khỏi đây thôi.

– Ông khoẻ chứ?– Anh ta hỏi rồi nhìn tôi từ đầu đến chân.

– Cũng bình thường.

– Nếu phải leo hai mươi tầng ông lên nổi không?

Tôi lắc đầu.

Anh ta chen vào giữa đám đông đi thẳng về phía thị trấn. Tôi bước nhanh để theo kịp anh ta. Anh ta đi rất nhanh và tôi thấy hầu như tất cả mọi người cũng đều như vậy. Họ đang bị cuốn theo sự nhộn nhịp của đô thị.

Tôi cứ nghĩ anh ta sẽ dừng lại ở phố 65, nhưng anh ta lại đi đến tận phố 67. Rẽ về phía Đông, anh ta dẫn tôi qua hai tòa nhà và dừng lại trước một tòa nhà cao tầng xây bằng gạch đỏ, cao tám tầng. Tòa nhà này được đặt giữa hai ngôi nhà xây bằng đá xám rất cầu kì. Tầng trên là các cửa hàng thuốc. Tòa nhà bên tay phải trông rất hiện đại. Đó là một nhà hàng của Pháp. Bên ngoài có một mái hiên nhô ra mặt phố, trên đó có tấm biển màu vàng. Dưới mái hiên có hai chiếc xe ôtô sang trọng đang đậu trên vỉa hè.

Anh ta chỉ tay lên cao.

– Kia là nơi xảy ra sự việc. Một phòng trên tầng thượng. Họ nói ông nhảy xuống từ đó.

– Đó là phòng của ai?

Anh ta vẫn nhìn chằm chằm lên đó rồi nhìn xuống lối dành cho người đi bộ. Thẳng ngay trước mặt chúng tôi có rất nhiều cây phong lữ. Có vẻ như Josh đang ngắm nhìn những bông hoa. Khi anh ta nhìn thẳng vào tôi, nỗi đau dường như hiện rõ trên khuôn mặt anh.

– Đó là tầng có phòng của mẹ tôi.

Shirley và Harvey Rosenblatt làm việc tại nhà. Tòa nhà nhỏ bằng đá nâu, có cổng ra vào. Nhà cao ba tầng và trồng rất nhiều cây phong lữ phía trước. Josh cầm một xâu chìa khóa, lấy một chiếc và mở cổng. Trần cổng màu hồ đào, sân màu đen, mái màu trắng, có hai cánh cửa bằng kính và một chiếc thang máy. Tường được sơn màu be tươi. Bên cạnh là một cây dừa. Phía đối diện là một chiếc ghế từ thời Louis thứ XIV.

Ba hộp thư bằng đồng được gắn lên bức tường phía Bắc. Cái số một đề tên Rosenblatt và không khóa. Josh thường lấy ở đó ra một chồng thư trước khi khóa những cánh cửa kính.

Đằng sau hộp thư là một hành lang nhỏ, hơi tối. Tiếp đến có hai cánh cửa màu hồ đào. Một cánh không đóng. Cánh còn lại treo một tấm biển màu đồng ghi dòng chữ “Shirley M. Rosenblatt, PhD, P.C”.

Josh mở cửa cho tôi. Tôi bước vào phòng. Trên tường treo các bức họa của Daumier. Bên trái tôi có một cái giá để treo mũ, áo bằng gỗ. Một con mèo mướp không biết từ đâu nhảy bổ về phía tôi, trên cái sàn lát ván.

Josh dừng lại vào nói:

– Này, Leo!

Con mèo dừng lại, vẫy đuôi và sau đó bước lại chỗ Josh. Anh ta giơ tay ra, con mèo liếm tay anh ta.

Josh nói:

– Được rồi, Leo. Tao xin.

Anh ta bế con mèo lên, áp nó vào ngực và nói với tôi:

– Lối này.

Lối đi nhỏ dẫn vào một phòng khách. Bên phải là phòng ăn được trang trí bằng đồ gỗ kiểu Chippendale thế kỉ mười tám. Bên trái có một chiếc bàn nhỏ nhắn, màu trắng, mặt bàn nhẵn bóng không một vết gợn. Đồ đạc trong nhà đơn giản và không nhiều. Vài bức họa không màu mè và có lẽ cũng chẳng đắt tiền.

Cách xa phòng khách là một khu vực nghỉ ngơi khác, có vẻ rộng rãi hơn. Ở đó có một cái tivi, vài cái ghế, một cây đàn piano, một cái giá đầy sách.

Josh thả con mèo xuống. Nó nhìn tôi và biến mất sau chiếc ghế sôfa.

Một cánh cửa khác mở. Một người phụ nữ da đen trong trang phục trắng của y tá bước ra. Bà ta khoảng bốn mươi tuổi, khuôn mặt tròn, những ngón tay mũm mĩm, nhưng rất đẹp. Đôi mắt bà ta sáng long lanh.

– Chào cậu Rosenblatt.

– Selena – Anh ta nói và nắm lấy tay bà ta – Mẹ tôi sao rồi?

– Mọi thứ đều tốt. Bà ấy đã ăn sáng và ngủ một giấc dài. Robie sẽ có mặt ở đây lúc mười giờ. Họ sẽ thực hiện các bài tập.

– Tốt rồi. Bây giờ mẹ tôi còn thức không?

– Còn – Đôi mắt bà ta chuyển sang nhìn tôi – Bà ấy đang đợi ông.

– Đây là bác sĩ Deleware.

– Chào bác sĩ. Tôi là Selena Limberton.

– Chào cô – Chúng tôi bắt tay. Josh nói:

– Cô đã ăn trưa chưa?

– Chưa – Cô y tá nói.

Họ nói chuyện thêm một lúc về thuốc men, về những bài luyện tập, còn tôi ngắm những bức ảnh chân dung của gia đình Josh. Có một bức chụp Harvey Rosenblatt mặc bộ vét ba mảnh màu đen đang tươi cười với những đứa con của anh. Lúc đó Josh mới chỉ khoảng mười tám tuổi. Anh đeo đôi kính gọng đen, mái tóc dài tự nhiên, hàng ria mép lún phún. Bên cạnh Josh là một cô gái rất xinh, có lẽ hơn Josh khoảng hai đến ba tuổi. Cô gái có đôi mắt đen giống hệt em trai. Trong ảnh còn có một thanh niên khoảng hơn hai mươi tuổi, cũng giống Josh, nhưng béo hơn. Mái tóc anh ta quăn, bộ râu quai nón đen và dầy, thừa hưởng từ bố.

Bà Shirley Rosenblatt thì nhỏ nhắn, dịu dàng và có đôi mắt màu xanh. Mái tóc bà màu vàng đã được cắt ngắn. Trông bà hơi yếu nhưng rất tươi. Thật khó tưởng tượng được là bà đã sinh ra ba đứa con to lớn khoẻ mạnh như thế!

Bà Limberton nói:

– Tất cả đều ổn. Tôi sẽ quay lại sau một giờ nữa. Leo đâu rồi?

Josh nhìn quanh.

Tôi nói:

– Tôi nghĩ nó đang chơi trốn tìm sau ghế sofa.

Bà y tá bước đến đó, cúi xuống và nhấc bổng con mèo lên. Trông nó thật mềm mại. Vừa nựng nó bà ta vừa nói:

– Tao sẽ cho mày ăn thịt gà nếu mày muốn. Con mèo chớp mắt. Bà ta đặt nó xuống ghế, người nó cong lên, mắt nó mở to quan sát.

– Bà cho nó ăn cá chưa? – Josh hỏi.

Bà ta cười.

– Rồi. Bây giờ cậu không phải lo lắng nữa. Mẹ cậu sẽ khoẻ thôi. Rất vui được gặp ông bác sĩ. Tạm biệt.

Cửa đóng lại. Josh nhún vai, rồi nói:

– Đừng lo lắng ư?