Chương 27
Một căn phòng nhỏ khác, tường màu vàng, khung cửa sổ được che rèm đăng ten.
Shirley Rosenblatt trông khá hơn tôi tưởng. Bà ngồi trên giường bệnh, phủ một tấm vải trắng ngang người. Khuôn mặt bà vẫn giữ được nét trẻ trung. Cái khay đựng thức ăn được đẩy vào một góc. Bên cạnh giường có một chiếc ghế bằng mây và một bàn trang điểm đầy những lọ nước hoa. Đối diện với cái bàn là một bể cá cảnh đặt trên một cái bàn khác bằng gỗ tếch. Những chú cá xinh đẹp lượn lờ quanh những tảng đá bằng san hô nhỏ.
Josh hôn lên trán bà. Bà mỉm cười và nắm chặt tay anh. Trên đầu giường bà có rất nhiều chai thuốc, một đống tạp chí và một máy tập cho bàn tay.
Josh nắm tay mẹ. Bà mỉm cười và nắm lấy tay Josh. Sau đó bà quay sang cười với tôi. Đôi mắt bà màu xanh trông rất dễ mến. Không một đứa con nào của bà có đôi mắt như thế.
Josh, nói:
– Có một bức thư. Mẹ có muốn con mở nó không?
Bà Rosenblatt lắc đầu. Josh để lá thư vào đùi bà, nhưng bà ta cứ để đó và tiếp tục nhìn tôi.
– Anh là bác sĩ Delaware – Bà ta nói.
– Alex Delaware – Tôi nói nhưng không đưa tay ra vì Josh vẫn nắm tay mẹ mình.
– Cảm ơn vì bà đã dành thời gian cho tôi, bác sĩ Rosenblatt
– Shirly.
Giọng bà ta rất yếu. Tôi có cảm giác như bà ta cố hết sức mới có thể nói được, nhưng từ nào cũng rõ ràng. Bà ta chớp chớp mắt. Vai phải của bà thấp hơn vai trái và mí mắt bên phải hơi sụp xuống.
Bà ta hôn tay Josh và nói rất chậm:
– Con có thể đi, con yêu.
Josh nhìn tôi rồi lại nhìn mẹ.
– Mẹ chắc chứ?
Bà ta gật đầu.
– Con sẽ trở lại trong vòng nửa tiếng nữa. Con đã bảo bà Limberton đi ăn trưa. Con không muốn để mẹ lại một mình quá lâu.
– Được rồi. Bà ấy không ăn quá lâu đâu.
– Con muốn bà ấy có mặt ở đây chiều nay. Con phải viết báo cáo. Khoảng bảy giờ ba mươi con về. Thế có được không, hay mẹ muốn ăn sớm hơn?
– Bảy giờ ba mươi được rồi, con yêu.
– Mẹ ăn món Trung Quốc nhé?
Bà ta gật đầu và buông tay Josh ra.
– Con có thể mua cả thức ăn Thái nếu mẹ muốn.
– Thứ gì cũng được, miễn là con thích – Bà ta đưa cả hai tay ra và Josh cúi xuống để ôm mẹ.
Sau khi anh ta đứng thẳng dậy bà ta nói:
– Tạm biệt con trai.
– Chào mẹ. Mẹ tự chăm sóc mình nhé.
Anh ta nhìn tôi và bước ra ngoài – Bà ta cố gắng để ngồi cao hơn. Bà ta lấy hơi và nói:
– Chúa phù hộ cho tôi. Tự tôi đã phải nuôi dưỡng bọn trẻ...
– Tôi chắc đó không phải là một tai nạn.
Bà ta nhún vai.
– Tôi không biết.
Bà ta chỉ chiếc ghế song mây. Tôi kéo nó lại gần và ngồi xuống.
– Anh cũng là một nhà vật lí trị liệu cho trẻ em?
Tôi gật đầu.
– Tôi nghĩ tôi đã biết tên anh trong một bài báo... nhiều năm trước. Rất vui được gặp anh – Giọng bà ta yếu dần – Tôi bị cảm nắng.
– Josh đã nói với tôi.
Bà ta tỏ vẻ rất ngạc nhiên.
– Nó chưa nói với ai cả – Sau đó bà ta nói tiếp – Nó ở đây cùng với tôi, vì thế chúng tôi gặp nhau thường xuyên hơn.
– Thế những đứa khác ở đâu?
– Sarah ở Boston. Nó dạy học ở đó. Còn David là một nhà sinh vật học ở viện nghiên cứu ung thư quốc gia ở Washington.
– Ba đứa ba nơi – Tôi nói.
Bà ta cười và nhìn sang phía bể cá.
– Harvey thích bóng chày. Anh chỉ gặp ông ấy một lần thôi à?
– Vâng.
– Harvey là người đàn ông đáng yêu nhất mà tôi từng biết. Mẹ tôi thường nói đừng lấy ai vì bề ngoài hay vì tiền, bởi cả hai đều nhanh chóng biến mất. Hãy lấy người mà con thấy đáng yêu ấy.
– Một lời khuyên hay.
– Ông lập gia đình chưa?
– Chưa.
– Ông đã có ai chưa.
– Có rồi. Cô ấy cũng rất đáng yêu.
– Tốt – Bà ta cười – Tiếng cười của bà ta rất nhỏ, nhưng khuôn mặt bà đã biến đổi. Bà giơ một tay lên ôm lấy ngực. Quên Ph.D. đi. Tôi chỉ là một bà mẹ Do Thái thôi.
– Có thể hai điều đó không khác biệt.
– Không. Đúng là như vậy đấy. Nhà vật lí trị liệu thì không bao giờ tranh cãi đúng không? Hay ít ra là chúng ta giả vờ không tranh cãi, nhưng những bà mẹ thì luôn tranh cãi.
Bà ta cố gắng cầm phong thư từ hộp thư. Bà cầm lấy một góc hộp và run run:
– Nói cho tôi về chồng tôi – Bà ta cố gắng nói ra điều đó..
Tôi bắt đầu kể những vụ án mạng, nhưng bỏ đi các tình tiết man rợ. Khi tôi để đến đoạn “Tình yêu dối trá” và sự trả thù mà tôi đưa ra, mắt bà ta chớp liên tục, lúc đó tôi sợ đã làm bà bị sốc. Tuy nhiên khi tôi dừng lại, bà ta nói:
– Ông cứ tiếp tục đi.
Tôi kể tiếp, dường như bà ta ngồi thẳng hơn, chăm chú lắng nghe hơn. Ánh mắt bà ta trông sắc sảo hơn. Có lẽ nhà vật lí trị liệu trong bà đã đánh bại người bệnh.
Thực sự tôi đã bộc bạch lòng mình với người phụ nữ này. Khi tôi kể xong, bà ta nhìn vào bàn trang điểm và nói:
– Mở cái ngăn kéo giữa kia ra và lấy cái file trong đó.
Tôi tìm thấy một cái hộp màu trắng đen bằng đá cẩm thạch và một cái khóa nằm trên những chiếc áo len được xếp gọn ghẽ. Khi tôi định đưa nó cho bà ta, bà ta nói.
– Mở nó ra đi.
Tôi ngồi cạnh bà và mở chiếc hộp. Bên trong hộp là những giấy tờ và rất nhiều văn kiện. Trên cùng là bằng dược sĩ của Harvey Rosenblatt.
– Tiếp tục đi – Bà giục.
Tôi giở tiếp: bằng tâm lí học, giấy tờ chuyển cơ quan và chuyển chỗ ở, giấy chứng nhận của viện phân tích tâm lí Rovert Evanston Hale ở Manhattan, một cái khác ở bệnh viện Saoth Wick, một bức thư từ sáu năm trước của hiệu trưởng trường Y của New York. Bức thư này cho biết cuộc hẹn với Rosenblatt với tư cách là một giáo sư của viện tâm thần học. Một tờ giấy cho biết ông đã thực hiện một ca mổ ngay trên máy bay. Hai tờ giấy bảo hiểm xã hội, một tờ được Hiệp hội tâm thần học Mĩ cấp. Khi tôi lấy đến bản di chúc của Rosenblatt, bà ấy nhìn đi chỗ khác. Giấy chứng tử, nơi chôn cất.
Tôi nghe thấy lời bà ta:
– Còn cái tiếp theo.
Đó là một tệp các tờ giấy photocopy. Trên đó có dòng chữ “Điều tra – thông tin”.
Tôi lấy nó ra khỏi hộp. Bà ấy ngả dần xuống gối, tôi thấy bà ta thở mệt nhọc. Khi tôi đọc bà ta nhắm mắt lại.
Trang thứ hai là thông báo của cảnh sát do thám tử Salvatore J. Grordano, 19 Rrecinct, Borough, Manhattan New York viết. Theo ông ta và bản báo cáo kết quả khám nghiệm tử thi, nạn nhân tử vong Rosenblatt, H.A., đàn ông da trắng, 59 tuổi, chết do ngã từ trên cửa sổ B với tốc độ quá nhanh. Cửa sổ B trong phòng ngủ tại địa chỉ phố 67 Đông. Cơ thể bị va đập mạnh xuống nền đường dành cho người đi bộ phía trước địa chỉ nói trên.
“Nạn nhân tử vong là do máu trong cơ thể không lưu thông. Không có bằng chứng nào chứng tỏ đây là một tai nạn gây ra bởi chất gây nghiện. Không có biểu hiện chứng tỏ nạn nhân bị bắt ép phải ra bằng lối cửa sổ cũng như không có vết trượt nào trên thảm trong địa chỉ nói trên. Không có dấu hiệu của sự chống cự trên ngưỡng cửa sổ. Tóm lại không có bằng chứng nào cho thấy sự có mặt của một cá nhân nào khác tại địa chỉ nói trên. Trong một bản thông báo kỹ hơn có sự xuất hiện của một ly đồ uống A, dụng cụ B và một “máy chống trộm”.
Một hình vẽ không gian cuối trang giấy vẽ vị trí của cửa chính, cửa sổ, đồ đạc trong phòng. Một cái giường, hai cái bàn kê đầu giường, hai bàn trang điểm, một cái thấp, một cái cao, một cái tivi và một đống tạp chí. Những mũi tên đánh dấu khung cửa sổ mà nhà tâm lí học đã nhảy xuống.
Đoạn sau chỉ rõ phòng đó trên tầng 8, một căn phòng nhỏ trong một tòa nhà theo kiểu khu chung cư vào thời gian ông Rosenblatt nhảy xuống, ông bà chủ căn nhà đang đi nghỉ ở châu Âu. Họ chẳng bao giờ gặp “nạn nhân tử vong” và cả hai nhân chứng đều nói họ không biết cách nào nạn nhân có thể vào được ngôi nhà đó. Người gác cổng hôm đó cũng nói rằng ông ta không bao giờ nhìn thấy nạn nhân. Hơn nữa, ly đồ uống A được bà Rulerad nhận ra là nó ở trong bếp. Nó đựng nước coca pepsi giúp giảm béo. Đó là thứ đồ uống ưa thích của bà Rulerad.
Tờ tiếp theo khoảng nửa trang giấy do thám tử Giordano viết sau đó một tuần.
“Trường hợp #1453331, Rosenblatt, yêu cầu sự cho phép của vợ nạn nhân để tìm kiếm những bằng chứng liên quan đến cái chết của nạn nhân. Cuộc khám xét được thực hiện lúc 3 giờ 23 phút đến 5 giờ 17 phút chiều ngày 4 tháng 7 năm 1985 cùng với sự có mặt của thám tử B. Wildebrand và nhân viên văn phòng ông J. Me Govern. Cuộc khám xét nhà và văn phòng của nạn nhân được vợ nạn nhân chứng kiến. Yêu cầu được đọc những file dữ liệu về tâm lí học của nạn nhân để có thể tìm ra mối liên hệ giữa các bệnh nhân nhưng bị từ chối. Sẽ hội ý với Trưởng ban thám tử A.M. Talisiani”.
Trang dưới đây được thám tử Lewis, s. Jackson ký sau đó bốn tuần.
“Đối với trường hợp của thám tử Giordana nhận xét #1453331, nạn nhân H.A. Rosenblatt, thám tử Giordano đã gặp phải sự phản ứng. Vợ nạn nhân là bà Shirley Rosenblatt và con trai Joshua Rosenblatt yêu cầu gặp gỡ để xem xét lại vụ án tại Penct. Vợ và con trai nạn nhân nói rằng họ bị lừa dối vì mục đích của cuộc khám nhà. Cậu con trai nói anh ta là luật sư nên hiểu điều đó. Họ nói rằng nạn nhân không suy sụp, không bao giờ suy sụp. Chắc chắn “có một sự sắp đặt nào đó”. Họ nói trước khi chết nạn nhân nói với vợ về “một trường hợp được sắp đặt sẵn có thể giống những gì đã xảy ra với bố ông ta”. Tuy nhiên vì nạn nhân là một nhà tâm lí học nên giữ kín bí mật đó. Khi nói rằng không thể làm được gì nếu không có bằng chứng rõ ràng cậu con trai rất tức giận và đe dọa sẽ “hành động”. Cuộc nói chuyện này được thông báo cho trưởng đoàn thám tử A.M. Jalisiani”.
Hai trang cuối là một lá thư màu trắng mà nội dung như một bản cam kết, đề ngày của một tháng rưỡi sau đó.
Dịch vụ điều tra Comsac
513 đại lộ 5 số 3463
New York, N.Y/0110
30–6–1985
Bác sĩ Shirley Rosenblatt c/o J. Rosenblatt, esq.
Schechter, Mohl & Trimme
500 Đại lộ 5 số 3300
New York, N.Y 10110.
Bác sĩ Rosenblatt thân mến!
Theo yêu cầu của bà chúng tôi đã xem lại những số liệu và mọi thứ liên quan đến cái chết không may của chồng bà. Chúng tôi đã xem lại những văn bản chi tiết của biên bản khám nghiệm tử thi, bán báo cáo của cảnh sát và những bản phân tích. Chúng tôi đã phỏng vấn người cảnh sát đã tham gia vào vụ này. Tuy nhiên sự điều tra cá nhân về nơi xảy ra vụ việc trên không được thực hiện vì chủ nhà, ông bà Nialcom A. Rulerad không cho phép nhân viên của chúng tôi vào điều tra. Tuy vậy, chúng tôi thật sự cảm thấy chúng tôi đã có đủ những số liệu cần thiết để có thể đánh giá được vụ việc này. Tôi rất lấy làm tiếc khi báo với bà chúng tôi không thấy có một lí do nào để đi ngược lại kết luận của cảnh sát về vụ việc này. Chúng tôi khuyên bà không nên điều tra thêm vụ này nữa.
Nếu có băn khoăn gì xin hãy liên lạc với chúng tôi.
Kính thư
Robert D. Sugvue
Cựu thanh tra và điều tra viên
TIỀN DỊCH VỤ
22 giờ, 65 đôla một giờ: $ 1430,00
Trừ 10% giảm giá còn lại $ 1287,00
Xin hãy thanh toán.
Tôi đặt tập giấy xuống.
Mắt bà Shirley Rosenblatt mở to và đẫm ướt.
– Ông ấy đã mất cách đây bốn năm nhưng vẫn còn... – Bà ta lắc đầu – Đó là lý do tại sao Josh lại giận dữ... Bây giờ, ông đến...
– Tôi...
– Không – Bà ta đặt tay lên miệng, rồi buông xuống và cười – Tốt thôi. Sự thật... Bà ta vẫn cười mỉm đầy ẩn ý.
Bà ta nói tiếp:
– Hervey như là một tên trộm. Thật buồn cười. Tôi không thể tưởng tượng được. Tôi đã sống với ông ấy ba mươi mốt năm – Giọng bà cương quyết. Bà nhìn tôi như thể để khẳng định điều bà vừa nói.
Tôi gật đầu.
Bà ta lại lắc đầu.
– Thế thì ông ấy đã vào phòng đó bằng cách nào? Họ luôn hỏi tôi điều đó và tôi không biết phải nói gì với họ.
– Ông ấy đã bị dụ dỗ tới đó. Có thể là dưới dạng một cú điện thoại của một bệnh nhân. Có thể ông ấy nghĩ ông ấy có thể giúp được.
Bà ấy nhắm mắt lại rồi lại mở ra. Giọng bà rất nhẹ:
– Harvey... Cảnh sát luôn nói ông ấy tự tử... Họ nói rằng tỉ lệ các nhà tâm lí học tự tử rất cao. Sau đó cảnh sát còn nói rằng tôi nên tự thấy may mắn vì họ sẽ không điều tra thêm về vụ này. Nếu họ tiếp tục mọi thứ có thể sẽ còn nhiều điều phức tạp.
– Họ đã dựa trên những chứng cứ chi tiết, khoa học của vụ này – Tôi nói.
– Đó là một dịch vụ tư nhân. Talisiani nói với tôi nếu chúng tôi làm căng chuyện này, tên tuổi của Harvey sẽ bị vấy bẩn. Ông ấy rất tức giận khi chúng tôi không muốn khép lại vụ này. Tất cả mọi người dường như đều như vậy. Bây giờ ông đến và nói rằng chúng tôi đã đúng – Bà ta áp hai bàn tay vào nhau và nói: – Cảm ơn ông.
Bà ta nằm xuống gối và thở mạnh qua đôi môi khô. Nước mắt giàn giụa bà ta thì thầm:
– Tôi rất buồn về chuyện đã xảy ra, nhưng lại rất vui vì ông đã đến. Ông đã nói chúng tôi đúng. Tôi chỉ lấy làm tiếc là ông phải đương đầu với khó khăn này. Ông thật sự nghĩ vụ này có liên quan tới Andres phải không?
– Đúng vậy.
– Harvey chẳng bao giờ nói gì cả.
Tôi nói:
– Trường hợp được sắp đặt trước mà Josh nói với thám tử Jackson chính là...
– Vài tuần trước... – Bà ta thở sâu và nói tiếp – Chúng tôi đang ăn trưa. Harvey và tôi hay ăn trưa cùng nhau. Lúc đó ông ấy rất buồn. Một người như ông ấy hiếm khi buồn như vậy. Ông ấy nói ông ấy vừa nói chuyện với một bệnh nhân và ông rất thất vọng – Bà ta quay về phía tôi. Thất vọng về Andres – Ông ấy không nói chi tiết với tôi.
– Ông ấy không nói gì nữa à?
– Harvey và tôi không bao giờ nói chuyện về các bệnh nhân. Chúng tôi đã hứa với nhau việc này trước khi cưới... hai nhà vật lí trị liệu.
– Nhưng chắc ông ấy phải nói điều gì với bà làm bà thấy nó liên quan đến cái chết của ông ấy chứ?
– Không – Bà ta buồn bã nói – Chúng tôi thật sự không đoán nổi. Chúng tôi đang tìm kiếm những điều bất thường. Harvey trong một căn nhà lạ...
Sắc mặt bà ta vẫn không thay đổi.
– Harvey không biết chủ ngôi nhà đó là ai?
– Họ là những người ích kỷ, lạnh lùng. Tôi gọi điện cho bà vợ và xin bà ta để cho thám tử tư vào xem xét. Tôi thậm chí còn xin lỗi bà ta, vì cái gì tôi cũng không biết nữa, nhưng bà ta từ chối không cho thám tử vào. Bà ta còn nói tôi may mắn vì bà ta đã không kiện ra tòa, vì Harvey đã đột nhập vào nhà bà ta.
Bà Shirley nhắm mắt và nằm bất động. Tôi băn khoăn không biết bà ta đã ngủ hay chưa.
Sau đó bà ta nói:
– Harvey đã bị người bệnh nhân này tác động nhiều. Đó là điều làm tôi nghi ngờ. Các bệnh nhân không bao giờ làm ông ấy lo lắng đến như vậy.
– De Bosch là giáo viên của ông ấy phải không? Nếu Harvey biết được chuyện gì khủng khiếp về ông ta, ông ấy sẽ rất thất vọng.
Bà ấy gật đầu.
– Mối quan hệ của họ như thế nào?
– Thầy trò. Harvey ngưỡng mộ Andres, mặc dù ông ấy cho rằng Andres hơi độc đoán.
– Độc đoán như thế nào?
– Ông ta rất giáo điều. Ông ta tự cho mình đúng khi ông ta đấu tranh chống lại chủ nghĩa Đức quốc xã...
– Ông ta hống hách ư?
– Một vài lần, nhưng Harvey vẫn ngưỡng mộ ông ta vì những gì ông ta làm. Ông ta cứu những đứa trẻ Pháp từ chính phủ Bicky. Ông ta làm việc vì sự phát triển của trẻ em. Ông ta là một giáo viên tốt. Andres đứng trên bục giống như một giảng viên đại học. Ông ta có thể nói hàng giờ liền mà họ vẫn hứng thú nghe. Ông ta nói chuyện rất hay, rất dí dỏm.
– Còn về Katarina thì sao?
– Harvey cũng nói với tôi là cô ấy ngồi đó. Cô ấy giống như một đứa trẻ, nhưng cách nói của cô ấy thì như người đã trưởng thành. Giờ đây cô ấy đã... và cả những người khác nữa... không thể như thế được.
– Đôi khi chủ nghĩa độc đoán có thể đi quá xa – Tôi nói. Hai gò má bà giật giật. Bà ta gắng gượng cười.
– Đúng. Tôi cho là như vậy. Bệnh nhân đã nói với tôi điều này từ hơn ba mươi năm trước và tôi vẫn cho điều đó là đúng. Tôi thật sự không biết...
– Đã bao giờ bà xem lại các dữ liệu của ông nhà để tìm thử xem bệnh nhân nào đã làm ông suy sụp như vậy chưa?
Bà gật đầu tỏ vẻ có lỗi.
– Ông ấy giữ những cuộn băng thu. Ông ấy không thích viết, vì thế ông ấy thu băng. Để bảo vệ các bệnh nhân tôi đã không để cảnh sát nghe chúng. Sau đó tôi đã bật lên nghe. Tôi phải có trách nhiệm với họ cho tới khi họ tìm được một nhà vật lí trị liệu khác. Tôi phải gọi điện cho họ, thông báo cho họ vì thế tôi phải biết họ – Bà ta nhìn xuống rồi nói tiếp – Tôi đã nghe giọng của Harvey. Tôi không thể chịu đựng nổi, nhưng chẳng có gì trong đó khiến ông ấy thất vọng. Tất cả bệnh nhân của ông ấy đều như những người bạn cũ. Ông ấy không có bệnh nhân nào mới trong suốt hai năm.
– Không có ai?
Bà ấy lắc đầu. Harvey là một nhà phân tích theo kiểu cũ. Công việc đó rất thoải mái nhưng cần nhiều thời gian.
– Một bệnh nhân cũ cũng có thể nói điều gì đó làm ông ấy thất vọng – Tôi nói.
– Không, chẳng có điều gì trong tất cả các cuộc nói chuyện chứng tỏ điều đó. Không ai trong số bệnh nhân cũ lại nguy hiểm đối với ông ấy. Họ đều yêu mến ông ấy.
– Bà đã làm gì với những cuộn băng?
Bà ta không trả lời câu hỏi của tôi mà chỉ nói:
– Ông ấy đã giúp đỡ họ rất nhiệt tình...
– Bà có chữa trị cho ai trong số họ không?
– Không. Tôi không còn sức để làm việc đó. Thậm chí ngay cả với bệnh nhân của tôi, tôi cũng không chữa trị được. Tôi bị suy sụp trong một thời gian. Quá nhiều người thất vọng. Vì thế tôi không nghĩ về cái chết của ông ấy nữa. Vì con tôi, vì tôi và vì bệnh nhân của ông ấy tôi không thể cứ tiếp tục sống như vậy mãi được. Ông hiểu tôi không?
– Tôi hiểu. Tôi hỏi lại bà đã làm gì với những cuốn băng.
– Tôi hủy chúng đi. Bà ấy nói như thể đây là lần đầu tiên nghe thấy câu hỏi này. Tôi đã đập vỡ từng cuốn băng với những tiếng rền rĩ... từng cái một. Tôi đã ném chúng đi.
– Trước khi chết Harvey có tham gia hội nghị nào không? Một cuộc họp hay hội thảo về tâm lí học nào đó về các điều kiện sống cho trẻ em chẳng hạn?
– Không. Tại sao?
– Bởi vì một cuộc hội thảo chuyên đề có thể làm thức dậy ý muốn của tên giết người. Hai nhà tâm lí trị liệu khác đã bị giết tại những cuộc hội nghị. Cuộc hội thảo chuyên đề của de Bosch mà tôi gặp Harvey có thể là nơi đầu tiên diễn ra các hành động giết người.
– Không. Ông ấy không tham gia cái gì cả. Ông ấy thề là sẽ không đi dự hội nghị. Ông ấy đã từ chối cuộc hẹn tại NYU để có thể tập trung cho các bệnh nhân, cho gia đình và cho sức khoẻ. Bố ông đã chết trẻ vì bệnh tim. Harvey đã đến độ tuổi đó và đối diện với cái chết của mình. Ông ấy bắt đầu cố gắng bỏ mỡ trong khẩu phần ăn. Ông ấy muốn ở bên mẹ con tôi lâu hơn.
Bà ấy nhăn nhó, đặt bàn tay lên tay tôi. Bà nhìn vào bể cá và cứ để tay như vậy.
– Anh có điều gì khác muốn nói với tôi không?
– Tôi nghĩ là không. Cảm ơn bà vì đã gặp tôi – Tôi nói.
– Hãy cho tôi biết bất cứ những gì mà anh tìm được.
– Vâng, tôi sẽ báo cho bà.
– Anh định ở đây trong bao lâu?
– Tôi định tối nay sẽ quay về.
– Nếu anh cần chỗ ở và không chê phải ngủ trên một cái ghế kéo thì hãy đến đây.
– Bà thật tốt, nhưng tôi phải quay về.
– Vì người phụ nữ đáng yêu ấy ư?
– Và cả ngôi nhà của tôi nữa – Tôi nói.
Chúng tôi nghe thấy tiếng đóng cửa, sau đó là tiếng bước chân. Josh đi vào, ôm con mèo. Anh ta nhìn vào tay chúng tôi và nhíu mày.
– Hôm nay con nghỉ sớm. Mẹ có khoẻ không?
– Ừ, mẹ khoẻ. Bác sĩ Delaware rất tốt bụng. Con thật đúng khi mời bác sĩ đến đây. Bác sĩ đã giúp mẹ rất nhiều.
– Giúp ở chỗ nào?
– Ông ta xác nhận chúng ta đã đúng về việc của bố con.
– Tuyệt vời – Josh nói và thả con mèo xuống – Thế mẹ không nghỉ ngơi ư? Anh ta hỏi.
Bà không trả lời.
– Mẹ phải nghỉ ngơi đi – Josh nói.
– Mẹ ổn mà con trai. Thật đấy.
Tôi cảm thấy bà bỏ tay tôi ra và đặt tay xuống chăn. Tôi đứng dậy.
Josh đi quanh phía bên kia thành giường và vuốt cho chăn thẳng ra.
– Mẹ cần phải nghỉ ngơi mẹ ạ. Bác sĩ nói, điều quan trọng nhất là mẹ phải nghỉ ngơi.
– Mẹ biết... mẹ xin lỗi... mẹ sẽ nghỉ ngơi.
– Vâng.
Bà ta thổn thức. Nước mắt vòng quanh.
– Ôi mẹ! – Anh ta khóc to lên giống như đứa trẻ lên mười.
– Ổn rồi, con yêu.
– Không, không, con xin lỗi. Đó thật sự là một ngày khủng khiếp...
– Nói cho mẹ đi con trai.
– Hãy tin con. Mẹ không cần phải nghe đến nó.
– Ừ, mẹ biết. Nói với mẹ đi.
Anh ta ngồi sát lại bên bà mẹ. Tôi nhẹ nhàng đi ra cửa, rời khỏi căn phòng và không muốn quấy rầy họ nữa.