Chương 34
Tôi lái xe quay về Venice. Không có ai ở xưởng, Robin để lại một mẩu giấy trên chiếc ghế dài làm việc của nàng.
Lúc 11 giờ 45 phút, em phải đến bãi đốn gỗ.
Sẽ về lúc hai giờ. Hãy gọi cho bà Braithwaite.
Bà ta báo bà ta là chủ của Spike.
Bà ta ở khu Pacific Palisade. Tôi gọi cho bà ta mà trong lòng rất buồn.
Giọng một phụ nữ trung niên vang lên.
– Xin chào!
– Bà Braithwaite có phải không ạ? Bác sĩ Delaware trả lời điện thoại bà đây.
– Ồ, bác sĩ. Cảm ơn đã gọi cho tôi và cám ơn vì đã chăm sóc con Barry bé nhỏ của chúng tôi. Nó không sao chứ?
– Tuyệt. Nó là một con chó tuyệt vời.
– Vâng, đúng thế. Vậy mà chúng tôi đã quá lo lắng và đã bắt đầu mất hy vọng.
– À, nó đang cực kỳ khoẻ mạnh.
– Thế thì tuyệt quá.
– Tôi đoán là bà muốn đến đón nó về. Có lẽ nên vào lúc hai giờ.
Một chút do dự rồi bà ấy nói:
– Ồ, dĩ nhiên, hai giờ, được thôi.
Tôi bận rộn gọi điện thoại nói chuyện với Shirley Rosenblatt nửa tiếng. Gọi cho Bert Harrison rồi gọi đến công ty bảo hiểm, nơi tôi phải gặp những kẻ thực sự ma mãnh.
Trong một thoáng tôi nghĩ về những đứa bé, con Wallace, rồi lại nhớ đến một cô bé khác, Karen Alnord, cô bé đã mất con chó boxơ của mình. Tôi không còn giữ số điện thoại của cô bé. Tất cả giấy tờ của tôi đều bị thiêu rụi cả. Cô bé sống ở đâu nhỉ. Hình như là Reseda, ở Cohasset.
Tôi lấy được số điện thoại từ trung tâm thông tin. Một phụ nữ trả lời, tôi xin gặp Karen.
– Nó đi học rồi. Ai đó?
Tôi nói tên cho bà ấy.
– Cô bé đã gọi cho tôi về việc con chó boxơ của nó. Tôi chỉ đang thắc mắc liệu bà đã tìm thấy nó chưa?
– Chúng tôi tìm được rồi – Bà ta nói, giọng cáu kỉnh.
– Tuyệt quá, cảm ơn.
– Vì chuyện gì?
– Vì tin tốt lành.
Bà Braithwaite đến lúc một giờ bốn mươi lăm phút. Bà ta khoảng sáu mươi tuổi, người thấp, gầy, mái tóc gợn sóng, được xịt keo giữ nếp, nhuộm màu bột sắn; đôi mắt nhỏ màu nâu với những nếp nhăn đằng sau cặp kính gọng khảm ngọc trai. Bộ đồ hiệu I. Magnin màu hạt dẻ của bà ta đáng giá cả đống tiền ở cửa hàng thời trang và ngọc trai bà ta đeo là đồ thật. Bà ta mang một cái túi rất hợp với bộ đồ và đeo một cái cài áo hình lá cờ Mỹ bằng vàng.
Bà ta nhìn quanh xưởng, có vẻ bối rối. Tôi nói:
– Đây là nơi làm việc của Robin. Chúng tôi đang dự định sửa nó thành nhà để ở.
– À, chúc may mắn. Tôi đã nhìn qua và thấy nó không được gọn gàng lắm.
– Tôi có thể mang chút đồ uống cho bà được không?
– Không, cảm ơn.
Tôi kéo một cái ghế cho bà ta. Bà ta vẫn đứng và mở cái túi xách tay. Lấy ra một tờ séc và cố đưa nó cho tôi – mười đô la.
– Không, không – Tôi nói.
– Ồ, bác sĩ, đây là tấm lòng của tôi.
– Không cần thiết đâu.
– Nhưng còn những phí tổn, tôi biết Barry ăn uống như thế nào.
– Nó ăn theo cách của nó – Tôi mỉm cười – Một chú chó đáng yêu.
– Đúng thế – Bà ta nói với dáng vẻ hơi tò mò – Anh có chắc là tôi không cần phải bồi hoàn không?
– Bà hãy dành nó vào quỹ từ thiện.
Bà ta nghĩ một chút rồi nói:
– Được rồi, đó là một ý hay... Quỹ kế hoạch hóa gia đình luôn cần sự giúp đỡ.
Bà ta ngồi xuống. Tôi nói lại lời đề nghị mang một tí đồ uống, bà ta nói:
– Điều đó không cần thiết, nhưng nếu anh có trà ướp lạnh thì cũng được.
Tôi pha trà, bà ấy nhìn chăm chú xưởng điêu khắc.
Khi tôi đưa tách trà, bà ta lại cảm ơn tôi và nhấm nháp một cách duyên dáng.
– Có phải vợ anh sửa chữa đàn violin không?
– Chỉ một số cái thôi. Còn hầu hết là đàn ghita và măngđôlin. Cô ấy vừa sửa vừa làm chúng.
– Cha tôi chơi violin rất giỏi. Chúng tôi đến Bowl mỗi mùa hè để nghe Jascha Heifetz chơi. Phải quay về khi ấy vẫn còn đang thưởng thức những con phố xinh xắn ở Hollywood. Ông ấy dạy ở VSC, là Heifetz chứ không phải cha tôi, mặc dù cha tôi cũng từng là sinh viên trường đó. Con trai tôi cũng vậy, nó học khoa marketing.
Tôi mỉm cười.
– Tôi có thể hỏi, anh là bác sĩ chuyên khoa gì được không?
– Tôi là bác sĩ tâm lý.
Bà ấy nhấp một ngụm.
– Và anh thấy con Barry ở đâu?
– Nó xuất hiện ở nhà tôi.
– Ở đâu bác sĩ?
– Ngay bên ngoài Bevery Glen.
– Phía Nam hay phía Bắc Sunset.
– Khoảng 1,5 dặm về phía Bắc.
– Lạ thật... cầu chúa ban phước cho những người hay làm phúc. Thật là một điều thú vị khi tin rằng bản chất lương thiện của con người vẫn được duy trì.
– Làm thế nào mà bà tìm được tôi, bà Braithwaite?
– Từ Mae Josephs ở Đội cứu hộ Frenchie... chúng tôi đã ở Palm Desert và không nhận được tin nhắn của cô ấy cho đến hôm nay.
Cửa mở ra và Robin bước vào, mang một cái túi và dắt theo con chó.
– Barry – Bà Braithwaite thốt lên, bật dậy khỏi ghế. Con chó chạy lon ton đến với bà ấy và liếm tay bà.
– Barry, Barry, ôi Barry bé nhỏ. Mày đã có một cuộc phiêu lưu thật sự đó, phải không? – Rồi bà ấy vuốt ve nó – Mày trông tuyệt thật, Barry ạ – Bà ta nói với chúng tôi – Nó tuyệt thật, cảm ơn nhiều.
– Đó là niềm vui của chúng tôi. Nó thật là một anh chàng tuyệt vời.
– Vâng, nó tuyệt thật, phải không nào Barry? Một anh chàng ngọt ngào ngay cả khi mày ngáy. Nó có ngáy không?
– Nó ngáy to và rõ – Robin nói, mỉm cười, nhưng tôi biết mắt nàng đang ngấn nước. Tôi nắm tay nàng, nàng nắm chặt tay tôi, rồi bắt đầu trút túi đồ ra, trong đó là một cái ngựa đàn trống bằng gỗ mun.
Con chó đi về phía chúng tôi và đặt hai chân trước lên đùi Robin. Nàng vuốt vuốt cằm nó. Nó dụi cái đầu bé nhỏ vào chân nàng.
– Mẹ tôi thích như thế. Tiếng ngáy. Barry thực sự là của mẹ tôi, bà nuôi những con chó Bun Anh và một con Frenchie hơn năm mươi năm qua. Bà phải tốn công chăm sóc chúng cả ngày và huấn luyện chúng vâng lời.
– Có phải bà ấy dạy nó tránh nước không?
– Ồ, dĩ nhiên rồi. Mẹ tôi dạy tất cả những con chó của bà như vậy. Bà trồng hoa huệ và có một cái hồ lớn. Bà đặt con chó lên lưng, nhưng những con chó Bun quá nặng, nên bà chỉ mang những con Frenchie thôi. Rồi bà yếu dần, ngay cả con Frenchie cũng không mang nổi. Barry là con chó nhỏ cuối cùng của bà. Ba năm trước bà mua nó về, chở nó bằng máy bay từ tận Hà Lan.
Bà ấy rút một chiếc khăn tay bằng vải lanh ra khỏi túi, cởi mắt kính ra và chấm chấm mắt.
– Mẹ tôi qua đời ba tuần trước. Bà đã ốm một thời gian rồi, Barry là người bạn trung thành của bà, phải không nào, cưng?
Bà ta chìa tay ra. Con chó rút hai chân về, nhưng vẫn đứng bên cạnh Robin.
Bà Braithwaite lại chấm mắt thêm chút nữa.
– Nó nằm trên giường với bà cụ, sủa lên khi cô y tá định bước vào... tôi thật sự tin rằng nó là lý do để bà có thể trụ được đến mức có thể. Nhưng dĩ nhiên cuối cùng chúng tôi phải nhờ đến y tá, thật là một nỗi kinh hoàng và chấn động. Barry có lẽ đã lẩn đi khi đó. Tôi đã không phát hiện ra mãi đến sau này.
– Mẹ bà sống ở đâu? – Tôi hỏi.
– Ở Holmby nhỏ. Ngay bên ngoài Comstock, phía Nam đại lộ.
Cách nhà tôi hai dặm.
Bà ấy nói:
– Nó đã vượt qua được Sunset, qua làn xe cộ đó – Bà ấy lại chấm mắt – Con vật tội nghiệp, nếu như có chuyện gì xảy ra với mày thì...
– Vâng – Robin nói – Cảm ơn Chúa, nó đã vượt qua được.
– Vâng, vâng. Tôi có thể thấy rằng anh chị đã cho nó một cái chuồng nhỏ xinh xắn phải không?
– Chúng tôi đã cố.
– Vâng, vâng, tôi có thể thấy... vâng... anh chị muốn có nó không?
Miệng Robin há hốc ra. Nàng nhìn tôi sửng sốt.
Tôi hỏi:
– Bà không cần nó sao?
– Không phải thế, bác sĩ ạ. Tôi rất thích thú vật, nhưng chồng tôi thì không. Hoặc đúng hơn là chúng không thích ông ấy. Ông ấy dị ứng với chúng. Chó, mèo, ngựa, chuột đồng... bất cứ lông của con nào cũng làm ông ấy bị dị ứng và sưng phồng ra như quả bóng. Lát nữa, ngay khi về nhà tôi phải tắm xà phòng, nếu không Monty sẽ thở khò khè ngay khi anh ấy thấy tôi.
Bà ấy lấy trong ví ra một cái gì đó và đưa nó cho tôi.
Một tờ phả hệ cho con Limel Barrymore của dòng họ Van Der Legyh. Một cây phả hệ khiến cho cây của gia đình tôi phải phát ngượng.
Bà Braithwaite hỏi:
– Nó có cao quý không?
– Rất cao quý.
Robin nói:
– Chúng tôi rất muốn nhận nó.
– Tốt quá. Tôi mong rằng anh chị là người tử tế. – Bà ấy cười nhưng lại nhìn quanh xưởng với vẻ hoài nghi. – Nó thích bánh quy gan và xúc xích. Tất nhiên là cả pho mát nữa. Mặc dù nó không thích pho mát Edam của Hà Lan. Điều đó có lạ không khi nó là chó Hà Lan?
Robin nói:
– Chúng tôi sẽ giúp nó giữ cách sống mà nó đã từng quen thuộc.
– Vâng... – Bà ấy lén nhìn quanh xưởng – Tôi chắc là nó sẽ thích ngôi nhà mới của anh chị, ngôi nhà sẽ vẫn được xây ở chỗ cũ chứ.
– Dĩ nhiên rồi – Tôi nói, nhấc bổng con chó lên và xoa xoa bụng nó – Chúng tôi đã rất hạnh phúc khi ở đó.