CHƯƠNG THỨ NHẤT TUỔI NHỎ ĐẬU CAO
TÔ THỨC, tự là Tử Chiêm, hiệu là Đông Pha cư sĩ, trong các sách văn học thường gọi là Tô Đông Pha.
Ông là con cả của một danh sĩ đời Tống, Tô Luân, sinh ngày 19 tháng chạp âm lịch năm Bính tí (năm Cảnh Hữu thứ ba đời vua Nhân Tôn) vào khoảng đầu năm dương lịch 1037.[6] Nhà ông vào hạng phú gia chứ không phải vọng tộc ở huyện Mi Sơn, quận Mi Châu, nay thuộc tỉnh Tứ Xuyên.
Huyện Mi Sơn nằm trên sông Mân, một chi nhánh của sông Dương Tử ở phía tây Trùng Khánh và phía nam Thành Đô, phong cảnh đẹp: núi cao, sông mùa đông nước trong xanh, mùa hè nước vàng những phù sa, nhờ vậy mà đất cát phì nhiêu. Giữa những ruộng mơn mởn và những vườn trái cây, bên cạnh các bụi trúc, người ta thường thấy những hồ sen, cứ tới tháng năm, tháng sáu, hương tỏa ngào ngạt cả một vùng.
Ông nội Đông Pha, tên là Tô Tự, chỉ là một nhà nông, ít học nhưng giàu có, phúc hậu; có năm được mùa, ông cụ để dành ba bốn ngàn hộc lúa để đến khi đói kém, phân phát cho những người thiếu thốn theo thứ tự từ thân tới sơ: người trong họ mình trước rồi tới người trong họ bên vợ, sau cùng mới tới những người họ khác trong làng.
Tới đời cha Đông Pha, trong nhà mới có người đỗ đạt. Người con thứ nhì của Tô Tự (sử không chép tên, không rõ là chú hay bác của Đông Pha), thi đậu tiến sĩ, và ngày được tin đó là ngày vui nhất trong đời của cụ.
Nhưng chính cha của Đông Pha, Tô Tuân, sinh năm 1009, tự là Minh Doãn, thì lại bướng bỉnh, biếng học, mặc dầu rất sáng dạ. Nhiều bà con, bạn bè trách Tô Tự sao không răn bảo con, ông cụ chỉ đáp: “Tôi không lo về nó”; cụ có vẻ tin rằng thế nào cũng có lúc con cụ biết tu tỉnh, và tư chất thông minh, học sẽ mau tấn tới.
Quả nhiên, khi Tô Tuân cưới một thiếu nữ họ Trình có học, con nhà gia thế trong miền, thấy bà con bên vợ và cả các anh rể của mình, nhiều người đỗ đạt, ông bắt đầu hồi tâm, rồi tới khi hai người con trai ra đời (Tô Thức năm 1037, Tô Triệt, tự là Tử Do, năm l039) thì ông hối hận đã bỏ phí tuổi xuân, ba chục tuổi đầu mà vẫn còn lêu lổng, không có chút danh vọng gì cả. Từ đó ông phát phẫn, đóng cửa để học, và chỉ ít năm thuộc cả lục kinh, thông cả học thuyết của bách gia, hạ bút là thành văn, nổi tiếng ở trong miền, danh truyền tới Thành Đô. Thành Đô thời đó là một đất văn vật, nhờ một thế kỷ trước, nghề in phát minh tại đó, nhà khá giả nào cũng có đủ sách cho con cái học.
*
Hồi Đông Pha lên tám chín tuổi, Tô Tuân đã ba mươi sáu, ba mươi bảy tuổi, mới lên kinh đô thi tiến sĩ, rớt nên buồn, không về nhà ngay mà đi ngao du trong nước ít năm. Bà vợ ở nhà đích thân trông nom sự dạy dỗ Đông Pha. Một hôm bà giảng tiểu sử Phạm Bàng trong bộ Hậu Hán thư cho con nghe. Hậu Hán, cũng gọi là Đông Hán, là thời vua chúa dâm đãng, nhu nhược, quyền hành vào tay bọn hoạn quan hết. Một bọn sĩ ở triều đình can đảm chống lại, trong số đó có Phạm Bàng (tự là Mạnh Bác) cương nghị, tiết tháo hơn cả, nên bị bọn hoạn quan vu oan là lập đảng, có ý mưu phản, hạ lệnh bắt ông để xử tội. Viên phán quan được thi hành lệnh đó, vốn kính trọng Phạm Bàng, ngầm cho ông hay trước, khuyên ông trốn đi. Ông không chịu, đáp rằng nếu trốn thì mẹ già sẽ bị liên lụy. Ông bèn dặn dò em trai ở lại phụng dưỡng mẹ, rồi mới từ biệt mẹ, an ủi mẹ, biết rằng thế nào mình cũng chết, nhưng xin mẹ đừng buồn rầu quá. Bà mẹ khảng khái đáp: “Mẹ cũng mong cho con vừa có danh tiếng, vừa được thọ, nhưng đã không thể được cả hai thì giữ cái danh là hơn”. Người chung quanh nghe câu đó đều sa lệ.
Đọc tới đoạn đó, Đông Pha ngước mắt lên nhìn mẹ, hỏi: “Con sau này mà muốn như Phạm Bàng thì mẹ có cho phép không?” Bà mẹ đáp: “Nếu con được như Phạm Bàng thì mẹ sao lại không được như mẹ Phạm Bàng?”.
Hồi sáu tuổi, Đông Pha đến học một đạo sĩ tên là Trương Dị Giản. Trường có khoảng hơn trăm học trò, đa số là con cái các nhà giàu có trong miền, Đông Pha xuất sắc nhất, được thầy mến nhất.
Năm mười một tuổi, đọc sách đã thông, cậu bắt đầu tập làm thơ văn cử nghiệp. Vào khoảng đó, cha đi du lịch khắp nơi rồi về nhà, săn sóc sự học cho cậu. Ông không có tài làm thơ (có lẽ vì vậy mà thi rớt), nhưng văn ông bình giản; cổ kính, không tô chuốt như đa số các nhà khác; và ông truyền được tác phong đó cho Đông Pha và Tử Do, đúng vào lúc mà Âu Dương Tu làm Hàn lâm học sĩ, kiêm chánh chủ khảo, muốn cải hóa văn phong, đề cao sự phục cổ, phản đối kịch liệt cái thói tiểu xảo, hoa mĩ, lời huênh hoang mà không thiết thực, được người đương thời gọi là “Hàn Dũ của đời Tống”.
Đông Pha và Tử Do học rất tấn tới, có tài ngang nhau, tính tình tuy khác nhau (anh thì vui vẻ, khoáng đạt, em thì nghiêm cẩn, ít nói) nhưng rất quí mến nhau, tới già tình đó vẫn không giảm.
Theo truyền thuyết, họ còn có một người em gái đẹp và rất có tài văn thơ, gọi là Tô Tiểu muội[7] (cô em họ Tô) sau lấy Tần Quan, một thi sĩ nổi danh, đêm động phòng, nàng ra một câu đối, có đối được, nàng mới mở cửa cho vào; Tần Quan nghĩ không ra, đi đi lại lại ngoài sân, Đông Pha phải gà cho, chàng mới đối được. Nhưng giai thoại đó không có chút căn cứ gì cả. Trong các thư từ nhật ký của Đông Pha và Tử Do, có nhiều chỗ nhắc tới Tần Quan mà tuyệt nhiên không chép truyện đó. Giai thoại chỉ tỏ rằng về văn chương danh tiếng của họ Tô rất lớn tới nỗi dân chúng muốn tin rằng bao nhiêu tinh hoa chung đúc vào gia đình đó hết.
Nhưng Đông Pha có một cô em họ rất gần, hiền hậu và thông minh, chàng yêu quí lắm, cưới không được, suốt đời hận về điều đó.[8]
*
Khi hai anh em Đông Pha đã đủ sức để lên kinh thi rồi thì gia đình lo cưới vợ cho họ trước, để nếu mà đậu - và họ có nhiều hi vọng đậu lắm - thì khỏi bị các phú gia ở kinh “bắt sống”.
Vì thời đó ở kinh đô Trung Hoa - mà mãi tới đầu thế kỷ của chúng ta, ở Nam Định nơi có trường thi và ở Huế thì cũng vậy - các đại phú gia có con gái tới tuổi gả chồng, đều ngóng ngày treo bảng, thấy một vị tân khoa nào chưa vợ là nhờ bà mai tới “tấn công” liền, dụ dỗ cho được để đón về làm khách đông sàng. Và các cậu Cử, cậu Nghè chân ướt chân ráo ở quê lên, thấy cảnh lâu đài lộng lẫy của họ, thấy những thiếu nữ “kỳ nhan như ngọc”, thì “bước đi không đành”, ít ai chống lại được. Cho nên mùa thi ở Trung Hoa và ở Việt Nam hồi xưa cũng là mùa mai mối, mà đại đăng khoa rồi thường tiếp ngay tới tiểu đăng khoa.
Gia đình họ Tô biết vậy nên lo cưới vợ trước cho Đông Pha để có một nàng dâu ở trong miền, họ Vương tên Phất; Đông Pha mười tám tuổi và Vương Phất mười lăm. Năm sau, lại cưới vợ luôn cho Tử Do; cặp này chồng mười bảy tuổi, vợ mười lăm.
Năm 1056, họ cùng với cha lên kinh thi. Trước hết họ lại Thành Đô, vào thăm Trương Phương Bình, một người bạn của Tô Tuân. Tuân lúc này đã bốn mươi bảy tuổi từ khi thi rớt, về nhà đọc rất nhiều sách, nghiên cứu về chính trị, binh pháp, bút pháp càng thêm già giặn, nhiều bài được hạng sĩ phu Thành Đô thán phục. Ông đã đưa một số bài cho Trương Phương Bình coi. Trương khen và có ý đề cử ông làm một chức như giáo thụ. Ông không nhận, tự cho rằng chức đó không xứng với tài mình, và Trương viết một bức thư giới thiệu với Âu Dương Tu, một vị Hàn lâm học sĩ ở triều đình, được coi là ngôi sao bắc đẩu trên văn đàn thời đó. Một người nữa viết cho ông một bức thư giới thiệu với Mai Thánh Du (Nghiêu Thần) và cầm hai bức thư đó, ông lên kinh, hi vọng kiếm được một chút danh phận để mở mặt với họ hàng bên mình và bên vợ.
Sau hai tháng vất vả qua miền núi non hiểm trở của Tứ Xuyên, tháng 5 năm 1056, ba cha con tới kinh đô là Khai Phong, ở trọ trong ngôi chùa Hưng Quốc. Mùa thu năm đó có kỳ thi hạch và hai anh em Đông Pha được tuyên trong số bốn mươi lăm thí sinh quê quán ở Mi Châu.
Trong khi đợi kì thi tiến sĩ vào mùa xuân năm sau, họ đi thăm cảnh kinh đô. Khai Phong (còn gọi là Đông Kinh, Tây Kinh là Lạc Dương) hồi đó là một đô thị trù phú, nằm trên bờ sông Hoàng Hà, có hai vòng thành, vòng ngoài dài khoảng hai chục cây số có mười hai cửa, vòng trong dài khoảng mười hai cây số. Dưới chân thành là một cái hào rộng khoảng ba chục thước; hai bên bờ, sau hàng liễu rủ, thấp thoáng các gác tía lầu son. Những chiếc cầu gỗ cong cong chạm trổ đẹp đẽ và sơn đỏ bắc qua dòng nước. Xe ngựa dập dìu trên bốn con đường chính: đông, tây, nam, bắc. Trong thành không người nào ra đường mà để đầu trần, và ngay những thầy tướng, thầy số nghèo nhất cũng ăn bận như một thư sinh. Còn các thiếu nữ con nhà sang trọng đều ngồi trong những chiếc xe hai bánh có màn che, do gia nhân đẩy, tựa những xe xích lô của chúng ta ngày nay.
Kì thi tiến sĩ năm 1057, Âu Dương Tu làm chánh chủ khảo. Trường thi tổ chức giống các trường thi Hương của ta thời xưa, chỉ khác là các “quyển” - tức bài làm - của thí sinh đều do một số nho sinh chép lại mà giấu tên, rồi mới giao cho các giám khảo chấm để tránh mọi sự gian lận. Đệ nhất trường (tức bài thứ nhất) hỏi về sử hoặc chính trị. Đệ nhị trường là một bài về tứ thư, ngũ kinh; đệ tam trường là một bài phú và một bài luận về chính trị nữa, vì năm đó vua Nhân Tôn rất chú trọng tới sự tuyển lựa những kẻ sĩ có kiến thức về việc trị dân, để mong cứu vãn tình hình nguy ngập của quốc gia. Đích thân nhà vua chọn đầu bài và tới giờ chót mới cho đem lại trường thi. (Kì thi tiến sĩ chỉ tổ chức ở kinh đô).
Cả hai anh em Đông Pha đều đỗ cao. Đầu đề bài luận về chính trị là Hình thưởng trung hậu chi chí luận (Luận về sự trung hậu rất mực trong phép thưởng phạt).
Bài của Đông Pha như sau:
刑 賞 忠 厚 之 至 論
堯 舜 禹 湯 文 武 成 康 之 際, 何 其 愛 民 之 深, 憂 民 之 切, 而 待 千 下 以 君 子, 長 者 之 也! 有 一 善 從 而 賞 之, 又 從 而 泳 歌 嗟 歎 之, 所 以 樂 其 始 而 勉 其 終. 有 一 不 善, 從 而 罰, 又 從 而 哀 矜 懲 創 之, 所 以 棄 其 舊 而 開 其 新. 故 其 旴 俞 之 聲, 歡 休 慘戚, 見 於 虞 夏 商 周 之 書.
成 康 旣 没 穆 王 立 而 周 道 始 衰, 然 猶 命 其 臣 呂 侯, 而 告 之 以 祥 刑. 其 言 憂 而 不 傷, 威 而 不 怒, 慈 愛 而 能 斷, 側 然 有 哀 憐 無 辜 之 心, 故 孔 子 猶 有 取 焉.
傳 曰: “賞 疑 從 與, 所 以 廣 恩 也, 罰 疑 從 去, 所 以 慎 刑 也”. 當 堯 之 時, 皋 搖 爲 士, 將 樧 人, 皋 搖 曰: “樧 之” 三; 堯 曰: “有 之” 三; 故 千下 畏 皋 搖 執 法 之 堅, 而 樂 堯 用 刑 之 寬. 四 岳 曰: “鯀 可 用”. 堯 曰: “不 可, 鯀 方 命 圮 族”. 旣 而 曰: “弑 之”. 何 堯 之不 聽 皋 搖 之 樧 人, 而 從 四 岳 之 用 鯀 也? 然 則 聖 人 之 意, 蓋 亦 可 見 矣.
書 曰: “罪 疑 惟 輕, 功 疑 惟 重, 與 其 樧 不 辜, 寧 失 不 經”. 嗚 呼!盡 之 矣. 可 以 賞, 可 以 無 賞, 賞 之 過 乎 仁; 可 以 罰, 可 以 無 罰, 罰 之 過 乎 義. 過 乎 仁, 不 失 爲 君 子; 過 乎 義, 則 流 而 入 於 忍 人. 故 仁 可 過 也, 義 不 可 過 也.
古 者 商 不 以 爵 祿, 刑 不 以 刀 倨: 賞 之 以 爵 祿, 是 商 之 道 行 於 爵 祿 之 所 加, 而 不 行 於 爵 祿 之 所 不 加 也; 刑 之 以刀 倨, 息 刑 之 威 絶 於 刀 倨 之 所 不 及 也. 先 王 知 天 下 之 善 不 升 賞, 而 爵 祿 不 足 以 勸 也; 知 天 下 之 惡 不 塍 刑 而 刀 鋸 不 足 以裁 也; 是 故 疑 則 舉 而 歸 之 於 仁, 以 君 子, 長 者 之 道 待 天 下, 使 天 下 相 率 而 歸 於 君子, 長 者 之 道, 故 曰 忠 厚 之 至也.
詩 曰: “君子 如 址, 亂 庶 遄 已, 君 子如 怒, 亂 庶 遄 沮”. 夫 君 子 之 已 亂, 豈 有 異 術 哉? 時 其 喜 怒 而 無 失 乎 仁 而 已 矣. 春 秋 之 義, 立 法 貴 嚴, 而 責 人 貴 寬; 因 其 褒 貶 之 義 以 制 賞 罰, 亦 忠 厚 之 至 也.
HÌNH THƯỞNG TRUNG HẬU CHI CHÍ LUẬN
Nghiêu, Thuấn, Vũ, Thang, Văn, Võ, Thành, Khang chi tế, hà kì ái dân chi thâm, ưu dân chi thiết, nhi đãi thiên hạ dĩ quân tử, trưởng giả chi đạo dã! Hữu nhất thiện, tòng nhi thưởng chi, hựu tòng nhi vịnh ca, ta thán chi, sở dĩ lạc kì thủy nhi miễn kì chung. Hữu nhất bất thiện, tòng nhi phạt chi, hựu tòng nhi ai căng, trừng sáng chi, sở dĩ khí kì cựu nhi khai kì tân. Cố kì hu du chi thanh, hoan hưu thảm thích, kiến ư Ngu, Hạ, Thương, Chu chi thư.
Thành, Khang kí một, Mục vương lập nhi Chu đạo thủy suy, nhiên do mệnh kì thần Lữ Hầu, nhi cáo chi dĩ tường hình. Kì ngôn ưu nhi bất thương, uy nhi bất nộ, từ ái nhi năng đoạn, trắc nhiên hữu ai lân vô cô chi tâm, cố Khổng Tử do hữu thủ yên.
Truyện viết: “Thưởng nghi tòng dữ, sở dĩ quảng ân dã; phạt nghi tòng khứ, sở dĩ thận hình dã”. Đương Nghiêu chi thời, Cao Dao vi sĩ, tương sát nhân. Cao Dao viết: “Sát chi”, tam; Nghiêu viết: “Hữu chi”, tam; cố thiên hạ úy Cao Dao chấp pháp chi kiên, nhi lạc Nghiêu dụng hình chi khoan. Tứ nhạc viết: “Cổn khả dụng”. Nghiêu viết: “Bất khả, Cổn phương mệnh bĩ tộc”. Kí nhi viết: “Thí chi”. Hà Nghiêu chi bất thính Cao Dao chi sát nhân, nhi tòng tứ nhạc chi dụng Cổn dã? Nhiên tắc thánh nhân chi ý, cái diệc khả kiến hĩ.
Thư viết: “Tội nghi duy khinh, công nghi duy trọng, dữ kì sát bất cô, ninh thất bất kinh”. Ô hô! Tận chi hĩ. Khả dĩ thưởng, khả dĩ vô thưởng, thưởng chi quá hồ nhân; khả dĩ phạt, khả dĩ vô phạt, phạt chi quá hồ nghĩa. Quá hồ nhân, bất thất vi quân tử; quá hồ nghĩa, tắc lưu nhi nhập ư nhẫn nhân. Cố nhân khả quá dã, nghĩa bất khả quá dã.
Cố giả thương bất dĩ tước lộc, hình bất dĩ đao cứ: thưởng chi dĩ tước lộc, thị thương chi đạo hành ư tước lộc chi sở gia, nhi bất hành ư tước lộc chi sở bất gia dã; hình chi dĩ đao cứ, tức hình chi uy thi ư đao cứ chi sở bất cập dã. Tiên vương tri thiên hạ chi thiện bất thưởng, nhi tước lộc bất túc dĩ khuyến dã; tri thiên hạ chi ác bất thăng hình nhi đao cứ bất túc dĩ tài dã; thị cố nghi tắc cử nhi qui chi ư nhân, dĩ quân tử, trưởng giả chi đạo đãi thiên hạ, sử thiên hạ tương suất nhi qui ư quân tử, trưởng giả chi đạo, cố viết trung hậu chi chí dã.
Thi viết: “ Quân tử như chỉ, loạn thứ thuyên dĩ; quân tử như nộ, loạn thứ thuyên trở”. Phù quân tử chi dĩ loạn, khởi hữu dị thuật tai? Thời kì hỉ nộ nhi vô thất hồ nhân nhi dĩ hĩ. Xuân Thu chi nghĩa, lập pháp quí nghiêm, nhi trách nhân quí khoan; nhân kì bao biếm chi nghĩa dĩ chế thưởng phạt, diệc trung hậu chi chí dã.
Nghĩa:
LUẬN VỀ SỰ TRUNG HẬU CỰC ĐIỂM
TRONG PHÉP THƯỞNG PHẠT
Thời xưa các vua Nghiêu, Thuấn, Vũ, Thang, Văn, Võ, Thành, Khang[9] sao mà yêu dân, lo cho dân thâm thiết và lấy các đạo của bậc trưởng giả,[10] quân tử đãi với dân như vậy! Dân có một điều hay thì nhân đấy mà thương rồi lại nhân đó mà ca vinh, tán thán để người đó vui vẻ trong lúc đầu rồi gắng sức cho đến cuối. Dân có một điều bất thiện thì nhân đó mà phạt rồi lại nhân đó mà thương xót răn bảo để người đó bỏ tật cũ mà bắt đầu một đời sống mới. Cho nên những tiếng than thở, gọi thưa, vui vẻ, bi thảm còn thấy trong sách các đời Ngu, Hạ, Thương, Chu.[11]
Khi vua Thành, vua Khang đã mất, Mục Vương lên ngôi thì đạo Nhà Chu bắt đầu suy, nhưng nhà vua còn sai bề tôi là Lữ Hầu, khuyên phải khéo dùng hình phạt,[12] lời có ý lo mà không buồn, có vẻ uy mà không giận, từ ái mà lại cương quyết, có lòng xót xa thương kẻ vô tội. Cho nên Khổng Tử khen là còn khả thủ.
Sách[13] có câu: “Muốn thưởng mà còn nghi thì cứ thưởng để mở rộng ân đức, muốn phạt mà còn nghi thì nên tha để thận trọng về việc hình”. Thời vừa Nghiêu, ông Cao Dao làm hình quan, muốn giết người, ba lần bảo “Giết đi”, vua Nghiêu ba lần bảo “Tha cho”. Cho nên thiên hạ sợ Cao Dao giữ phép nghiêm nhặt và mừng vua Nghiêu dùng hình khoan hậu. Các quan tứ nhạc nói: “Cổn[14] dùng được”. Vua Nghiêu nói: “Không được. Cổn trái mệnh và bại hoại”. Rồi lại bảo: “Thử đi”. Vì lẽ gì mà vua Nghiêu không nghe lời Cao Dao bảo giết người mà lại nghe lời các quan tứ nhạc và dùng Cổn? Xét hai việc đó thì cái ý của thánh nhân cũng có thể thấy được rồi.
Kinh Thư nói: “Tội mà còn nghi ngờ thì nên phạt nhẹ, công mà còn nghi ngờ thì nên thưởng hậu; giết một người vô tội thì thà mang tiếng trái luật còn hơn. Than ôi! Nói như vậy là trung hậu tới cùng cực rồi. Có thể thưởng được lại có thể không thưởng được, mà cứ thưởng, là vượt cái nhân; có thể phạt được, lại có thể không phạt được, mà phạt, là vượt cái nghĩa. Vượt cái nhân thì vẫn còn là người quân tử và vượt cái nghĩa thì là nhập vào bọn người tàn nhẫn. Cho nên nhân có thể vượt được mà nghĩa không thể vượt được.[15]
Đời xưa không lấy tước lộc để thưởng, không dùng gươm cưa để làm tội, lấy tước lộc mà thưởng thì cái đạo thưởng chỉ thi hành ở chỗ tước lộc tặng thêm cho người ta đi được thôi,[16] mà không thi hành được, dùng gươm cưa mà làm tội thì cái uy nghiêm của hình phạt chỉ thi hành ở chỗ gươm cưa phạm tới được thôi[17] mà không thể thi hành ở chỗ gươm cưa không thể phạm tới được. Tiên vương biết rằng những việc thiện trong thiên hạ không sao thưởng hết được mà tước lộc không đủ để khuyến khích mọi người, biết rằng những việc ác trong thiên hạ không thể phạt hết được mà gươm cưa không đủ để sửa trị mọi người; cho nên còn nghi thì nâng đỡ người ta tiến về đường nhân, lấy đạo của người quân tử, trưởng giả mà đãi thiên hạ, khiến thiên hạ dắt nhau theo về đạo của bậc quân tử, trưởng giả. Vì vậy mà bảo là rất mực trung hậu.
Kinh Thi nói: “Quân tử[18] mà vui vẻ (theo lời người hiền) thì loạn mau mau dẹp; quân tử mà giận (khi thấy kẻ sàm) thì loạn mau mau ngừng”. Quân tử mà dẹp loạn, có thuật nào khác đâu? Biết mừng giận cho hợp lúc mà không mất đạo nhân, thế thôi. Ý nghĩa trong kinh Xuân Thu là lập pháp thì cần nghiêm mà trách người thì nên khoan, nhân cái nghĩa bao biếm[19] mà chế định thưởng phạt, đó cũng là rất mực trung hậu vậy.
Chánh chủ khảo Âu Dương Tu rất khen bài đó nhưng ngờ là của Tăng Củng - một bạn thân của ông, Đông Pha đã đọc qua rồi mượn ý, nên không lấy Đông Pha khôi nguyên mà hạ xuống á nguyên trong số 388 người trúng tuyển.
Năm đó Đông Pha 22 tuổi. Tử Do mới 20. Danh của họ vang khắp kinh đô rồi lan tới các tỉnh.
Tương truyền sau kì thi, Mai Thánh Du (Nghiêu Thần) một vị giám khảo mà cũng là một danh sĩ đương thời, hỏi Đông Pha:
- Trong bài của thầy có đoạn viết rằng Cao Dao muốn xử tử một kẻ có tội nặng, ba lần bảo “giết đi”, vua Nghiêu ba lần bảo “Tha cho”, là đọc ở sách nào vậy, tôi không nhớ nữa.
Đông Pha thú thực:
- Thưa kẻ hậu sinh thêm thắt đấy.
Mai trợn mắt:
- Cả gan thật!
Đông Pha thưa:
- Kẻ tiểu sinh nghĩ một minh quân tất phải có thái độ như vậy.
Sau khi biết rằng mình đã ngờ oan Tô Thức, Âu Dương Tu không tiếc lời ca ngợi trang anh tuấn đó, nói với bạn bè: “Tôi già rồi - năm đó ông ta vào khoảng ngũ tuần - tôi phải nhường chỗ cho thanh niên đó, cậu ấy phải lĩnh trọng trách nhất trong nước”; rồi lại nói với các con: “Các con nhớ lời cha: ba chục năm nữa, không còn ai nhắc tới cha mà người ta sẽ nhắc mãi tới Tô Thức”.
Tô Tuân không ứng thí, vì chẳng lẽ lại ganh đua với các con, chỉ trình mấy bài văn của mình lên Âu Dương Tu, còn đợi Âu Dương Tu xét thì có tin vợ chết. Theo tục thời đó hai anh em Tô Thức trong lúc cư tang không được lĩnh một chức vụ gì của triều đình, và ba cha con lại dắt nhau về Mi Sơn.
Trong thời gian ở Mi Sơn, Tô Tuân (từ đây chúng tôi gọi là Lão Tô: Tô cha), có lẽ do lời giới thiệu của Âu Dương Tu, được triều đình vời lên kinh dự một kì thi đặc biệt. Ông dâng một tờ biểu, từ chối, lấy cớ rằng tuổi già mà đa bệnh. Nhưng trong một bức thư cho một bạn thân, ông viết: “Tại sao già như tôi rồi mà còn phải thi với cử, nộp bài cho người ta chấm, làm trò cười cho thiên hạ? Tôi đã trình văn của tôi lên Âu Dương Công. Nếu ông cho là hay thì cần gì phải bắt tôi thi nữa? Tôi ngán cái cảnh phải thức dậy từ nửa đêm, vác lều chõng đợi ở cửa trường thi cho tới sáng. Bây giờ mỗi lần nhớ tới, tôi còn thấy rùng mình...”.
Tháng sáu năm 1059, triều đình lại vời ông một lần nữa; con người tự cao đó lại cáo bệnh lần nữa. Ông biết giá trị văn ông không kém gì những danh sĩ bậc nhất thời đó như Âu Dương Tu, Tăng Củng.
Nhưng cuối năm đó, hết tang mẹ, hai anh em Tô Thức và Tô Triệt dắt cả vợ lên kinh, và lần này Lão Tô cùng đi. Ba cha con nhà đó quyết chí chuyến này phải lập nên sự nghiệp.
[6] Lâm Ngữ Đường chép là 1036, như vậy không đúng hẳn. Năm Bính tí là 1036, nhưng ngày 19 tháng chạp đã qua năm 1037 rồi. [Cụ thể là ngày 08/01/1037. (Goldfish)].
[7] Trong sách ghi Tô Tiêu Muội, theo tôi là Tô Tiểu Muội (quantam).
[8] Cô đó cũng họ Tô, sau lấy Liễu Trọng Viễn.
[9] Tên những minh quân thời thượng cổ Trung Hoa. Theo truyền thuyết, vua Nghiêu làm vua từ 2359 tới 2259, nhường ngôi cho vua Thuấn (2259-2208). Vua Thuấn lại nhường ngôi cho vua Vũ (2208-2197). Thang là vua Thành Thang nhà Thương (1766-1783). Văn, Võ, Thành, Khang là bốn vua đầu đời Chu (Thế kỉ XII và XI trước T.L). Theo quan niệm của nhà Nho, các ông vua càng về sau càng kém đạo đức, và những ông vua kể trên đều là bậc thánh, đáng làm gương cho đời sau.
[10] Trưởng giả trỏ những người đáng trọng, chứ không có nghĩa chúng ta thường dùng ngày nay để trỏ giai cấp thị dân (bourgeoisie) của Pháp.
[11] Ngu là đời vua Thuấn, (Đường là đời vua Nghiêu), Hạ là đời từ vua Vũ tới vua Kiệt (2208-1767), Thương là đời vua Thành Thang tới vua Trụ (1767-1123). Nhà Chu nối nhà Thương từ 1135 (vì kể cả đời vua Văn Vương, lúc đó chưa hết đời vua Trụ) đến 221. Sau nhà Chu là nhà Tần.
[12] Chữ tường hình ở đây còn có thể hiểu theo nghĩa này nữa: chính sách hình pháp tốt lành, tức chính sách: dùng hình pháp để đạt được mục đích không phải dùng hình pháp nữa, vì vậy gọi là tốt lành
[13] Chúng tôi không rõ sách nào. Tiếng truyện trong nguyên văn trỏ chung các sách về sử thời cổ.
[14] Cổn là cha vua Vũ, và là một trong bốn người có tiếng là tàn bạo thời đó. Tứ nhạc là bốn vị quan lớn đời vua Nghiêu, nắm quyền coi sóc các chư hầu ở bốn phương. Cả bốn đều là con ông Hi Hòa.
[15] Nghĩa là việc gì nên làm thì làm. Vượt cái Nghĩa ở đây là quá nghiêm khắc, không đáng làm mà cứ làm.
[16] Tước lộc chỉ làm cho người ta thêm sang, giàu, chứ không làm tăng cái đức của người ta; người nào không ham tước lộc mà trọng đức thì thưởng bằng tước lộc không có ích gì cả.
[17] Gươm và cưa chỉ làm hủy hoại thân thể người ta: những kẻ không sợ thân thể bị hủy hoại thì hình phạt bằng gươm cưa vô ích.
[18] Quân tử ở đây trỏ người cầm quyền.
[19] Coi chú thích trang sau.