← Quay lại trang sách

CHƯƠNG THỨ HAI BUỚC ĐẦU TRÊN HOẠN LỘ-HAI CÁI TANG

Chuyến đi này, vì có hai thiếu phụ và một số gia nhân, phải chở nhiều đồ đạc, nên họ không theo đường bộ như lần trước, mà theo đường thủy trên con sông Dương Tử, dọc đường tha hồ ngắm cảnh và làm thơ.

Cảnh hùng vĩ nhất họ đi qua là cảnh Vu Sơn, Vu Giáp, thuộc tỉnh Tứ Xuyên, trên bờ sông Dương Tử.

Những tên Vu Sơn, Vu Giáp rất thường được dùng trong văn học Trung Quốc và Việt Nam.

Câu:

Bâng khuâng đỉnh Giáp non Thần,

trong Kiều, và

Chày kình gióng tỉnh giấc Vu Sơn,

đều là nhắc tới cảnh đó.

Ở đây hai bên bờ sông Dương Tử, núi dựng đứng, dòng nước đầy thác, ghềnh, cuồn cuộn chảy trong ba cái hẻm rất hẹp, hẹp nhất là Vu Giáp, suốt ngày chỉ tới giữa trưa mới có chút ánh nắng le lói chiếu xuống, mà quanh năm miền đó rất ít có ngày nắng, trên đỉnh núi, lúc nào cũng có mây mù che phủ. Có mười hai ngọn núi đứng thành hình chữ Vu nên gọi là Vu Sơn, nhưng đi ở trên sông chỉ thấy được chín ngọn thôi.

Dưới chân Vu Sơn có miếu của Thần Nữ. Tương truyền vua Sở Tương Vương thời Chiến Quốc thường lại chơi ở Cao Đường, có lần mệt mỏi, thiếp đi, mộng thấy một người đàn bà cùng với mình chăn gối. Nàng tự xưng là Thần Nữ ở núi Vu Sơn ghé chơi Cao Đường. Công việc của nàng là buổi sớm làm mây, buổi tối làm mưa ở chốn Dương Đài. Do đó mà “mây mưa” có nghĩa là trai gái hợp hoan, như trong câu Kiều:

Mây mưa đánh đổ đá vàng,

hoặc câu Cung Oán:

Chốn phòng không như giục mây mưa.

Dân tộc Trung Hoa đặt ra huyền thoại đó chính vì phong cảnh ở Vu Giáp. Ngồi ở mũi thuyền, ngửng đầu nhìn lên thấy một dải trời dài và rất hẹp, chỉ những khi mặt trời hoặc mặt trăng lên tới đỉnh đầu mới có chút tia sáng chiếu xuống mặt nước, còn những lúc khác không khí trong hẻm thực u ám như lúc xẩm tối mùa đông, lại thêm tiếng thác, tiếng gió ầm ầm, veo véo, thực rùng rợn. Mây luôn luôn tan hợp trên ngọn núi; một ngọn có hình một thiếu nữ khỏa thân, nửa ẩn nửa hiện trong đám mây hoặc cơn mưa, gợi cho ta cái ý âm dương giao hoán.

Dân trong miền có người thường lên tới ngọn núi Thần Nữ đó: cảnh cực kì tĩnh mịch, không có vết chân hổ báo, mà tiếng chim kêu vượn hót cũng vắng. Trước cửa đền Thần Nữ có một cái giếng rất trong và một bụi trúc thuộc một loại đặc biệt, cành xoã xuống sát đất, mỗi khi gió thổi thì quét qua quét lại, như giữ cho sân đền được sạch.

Vu Giáp dài trăm sáu chục dặm Trung Hoa (khoảng sáu chục cây số), hiểm trở nhất. Thuyền nào bắt đầu vào hẻm, cũng làm một con bò để cúng thần núi, khi ra khỏi hẻm, lại làm một lễ tạ ơn trọng hậu hơn nữa; và tất cả hành khách trong thuyền đều coi người điều khiển chiếc thuyền như cha mình, như vị ân nhân cứu sống mình.

Mực nước mùa đông hạ xuống, mùa hè dâng lên, cách nhau tới ba chục mét. Thuyền đi mùa nào thì cũng sợ cảnh thác, ghềnh, đá nổi và đá chìm, chỉ non tay lái hoặc mất bình tĩnh một chút là chiếc thuyền tan tành ra từng mảnh. Gặp cơn dông tố, mưa gió thì nhiều khi phải đậu lại ba bốn ngày.

Nhưng phong cảnh đẹp lạ lùng. Các mỏm đá, núi đá có đủ các hình kì dị, chắc còn hơn cảnh chùa Hương của ta; trúc và phong lan rủ xuống mặt ghềnh, rừng thông vi vút trên cao; đặc biệt nhất là có một cái suối tên là Thánh Mẫu tuyền, ở trong hốc đá gần bờ nước. Bình thường thì suối cạn. Nhưng nếu ta lại gần miệng hốc, la lớn: “Tôi khát” thì ở trong hốc chảy ra một chút nước trong vừa đầy một chén. Múc lên uống hết rồi mà chưa hết khát thì lại la lớn lần nữa, nước lại chảy ra vừa đủ một chén nữa.

Ra khỏi ba hẻm núi rồi, ba cha con họ Tô tưởng như mới tỉnh một giấc mộng. Ít bữa sau, họ lên bộ, tiếp tục cuộc hành trình tới Khai Phong. Tính ra họ đã mất bốn tháng để vượt non hai ngàn cây số, và trong thời gian đó, Đông Pha và Tử Do làm được khoảng trăm bài thơ.

*

Tới kinh, họ mua một căn nhà có vườn ở xa nơi thị tứ. Hai anh em Đông Pha thi thêm hai kì nữa, vua Nhân Tôn đọc các bài của họ, tấm tắc khen và bảo: “Hôm nay trẫm đã tìm được hai tể tướng sau này cho con cháu trẫm”.

Lão Tô khỏi phải thi, được đặc cách bổ dụng làm Hiệu thư lang ở Bí thư tỉnh, nhiệm vụ là chép đời các vua đời Tống. Ông vui vẻ lĩnh chức đó, nhưng sau phàn nàn rằng không được chép sử như mình muốn, cứ phải khen chứ không được chê các tiên vương.

Mặc dầu văn chương được nhà vua rất tán thưởng mà năm 1060, Đông Pha chỉ được nhận một chức quan nhỏ: chủ bạ huyện Phúc Xương tỉnh Hà Nam, năm sau làm chức Thiêm phán phủ Phượng Tường tỉnh Thiểm Tây. Vì Lão Tô làm quan trong triều nên Tử Do ở lại kinh, săn sóc cha, không lĩnh một chức nào cả. Lần đó là lần đầu tiên Đông Pha xa gia đình. Năm đó chàng hai mươi bốn tuổi; thời xưa tuổi đó đã nghiêm trang, bắt đầu già giặn rồi, nhưng vì bản tính hồn nhiên, thành thực, đôn hậu, không hề nghi ai là xấu, có điều gì bất bình thì không biết nén lòng, giữ lời, cho nên ít thận trọng trong sự giao du với mọi người. Người vợ, hiền và biết trọng chồng, thường đứng nép sau bức màn, nghe chồng nói chuyện với khách khứa và khuyên chồng nên xa lánh người này người khác: “Người đó luôn luôn đón trước ý anh để nói cho anh vui lòng, giao du với họ chỉ mất thì giờ”, hoặc: “Anh nên coi chừng hạng người nọ, họ vồn vã quá, người tốt giao du với nhau tình thường lạt như nước lã; nước lã không có mùi vị gì đậm đà, nhưng không bao giờ làm cho ta chán”. Đông Pha khen vợ là phải.

Việc quan ở Phượng Tường thường rảnh rang, Đông Pha có thì giờ ngao du sơn thủy và làm thơ gửi cho Tử Do. Đông Pha tới đó năm trước thì năm sau có nạn hạn hán, dân bắt đầu lo. Chàng đảo vũ, ít ngày sau mưa nhỏ, rồi nội trong mười ngày, hai trận mưa lớn nữa đổ xuống, quan lại, dân chúng cùng nhau ăn mừng. Chàng viết bài Hỉ vũ đình kí để ghi lại nỗi vui đó. Bài kí (thể tản văn ngắn chép một việc gì) này rất nổi danh, lời rất bình dị, tự nhiên, tả rõ được tâm trạng một nhà nho quân tử biết cùng vui buồn với dân. Cuối bài có một khúc ca, giọng như nhảy nhót, reo hò, làm ta bất giác lây cái vui của tác giả, mà ý lại đột ngột, kì dị, phảng phất Lão, Trang.

喜 雨 亭 記

亭 以 雨 名, 志 喜 也. 古 者 有 喜 則 以 名 物, 示 不 忘 也. 周 公 得 禾 以 名 其 書,

漢 武 得 鼎 以 名 其 年, 叔 孫 勝 敵 以 名 其 子. 其 喜 之 大 小不 齊, 其 示 不 忘 一 也.

予 至 扶 風 之 明 年, 始 治 官 舍, 爲 亭 菸 堂 之 北, 而 鑿 池 其 南, 引 流 種 樹, 以 爲 休

息 之 所. 是 歲 之 春, 雨 孟 菸 岐 山 之 陽, 其 占 爲 有 年. 既 而 彌 月 不 雨, 民 方

以 爲 憂. 越 三 月, 乙 卯 乃 雨, 甲 子 又 雨, 民

以 爲 未 足; 丁 卯 大 雨, 三日 乃 止. 官 吏 相 與慶 菸 庭, 商 賈 相 與 歌 菸 市, 農

夫 相 與 抃 菸 野, 憂 者 以 喜, 病 者 以 愈, 而 吾 亭 適 成.

菸 是 舉 酒 菸 亭上 以 屬 客 而 告 之 曰: “五日 不 雨 可 乎?” 曰: “五 日不雨 則 無 麥”.

“十 日 不 雨 可 乎?” 曰: “十 日 不 雨 則 無 禾”. “無 麥 無 禾, 歲 且 殯 幾”.

獄 訟 繁 興, 而 盗 賊 嵫 熾; 則 吾 與 二 三子, 雖 欲 優 游 以 樂 菸 此 亭, 其 可 得 耶?

金 天 不 遺 斯 民, 始 旱 而 賜 之 以 雨, 使 吾 與 二 三 子 得 相 與 優 游 而 樂

菸 此 亭 者, 皆 雨 之 賜 也, 其 又 可 忘 耶?”

旣 以 名 亭, 又 從 而 歌 之 曰:

使 天 而 雨 株,

寒 者 不 得 以 爲 需;

使 天 而 雨 玉,

幾 者 不 得 以 爲 粟.

一 雨 三 日,

伊 誰 之 力?

民 曰 太 狩,

太 狩 不 有;

歸 之 天 子,

天 子 曰 不 然,

歸 之 造 物,

造 物 不 自 以 爲 功;

歸 之 太 空,

太 空 冥 冥

不 可 得 而 名,

吾 以 名 吾 亭

HỈ VŨ ĐÌNH KÍ

Đình dĩ vũ danh, chí hỉ dã. Cổ giả hữu hỉ tắc dĩ danh vật, thị bất vong dã. Chu Công đắc hòa dĩ danh kì thư, Hán Vũ đắc đỉnh dĩ danh kì niên, Thúc Tôn thắng địch dĩ danh kì tử. Kì hỉ chi đại tiểu bất tề, kì thị bất vong nhất dã.

Dư chí Phù Phong chi minh niên, thủy trị quan xá, vi đình ư đường chi bắc, nhi tạc trì kì nam, dẫn lưu chủng thụ, dĩ vi hưu tức chi sở. Thị tuế chi xuân, vũ mạnh ư Kì Sơn chi dương, kì chiêm vi hữu niên. Kí nhi di nguyệt bất vũ, dân phương dĩ vi ưu. Việt tam nguyệt, ất mão nãi vũ, giáp tí hựu vũ, dân dĩ vi vị túc; đinh mão đại vũ, tam nhật nãi chỉ. Quan lại tương dữ khánh ư đình, thương cổ tương dữ ca ư thị, nông phu tương dữ biện ư dã, ưu giả dĩ hỉ, bệnh giả dĩ dũ, nhi ngô đình thích thành.

Ư thị cử tửu ư đình thượng dĩ chúc khách nhi cáo chỉ viết: “Ngũ nhật bất vũ khả hồ?” Viết: “Ngũ nhật bất vũ tắc vô mạch”. - “Thập nhật bất vụ khả hồ?” Viết: “Thập nhật bất vũ tắc vô hòa” - “Vô mạch vô hòa, tuế thả tấn cơ”.

Ngục tụng phồn hưng, nhi đạo tặc tư xí; tắc ngô dữ nhị tam tử, tuy dục ưu du dĩ lạc ư thử đình, kì khả đắc da?

Kim thiên bất di tư dân, thủy hạn nhi tứ chi dĩ vũ, sử ngô dữ nhị tam tử đắc tương dữ ưu du nhi lạc ư thử đình giả, giai vũ chi tứ dã, kì hưu khả vong da?”.

Kí dĩ danh đình, hựu tòng nhi ca chi viết:

Sử thiên nhi vũ chu,

Hàn giả bất đắc dĩ vi nhu;

Sử thiên nhi vũ ngọc,

Cơ giả bất đắc dĩ vi túc.

Nhất vũ tam nhật,

Y thùy chi lực?

Dân viết Thái thú,

Thái thú bất hữu;

Qui chi Thiên tử,

Thiên tử viết bất nhiên;

Qui chi Tạo vật,

Tạo vật bất tự dĩ vi công;

Qui chi Thái không,

Thái không minh minh,

Bất khả đắc nhi danh,

Ngô dĩ danh ngô đình.

Nghĩa:

Bài Kí: ĐÌNH MỪNG MƯA

Đình[20] đặt tên là Mưa, để ghi một việc mừng. Người xưa có việc mừng thì lấy mà đặt tên cho vật để tỏ ý không quên. Ông Chu Công được lúa, lấy lúa đặt tên cho sách[21], vua Hán Vũ được đỉnh, lấy đỉnh đặt niên hiệu[22], Thúc Tôn thắng quân địch, lấy tên địch đặt tên con[23]. Việc mừng lớn nhỏ có khác nhau nhưng cái ý tỏ rằng không quên thì là một.

Tôi đến Phù Phong[24] năm trước thì năm sau mới sửa lại quan nha, cất cái đình ở phía bắc công đường, đào ao ở phía nam, dẫn nước trồng cây, làm nơi yên nghỉ. Mùa xuân năm ấy, mưa lúa mì ở phía nam núi Kì Sơn[25] người ta đoán là điềm được mùa. Về sau trọn một tháng không mưa, dân bắt đầu lo. Tới tháng ba, ngày Ất mão mới mưa, ngày Giáp tí lại mưa,[26] dân cho rằng chưa đủ; ngày Đinh mão[27] mưa lớn, ba ngày mới tạnh. Quan lại cùng nhau ăn mừng ở đình[28], thương gia cùng nhau ca hát ở chợ, nông phu cùng nhau vui vẻ ở đồng. Người lo nhờ đó mà mừng, người đau nhờ đó mà bớt và đình của tôi may cũng vừa cất xong. Lúc ấy tôi bày tiệc rượu ở đình, họp khách mà nói rằng.

- Năm ngày không mưa có sao không?

Khách đáp:

- Năm ngày không mưa thì không có lúa mì.

- Mười ngày không mưa có sao không?

- Mười ngày không mưa thì không có lúa nếp.

- Không có lúa mì, không có lúa nếp, một năm liên tiếp đói, việc tụng ngục thêm nhiều mà đạo tặc thêm nhộn, thì tôi với mấy ông muốn an nhàn vui vẻ ở đình này được chăng? Nay Trời không bỏ dân miền này, mới nắng hạn đã giáng cho mưa, để cho tôi và mấy ông được an nhàn vui vẻ ở đình này, đó là nhờ mưa thưởng cho cả, thế thì làm sao mà có thể quên được?

Đã đặt tên cho đình rồi lại tiếp theo ca rằng:

Trời mà mưa châu,

Kẻ lạnh làm áo được đâu!

Trời mà mưa ngọc,

Kẻ đói làm sao có thóc?

Một trận ba ngày

Là nhờ sức ai?

Dân bảo: “Là nhờ Thái thú”.

Thái thú lắc đầu.

Qui về Thiên tử,

Thiên tử bảo: “Có đâu!”

Qui về Tạo vật,

Tạo vật không tự nhận công.

Qui về Thái không,

Thái không mù mịt bao la,

Biết gọi tên gì?

Thôi thì đặt tên đình ta.

*

Lần đó vì vui với dân mà làm bài kí, lần dưới đây vì bực mình với bề trên mà làm một bài kí khác, cũng rất hay và cho ta biết được thêm một khía cạnh nữa của tâm hồn tác giả.

Nguyên do viên thái thú họ Trần mới đổi tới là một võ quan, có công lao với triều đình, nhưng tính tình quá nghiêm khắc và tự đắc. Ông ta thẳng tay trừng trị các người tu hành đời sống bê bối hoặc ra vào cửa công, cậy thần cậy thế. Không những vậy ông ta còn ra lệnh phá hủy chùa chiền, miếu mạo của bọn đó. Ông ta tự khoe rằng khi bảo quân lính phải đứng yên thì dù trên trời trút xuống như mưa, quân lính vẫn đứng trơ trơ, không dám nhúc nhích.

Ông dùng bàn tay sắt mà không bọc nhung như vậy để trị các văn quan ở dưới quyền ông, trong số đó có Đông Pha. Tính vốn cương trực, Đông Pha không phục, mấy lần cãi lại; nhất là ông ta lại cả gan hạ bút sửa lời văn các thư, trát của Đông Pha thì Đông Pha chịu sao nổi. Ông ta nổi quạu, báo cáo với triều đình rằng Đông Pha bất tuân thượng lệnh, và có lần cho gọi Đông Pha tới dinh, bắt ngồi đợi cả một buổi, ông ta ngủ dậy, la cà một lúc rồi mới tiếp.

Cơ hội tới để chàng trả thù. Lần đó viên Thái thú cho xây một cái “đài”, đặt tên là Lăng Hư đài (Vượt lên trên cõi hư không) và bảo Đông Pha viết một bài kí để khắc vào bia[29], chắc mẩm rằng chàng sẽ ca tụng mình mà danh mình sẽ lưu lại ngàn năm.

Đông Pha viết (chúng tôi bỏ đoạn đầu tả cái đài và phong cảnh chung quanh):

(....) 物 之 廢 興 成 毀, 不 可 得 而 知 也. 昔 者 荒 草 野 田, 霜 露 之 所 蒙 翳, 弧 虺 之 所 竄 伏;

方 是 時, 豈 知 有 凌 虛 臺 耶? 廢 興 成 毀, 相 尋 菸 無 窮, 則 臺 之 復 爲 荒 草 野 田, 皆 不 可 知 也.

商 弑 與 公 登 臺 而 望: 其 東 則 秦 穆 之 圻 年, 橐 泉 也, 其 南 則 漢 武 之 長 揚, 五 柞,

而 其 北 則 隨 之 仁 壽, 唐 之 九 成 也. 計 其 一 時 之 盛, 宏 傑 詭 麗, 堅 固 而 不 可 動 者,

豈 特 百 倍 菸 臺 而 已 哉? 然 而 數 世 之 後, 欲 求 其 髣 弗, 而 破 瓦 頹 垣, 無 復 存 者,

既 已 化 而 爲 禾 黍 荆 棘, 邱 墟 隴 畝 矣, 而 況 菸 此 臺 歟? 夫 臺 猶 不 足 恃 以 長 久,

而 況 菸 仁 事 之 得 喪, 忽 往 而 忽 來 者 歟? 而 或 者 欲 以 夸 世 而 自 足, 則 過 矣. 蓋

世 有 足 恃 者, 而 不 在 乎 臺 之 存 亡. (....)

(..) Vật chi phế hưng thành hủy, bất khả đắc nhi tri dã. Tích giả hoang thảo dã điền, sương lộ chi sở mông ế, hồ hủy chi sở thoán phục; phương thị thời, khởi tri hữu Lăng Hư đài da? Phế hưng thành hủy, tương tầm ư vô cùng, tắc đài chi phục vi hoang thảo dã điền, giai bất khả tri dã.

Thường thí dữ công đăng đài nhi vọng: kì đông tắc Tần Mục chi Kì Niên, Thác Tuyền dã, kì nam tắc Hán vũ chi Trường Dương, Ngũ Tạc, nhi kì bắc tắc Tùy chi Nhân Thọ, Đường chi Cửu Thành dã. Kế kì nhất thời chi thịnh, hoành kiệt quỉ lệ, kiên cố nhi bất khả động giả, khởi đặc bách bội ư đài nhi dĩ tai? Nhiên nhi sổ thế chi hậu, dục cầu kì phảng phất, nhi phá ngõa đồi viên, vô phục tồn giả, kí dĩ hóa nhi vi hòa thử kinh cức, khâu khư lũng mẫu hĩ, nhi huống ư thử đài dư? Phù đài do bất túc thị dĩ trường cửu, nhi huống ư nhân sự chi đắc táng, hốt vãng nhi hốt lai giả dư? Nhi hoặc giả dục dĩ khoa thế nhi tự túc, tắc quá hĩ. Cái thế hữu túc thị giả, nhi bất tại hồ đài chi tồn vong (...).

Nghĩa:

(…) Ai mà biết trước được vạn vật lúc nào phế, lúc nào hưng, lúc nào thành lúc nào hủy? Hồi mà nơi này là bãi hoang, đồng trống, sương mù phủ kín, chồn rắn đào hang, thì ai mà biết được đời sau có Lăng Hư đài ở đây? Luật phế rồi hưng, thành rồi hủy cứ tiếp tục tới vô cùng, thì ai mà biết được ngày nào đài này lại trở thành bãi hoang đồng trống.

Tôi có lần cùng ông (tức viên Thái thú) lên đài ngắm cảnh: phía đông là cung Kì Niên, Thác Tuyền của Tần Mục Công, phía nam là sân Trường Dương, cung Ngũ Tạc của Hán Vũ Đế, phía bắc là cung Nhân Thọ đời Tùy, cung Cửu Thành đời Đường. Nghĩ tới cái thời thịnh của các cung đó nó nguy nga, đẹp đẽ, kiên cố có gấp trăm lần cái đài này chứ! Vậy mà chỉ vài đời sau, ai có muốn tìm cái hình phảng phất của các cung đó, thì chỉ thấy ngói tan, tường đổ, đã thành đồng lúa, bụi gai cả rồi. Tới những cung đó mà cũng không còn gì cả, huống hồ là cái đài này. Đài kia còn không mong gì được trường cửu huống hồ là nhân sự lúc đắc lúc thất, đột nhiên đến đó rồi đột nhiên biến mất. Vậy mà có kẻ khoe khoang với đời lấy làm tự mãn, thì thật là lầm quá. Ở đời có những cái vĩnh cửu, nhưng cái đài này không thuộc vào những cái đó.

Một bài văn để khắc lên bia mà có giọng mỉa mai như vậy thì thật là cay độc. Vậy mà viên Thái thú họ Trần cứ cho khắc, không sửa một chữ; ông ta có bản lĩnh cao và có đại lượng thật. Từ đó Đông Pha mới hiểu ông ta và hai người cùng quí trọng nhau. Khi ông mất, con ông là Trần Tháo xin một bài khắc trên mộ bia, Đông Pha vui vẻ viết một bài dài nhất, sau bài viết cho Tư Mã Quang; và ta nên nhớ trọn đời Đông Pha chỉ viết bi kí cho có bảy người thôi.

*

Thời đó quan lại chỉ được ở một nhiệm sở nhiều lắm là ba năm, hết hạn triều đình xét thành tích, tùy công hay tội mà thăng hoặc giáng chức.

Tháng chạp năm 1064, hết hạn ba năm, Đông Pha về kinh thay em săn sóc cha, và tới phiên Tử Do ra làm quan, nhận một chức nhỏ ở Đại Danh Phủ, đời Tống gọi là Bắc Kinh (xin đừng lầm với Bắc Kinh cũng gọi là Bắc Bình ngày nay; Đại Danh Phủ cách Bắc Kinh ngày nay hai trăm cây số về phía nam).

Vua Nhân Tôn đã băng, Anh Tôn lên nối ngôi, rất trọng văn tài của Đông Pha, muốn đặc cách thăng chức cho làm Hàn lâm để thảo các tờ chiếu, tờ dụ, cũng tựa như chức bí thư[30] ngày nay. Nhưng Tể tướng là Hàn Kì ngăn nhà vua, lấy lẽ rằng Đông Pha còn trẻ tuổi, nên đợi tới lúc tài năng già giặn đã rồi hãy giao cho nhiệm vụ đó.

Nhà vua lại đề nghị một chức khác, Hàn Kì lại bác nữa, sau cùng bắt Đông Pha thi riêng, rồi mới bổ vào làm ở Sử quán. Đông Pha rất mừng vì được cơ hội đọc những sách và bản thảo quí, coi các danh họa tàng trữ tại bí thư các.

Vừa mới nhận việc ở Sử quán được ít tháng thì vợ bị bệnh mất (tháng 5 năm l065); lúc đó nàng mới hai mươi sáu tuổi để lại một đứa con trai sáu tuổi tên là Tô Mại.

Đông Pha rất quí vợ, mười năm sau nhân ngày giỗ vợ, làm một bài từ khóc vợ, lời rất du dương và đẹp.

Tới tháng tư năm sau, chàng lại bị một cái tang nữa. Lão Tô làm ở Sử quán ít lâu, vì quan niệm viết sử không hợp với quan niệm của triều đình, nên nhận chức Chủ bạ huyện Văn An, cùng với viên tri huyện Hạng Thành, tên là Diêu Tịch, nghiên cứu về lễ, soạn bộ Thái thường nhân cách lễ gồm trăm quyển vừa xong, chưa kịp dâng lên vua thì mất, thọ năm mươi bảy tuổi. Thơ ông ít lưu truyền, nhưng văn ông giản dị, cổ kính. Tương truyền ông rất thích bộ Chiến Quốc sách, đi đâu cũng mang theo, ngày nào cũng đọc để luyện bút pháp trong bộ đó về thể nghị luận và tự sự. Ông theo chủ trương của Âu Dương Tu muốn làm sáng đạo Nho, sửa đổi thể tục, không ưa ngọn bút phù phiếm. Ông còn truyền lại bộ Gia hựu tập 15 quyển và bộ Thụy pháp 3 quyển.

Bài kí Trương Ích Châu hoạ tượng (Hoạ chân dung ông Trương ở Ích Châu) dưới đây đáng coi là một bài bất hủ, tiêu biểu cho bút pháp của ông.

張 益 州 畫 像 記

至 和 元 年 秋, 蜀 人 傳 言 有 寇 至 邊. 邊 軍 夜 呼,

野 無 居 人. 吆 言 流 聞, 京 師 震 驚, 方 命 擇 帥. 天 子 曰: “毋 養 亂! 毋 助 變! 衆 言 朋 興, 朕 志 白 定. 外 亂 不 足, 變 且 中 起;

既 不 可 以 文 令 又 不 可 以 武 競, 惟 朕 一 二 大 吏, 孰 爲 能 處 茲 文 武 之 間,

其 命往 撫 朕 師!” 乃 催 曰: “張 公 方 平 其 人”. 天 子 曰: “然”.

公 以 親 辭, 不 可, 遂 行. 冬 十 一 月 至 蜀. 至 之 日, 歸 垞 軍, 撤 守 憊; 使 謂 郡 縣: “寇 來 在 吾, 無 爾 勞 苦”.

明 年 正 月 朔 旦, 蜀 人 相 慶 如 他 日, 遂 以 無 事. 又 明 年 正 月, 相 告 留 公 像 菸 靖 衆 寺, 公 不 能 禁.

眉 陽 蘇 洵 言 菸 衆 曰: “未 亂 易 治 也, 既 亂 易 治 也. 有 亂 之 萌, 無 亂 形, 是 謂 將 亂; 將 亂 難 治:

不 可 以 有 亂 急, 亦 不 可 以 無 亂 弛. 惟 恃 元 年 之 秋, 如 器 之 攲,

未 墜 於 地. 惟 爾 張 公, 安 坐 其 旁, 顏 色 不 變, 徐 起 而 正 之. 既 正, 游 然 而 退,

無 矜 容. 爲 天 子 牧 小 民 不 倦, 惟 爾 張 公; 爾 繄 以 生, 惟 爾 父 母.

且 公 嘗 爲 我 言: “民 無 嘗 性,

惟 上 所 待.

人 皆 曰 蜀 人 多 變, 菸 是 待 之以 待 盗 賊 之 意, 而 繩 之 以 繩 盗 賊 之 法. 重 足 屏 息 之 民

而 以 鎭 斧 令 菸 是 民 始 忍 以 其 父 母 妻 子 之 所 仰 賴 之 身, 而 棄之 菸 盗 賊, 故 每 大 亂. 夫 約 之 以 禮, 驅 之 以 法,

惟 蜀 人 爲 易. 至 菸 急 之 而 生 變 雖 齊, 魯 亦 然. 吾 以 齊, 魯 待 蜀 人,

而 蜀 人 亦 自 以 齊, 魯 之 人 待 其 身. 若 夫 肆 意 菸 法 律 之 外,

以 威 劫 齊 民, 吾 不 忍 爲 也.” 嗚 呼! 哀 蜀 之 人 深,

待 蜀 之 人 後, 自 公 而前, 吾 未 始 見 也”. 皆 再 拜 稽 首 曰: “然”.

蘇 洵 又 曰: “公 之 恩 在 爾 心; 爾 死,

在 爾 子 孫; 其 功 業 在 史 官, 無 以 爲 像 也. 且 公 意 不 欲,

如 何?”. 皆 曰: “公 則 何 事 菸 斯? 雖 然, 菸 我 心 則 有 不 釋 焉. 金 夫

平 居, 聞 一 善 必 問 其 人 之 姓 名 與 其 鄰 里 之 所 在,

以 至 菸 其 長 短, 小 大, 美 堊 之 狀; 甚者 或 詰 其 平 生 之 所 嗜 好, 以 想 其 爲 人;

而 史 官 亦 書 之 菸 其 傳. 意 使 天 下 之 人 思 之 菸 心 則 存 之 菸 目; 存

之 菸 目, 故 其 思 之 菸 心 也 固. 由 此 觀 之, 像 亦 不 爲 無 助”.

蘇 洵 無 以 詰, 遂 爲 之 記.

公, 南 京 人, 爲 人 慷 慨 有 大 節, 以 度 量 雄 天 下. 天 下 有 大 事, 公 可 屬.

TRƯƠNG ÍCH CHÂU HỌA TƯỢNG KÍ

Chí Hòa nguyên thu, Thục nhân truyền ngôn hữu khấu chí biên. Biên quân dạ hô, dã vô cư nhân. Yêu ngôn lưu văn, kinh sư chấn kinh, phương mệnh trạch súy. Thiên tử viết: “Vô dưỡng loạn! Vô trợ biến! Chúng ngôn bằng hưng, trẫm chí tự định. Ngoại loạn bất túc, biến thả trung khởi; kí bất khả dĩ văn linh, hựu bất khả dĩ vũ cạnh; duy trẫm nhất nhị đại lại, thục vi năng xử tư văn vũ chi gian, kì mệnh vãng phủ trẫm sư!”. Nãi thôi viết: “Trương Công Phương Bình kì nhân”. Thiên tử viết: “Nhiên”.

Công dĩ thân từ, bất khả, toại hành. Đông thập nhất nguyệt chí Thục. Chí chi nhật, qui đồn quân, triệt thủ bị; sử vị quận huyện: “Khấu lai tại ngô, vô nhĩ lao khổ”.

Minh niên chính nguyệt sóc đán, Thục nhân tương khánh như tha nhật, toại dĩ vô sự. Hựu minh niên chính nguyệt, tương cáo lưu công tượng ư tĩnh chúng tự, công bất năng cấm.

Mi Dương Tô Tuân ngôn ư chúng viết: “Vị loạn dị trị dã; kí loạn dị trị dã. Hữu loạn chi manh, vô loạn chi hình, thị vị tương loạn; tương loạn nan trị: bất khả dĩ hữu loạn cấp, diệc bất khả dĩ vô loạn thỉ. Duy thị nguyên niên chi thu, như khí chi khi, vị trụy ư địa. Duy nhĩ Trương Công, an tọa kì bàng, nhan sắc bất biến, từ khởi nhi chính chi. Kí chính, du nhiên nhi thoái; vô căng dong. Vị Thiên tử mục tiểu dân bất quyện, duy nhĩ Trương Công; nhĩ ê dĩ sinh, duy nhĩ phụ mẫu. Thả công thường vị ngã ngôn: “Dân vô thường tính, duy thượng sở đãi. Nhân giai viết Thục nhân đa biến, ư thị đãi chi dĩ đài đạo tặc chi ý, nhi thằng chi dĩ thằng đạo tặc chi pháp. Trùng túc bính tức chi dân nhi dĩ trấn phủ linh ư thị dân thủy nhẫn dĩ kỳ phụ mẫu thê tử chi sở ngưỡng lại chi thân, nhi khí chi ư đạo tặc cố mỗi đại loạn. Phù ước chi dĩ lễ, khu chi dĩ pháp, duy Thục nhân vi dị. Chí ư cấp chi nhi sinh biến, tuy Tề, Lỗ diệc nhiên. Ngô dĩ Tề, Lỗ đãi Thục nhân, nhi Thục nhân diệc tự dĩ Tề, Lỗ chi nhân đãi kì thân. Nhược phù tứ ý ư pháp luật chi ngoại, dĩ uy kiếp tề dân, ngô bất nhẫn vi dã”. Ô hô! Ai Thục chi nhân thâm, đãi Thục chi nhân hậu, tự công nhi tiền, ngô vị thủy kiến dã”. Giai tái bái khể thủ viết: “Nhiên”.

Tô Tuân hựu viết: “Công chi ân tại nhĩ tâm; nhĩ tử, tại nhĩ tử tôn; kì công nghiệp tại sử quan; vô dĩ vi tượng dã. Thả công ý bất dục, như hà?” Giai viết: “Công tắc hà sự ư tư? Tuy nhiên, ư ngã tâm tắc hữu bất thích yên. Kim phù bình cư, văn nhất thiện tất vấn kì nhân chi tính danh dữ kì lân lí chi sở tại, dĩ chí ư kì trường đoản, tiểu đại, mĩ ác chi trạng; thậm giả hoặc cật kì bình sinh chi sở thị hiếu, dĩ tưởng kì vi nhân; nhi sử quan diệc thư chi ư kì truyện. Ý sử thiên hạ chi nhân tư chi ư tâm tắc tồn chi ư mục; tồn chi ư mục, cố kì tư chỉ ư tâm dã cố. Do thử quan chi, tượng diệc bất vi vô trợ”.

Tô Tuân vô dĩ cật, toại vi chi kí.

Công, Nam kinh nhân, vi nhân khảng khái hữu đại tiết, dĩ độ lượng hùng thiên hạ. Thiên hạ hữu đại sự, công khả chúc. (...)

Nghĩa:

Bài Kí: HỌA CHÂN DUNG ÔNG TRƯƠNG Ở ÍCH CHÂU

Niên hiệu Chí Hòa năm thứ nhất,[31] mùa thu, người Thục[32] phao rằng có giặc tới biên giới.[33] Quân ở biên cương đương đêm hô lên, dân chúng trốn hết, vườn ruộng trống không. Lời đồn bậy lưu truyền, kinh sư kinh động, mới có lệnh tuyển nguyên soái. Thiên tử bảo: “Đừng nuôi loạn, đừng giúp biến! Lời bàn phân vân,[34] ý Trẫm đã định. Nếu loạn ở ngoài không dẹp được thì biến ở trong sẽ dấy lên. Đã không thể dùng văn giáo cảm hóa, lại không thể dùng vũ bị đàn áp, chỉ cần một vài quan lớn của Trẫm, người vào biết dung hòa cả văn lẫn võ thì sai đến vỗ về quân lính của Trẫm!”. Hết thảy đều tiến cử:” Ông Trương Phương Bình xứng với việc đó.”

Thiên tử bảo: “Phải”. Ông Trương lấy cớ còn cha mẹ, từ chối, không được, bèn đi.

Mùa đông tháng mười một, đến Thục. Ngày ông đến, cho quân đồn trú về, triệt hồi các quân phòng bị; sai người bảo các quan quận huyện: “Giặc tới có tôi, không để khó nhọc tới các thầy”.

Năm sau tháng giêng ngày nguyên đán, người đất Thục chúc mừng nhau như mọi năm, được vô sự. Năm sau nữa, tháng giêng, họ bàn nhau nên lưu lại một bức chân dung ở chùa Tĩnh Chúng,[35] ông ngăn họ không đươc.

Tô Tuân ở Mi Dương nói với họ rằng: “Chưa loạn, dễ trị, loạn rồi, dễ trị. Loạn mới manh nha chưa thành hình, như vậy gọi là sắp loạn, sắp loạn khó trị: không thể trị gấp như khi đã có loạn, cũng không có thể buông lơi như khi không có loạn. Tình hình mùa thu năm thứ nhất[36]như một đồ vật đã nghiêng mà chưa rơi xuống đất. Duy có ông Trương của các người là an tọa ở bên, sắc diện không đổi từ từ dựng lại cho ngay ngắn. Đã ngay ngắn rồi, ông hòa nhã rút lui không có vẻ khoe khoang. Thay Thiên tử dìu dắt dân chúng mà không biết mệt, chỉ có ông Trương của các người, các người nhờ ông mà sống thì ông như cha mẹ các nguời.

Ông có lần nói với tôi rằng: “Dân không có định tính, đều tùy cách nguời trên đối đãi cả. Mọi người đều bảo người Thục hay làm loạn, rồi mới đem cái lòng đối với đạo tặc ra đối với họ, đem cái phép trị đạo tặc ra trị họ. Bọn dân dã níu chân nín hơi kia mà lại dùng búa rìu ra lệnh cho họ nên họ mới đành lòng bỏ thí cái thân mà cha mẹ vợ con trông cậy vào, để làm đạo tặc, vì vậy mà mỗi việc sinh đại loạn. Nếu ước thúc họ bằng lễ tiết, xua đuổi họ bằng pháp luật[37] thì không người miền nào dễ bảo bằng người Thục. Còn như dùng chính sách cấp bách[38] để cho dân sinh loạn thì dẫu người đất Tề, đất Lỗ[39] cũng vậy. Tôi đãi người Thục như người Tề, người Lỗ, nên người Thục cũng tự đãi mình như người Tề, người Lỗ. Nhiệm ý mà không để ý đến pháp luật, dùng uy mà hiếp bách dân thường thì tôi không nhẫn tâm làm được. Than ôi! Yêu người Thục thiết tha, đãi người Thục trọng hậu, xưa nay tôi chưa thấy có ai như ông. Dân chúng đều tái bái dập đầu thưa: “Vâng, đúng vậy”.

Tô Tuân lại nói: “Ơn của ông ở trong lòng các người, các người chết rồi thì ở trong lòng con cháu các người, công việc của ông có sử quan chép không cần họa chân dung. Vả lại ý ông không muốn thì làm sao?”.

Họ đều đáp:

“Ông đâu có nghĩ tới chuyện đó, nhưng lòng chúng tôi có điều không được thỏa. Nay đương lúc bình thường nghe được một điều thiện, tất hỏi tên họ nguời đó cùng quê quán ở đâu, đến cả trạng mạo cao, thấp, lớn, nhỏ, đẹp xấu ra sao; thậm chí có khi hỏi cả bình sinh thích cái gì để tưởng tượng được người đó; mà sử quan cũng chép đời người đó trong sách, như vậy là để cho người trong thiên hạ ghi nhớ ở trong lòng, giữ được hình ảnh ở trước mắt; giữ được hình ảnh ở trước mặt thì nhớ ở trong lòng mới được bền. Do đó mà xét thì họa chân dung không phải là vô ích”.

Tô Tuân không biết nói sao, bèn viết cho họ bài kí.

“Ông người Nam Kinh, tính tình khảng khái, có khí tiết lớn, nhờ độ lượng mà hơn thiên hạ. Thiên hạ có việc quan trọng, giao phó cho ông được” (...)[40].

Bài đó nghệ thuật cao: vào đề rất gọn, chưa đầy ba mươi chữ mà tóm tắt được hết tình hình nghiêm trọng, lời vua Nhân Tôn nghiêm nghị mà rõ ràng, rõ ra tư cách một ông vua sáng suốt và cương quyết; tiếp theo là một đoạn hai mươi mốt chữ chép công cứu nguy của Trương Phương Bình, tác giả đã làm nổi bật sự kinh động vô cớ của triều đình và chính sách công hiệu của Trương.

Bài lại có giá trị về lịch sử, ghi đúng tinh thần khiếp nhược của triều đình và nhân dân Tống trước một thứ giặc cỏ là giặc Nùng mà thời đó nước ta coi thường.

*

Tô Tuân mất, nhà vua và Âu Dương Tu đều tiếc.

Đông Pha và Tử Do xin nghỉ việc quan, đưa quan tài cha và vợ Đông Pha về Mi Châu. Lại vượt mấy nghìn cây số đường bộ và đường thủy, tháng tư năm sau mới tới nhà.

Chung quanh mộ, trên sườn núi, Đông Pha cho trồng ba vạn gốc thông nhỏ, mong rằng sau sẽ thành một khu rừng lớn.

Người Trung Hoa để tang cha mẹ cũng như chúng ta; ba năm: hai mươi bảy tháng. Tháng sáu năm 1068, đoạn tang; Đông Pha tục huyền với một cô em họ của người vợ trước, cô Vương Nhuận Chi, hai mươi tuổi.

Không đảm đang, cần kiệm bằng chị, nhưng nàng cũng rất quí mến chồng, săn sóc con của mình và con riêng của chồng, suốt đời chia xẻ những cảnh thăng trầm của chồng.

Tháng chạp năm đó hai anh em họ Tô lại trở lên kinh, không ngờ lần này đi là đi luôn, sau không có dịp về thăm quê nhà và mồ mả tổ tiên nữa. Vì họ mới tới kinh thì bị lôi cuốn ngay vào cuộc xáo động dữ dội trong chính trị đời Tống, và mấy chục năm trôi nổi gần khắp các miền trong nước, trừ miền Tứ Xuyên của họ.

[20] Đình là một ngôi nhà để nghỉ ngơi, hóng mát, họp bạn.

[21] Đường Thúc được thứ lúa lạ, dâng lên vua Thành Vương nhà Chu: Thành Vương sai Đường Thúc đem lại tặng Chu Công, nhân đó Chu Công viết thiên Gia thử.

[22] Hán Vũ Đế được một cái đĩnh ở bờ sông Phần (tỉnh Sơn Tây ngày nay), đổi niên hiệu là Nguyên Đĩnh (năm 116 trước T.L.)

[23] Lỗ Văn Công năm thứ 11, Thúc Tôn thắng rợ Địch, bắt được ba tên Địch, một người tên là Kiều Như, bèn lấy tên Kiều Như đặt tên con.

[24] Phù Phong là tên quận, Phượng Tường là tên phủ, nay ở Thiểm Tây.

[25] Kì Sơn ở phía đông bắc huyện Kì Sơn tại Thiểm Tây. Có hạt lúa trên trời đổ xuống (!) nên gọi là mưa lúa.

[26] Tức chín ngày sau.

[27] Tức ba ngày sau nữa. [Theo chú giải trên trang http://baike.baidu.com/view/250337.htm thì Tô Đông Pha làm bài Hỉ Vũ đình Kí vào năm thứ sáu niên hiệu Gia hữu (đời Tống Nhân Tôn), tức năm 1061. Ngày Ất mão là: mùng 2 tháng tư; ngày Giáp tí là: 11 tháng tư, ngày Đinh mão là: 14 tháng tư; và ba chữ Việt tam nguyệt 越三月 được dịch là: Đáo liễu tam nguyệt 到了三月, tức “Đến hết tháng ba”. Theo phần mềm “Lich Viet Nam” thì ba ngày đó lần lượt là: 24/04/1061, 03/05/1061 và 06/05/1061. (Goldfish)].

[28] Bản nguồn chép là dinh, tôi sửa là đình cho phù hợp với nguyên văn và phiên âm. Chữ đình 庭 ở đây có nghĩa là nơi quan lại làm việc). (Goldfish).

[29] Nhan đề bài kí là: Lăng Hư đài kí 凌虛台記 (Goldfish).

[30] Có thể hiểu bí thư như thư kí riêng (Quantam)

[31] Tức năm 1054. Chí Hòa là niên hiệu của Tống Nhân Tôn.

[32] Tức Ích Châu (xưa là đất của nước Thục; sang đời Tần, Hán, nước Thục trở thành quận Thục). (Goldfish).

[33] Thời đó người ta đồn rằng giặc Nông Trí Cao (ta gọi là Nùng Trí Cao) sắp xâm nhập Ích Châu.

[34] Chính nghĩa là nhiều ý kiến đưa ra một lúc.

[35] Ở phía Tây bắc huyện Thành Đô. [Tĩnh Chúng tự còn được gọi là Vạn Phúc tự 萬福寺 (theo http://blog.sina.com.cn/s/blog_5cfbd7410100i02o.html). (Goldfish)].

[36] Tức năm thứ nhất niên hiệu Chí Hòa.

[37] Ước thúc bằng lễ tiết là dùng lễ tiết bắt dân chúng giữ bổn phận, xua đuổi bằng pháp luật là trừng trị mà đúng pháp luật.

[38] Cấp bách ở đây trái với khoan hòa.

[39] Tề, Lỗ là những nơi dân chúng đã được giáo hóa nhiều.

[40] Tiếp theo là một bài thơ tứ ngôn 36 câu chép vắn tắt những việc đã kể trong các đoạn trên, nên chúng tôi cắt bỏ.