← Quay lại trang sách

CHƯƠNG THỨ SÁU SUÝT BAY ĐẦU VÌ CÁI HỌA VĂN TỰ

Hết hạn ba năm ở Hàng Châu, Đông Pha xin đổi lên tỉnh Sơn Đông để được gần em vì lúc đó Tử Do làm thư kí ở Tề Châu. Triều đình chấp nhận và ông được phái tới Mật Châu, ở đây hai năm, rồi lại đổi đi Từ Châu.

Ông đi thăm lại các thắng cảnh ở Hàng Châu, từ biệt bạn bè rồi lên đường. Lần này trong đám gia nhân, thêm một thiếu nữ rất thông minh tên là Triêu Vân mới mười hai tuổi, vốn là ca nhi bà Tô mua về. Thiếu nữ đó, sau này đóng một vai trò quan trọng bực nhất trong đời Đông Pha.

Mật Châu trái hẳn với Hàng Châu, ở phương Bắc, phong cảnh tiêu điều, dân cư lại nghèo khổ. Lúc đó triều đình đã giảm lương các quan lại, gia đình Đông Pha chịu mọi cảnh thiếu thốn. Ông bảo: “làm quan mười chín năm mà cứ mỗi ngày một nghèo thêm”. Không đến nỗi chết đói, nhưng có lúc cùng một bạn đồng sự họ Lưu, phải đi hái cúc ở trong các vườn hoang dưới chân thành cổ để ăn. Hai người ăn cho tới đầy bao tử rồi cùng nhau cười rộ.

Ông trông thấy con cái nheo nhóc, phàn nàn với bà:

- Coi chúng ủ rũ thấy tội không.

Bà bảo:

- Chính mình mới ủ rũ. Sao cứ ngồi mãi một chỗ mà sầu muộn suốt ngày như vậy? Lại đây, em để dành được vò rượu, em rót mình uống.

Ông hơi thẹn rằng mình không có được tinh thần cao như vợ, uống một hai chén nhỏ (ông thích rượu nhưng tửu lượng không cao), khen bà là hiền hơn vợ Lưu Linh vì bà này đã can chồng đừng uống rượu. Hôm đó ông rất vui, không phải vì rượu mà vì trong cảnh nghèo mới thấy lòng vợ đáng quí.

Lúc này Vương An Thạch đã bị ngưng chức, Lữ Huệ Khanh lên thay, đặt thêm một thuế lợi tức mới để vét tiền dân mà cứu vãn nền tài chính cực kì lâm nguy. Thuế mới nặng quá, dân miền Mật Châu vốn nghèo, không sao gánh vác nổi, nhiều kẻ bỏ nhà cửa đi xin ăn, chết đói chết rét ở lề đường. Thấy cảnh đó, ông sa lệ và mặc dầu nghèo, ông cũng ráng cứu trước ba bốn chục đứa trẻ mồ côi đem chúng về nhà hoặc gửi chúng ở nhà các bạn. Chính trong thời đó, thơ ông buồn nhất mà hay nhất, có cái giọng của Đỗ Phủ. Ông phàn nàn rằng:

永 愧 此 邦 人

芒 剌 在 膚 肌

平 生 五 千 卷

一 字 不 救 飢

Vĩnh quí thử bang nhân,

Mang thích tại phu cơ.

Bình sinh ngũ thiên quyển,

Nhất tự bất cứu cơ.

Thẹn hoài người nước này,

Gai đâm trong da thịt.

Bình sinh đọc năm ngàn quyển sách,

Mà không có một chữ cứu đói cho dân được.

Bài đó thực đã diễn được cái bi thảm trong mấy ngàn năm lịch sử Trung Hoa. Triết học, văn học của họ thật rực rỡ, họ có biết bao nhân tài, biết bao ông hiền ông thánh mà không cứu nổi nạn đói cho dân. Có người đã làm thống kê, thấy rằng trong hai ngàn ba trăm năm, kể từ thế kỉ thứ VIII trước T.L. tới cuối Minh đầu Thanh, chỉ có 720 năm là Trung Hoa không bị thiên tai, còn những năm khác, trước sau họ bị 1057 cơn nắng hạn và 1030 vụ lụt; ấy là chưa kể cái nạn chiến tranh.

Ở Mật Châu, càng buồn ông càng nhớ Tử Do và làm thơ kể tâm sự với em. Bài từ Thủy điệu ca đầu[73] dưới đây gửi cho Tử Do được khen là bất hủ, thiên niên tuyệt bút, đọc nó rồi, có thể bỏ hết các bài thơ khác về trăng thu:

明 月 幾 時 有

把 酒 問 青 天

不 知 天 上 宮 闕

今 夕 是 何 年

我 欲 乘 風 歸 去

又恐 瓊 樓 玉 宇

高 處 不 塍 寒

起 舞 弄 清 影

何 似 在 人 間

轉 朱 閣

低 綺 戶

照 無 眠

不 應 有 恨

何 事 長 向 別 時 圓

人 有 悲 歡 離 合

月 有 陰 晴 圓 缺

此 事 古 難 全

但 願 人 長 久

千 里 共 嬋 娟

Minh nguyệt kỉ thời hữu?

Bả tửu vấn thanh thiên:

“Bất tri thiên thượng cung khuyết,

Kim tịch thị hà niên?

Ngã dục thừa phong qui khứ,

Hựu khủng quỳnh lâu ngọc vũ,

Cao xứ bất thăng hàn.

Khởi vũ lộng thanh ảnh,

Hà tự tại nhân gian!

Chuyển chu các,

Đê ỷ hộ,

Chiếu vô miên,

Bất ưng hữu hận,

Hà sự trường hướng biệt thời viên?

Nhân hữu bi hoan li hợp,

Nguyệt hữu âm tình viên khuyết,

Thử sự cổ nan toàn.

Đãn nguyện nhân trường cửu

Thiên lí cộng thiền quyên”.

Nghĩa:

Mấy lúc có trăng thanh?

Cất chén hỏi trời xanh:

“Cung khuyết trên chín tầng,

Đêm nay là đêm nao?”

Ta muốn cưỡi gió bay lên vút,

Lại sợ lầu quỳnh cửa ngọc

Trên cao kia lạnh buốt.

Đứng dậy múa giỡn bóng,

Cách biệt với nhân gian

Trăng quanh gác tía,

Cúi xuống cửa son

Dòm kẻ thao thức.

Chẳng nên ân hận

Sao cứ biệt li thì trăng tròn?[74]

Đời người vui buồn li hợp,

Trăng cũng đầy vơi, mờ tỏ.

Xưa nay đâu có vạn toàn.

Chỉ nguyện đời ta trường cửu

Bay ngàn dặm cùng với thuyền quyên.[75]

Tôi chỉ dịch ý. Phải đọc nguyên văn, lại phải biết ca cái điệu Thủy điệu (có lẽ là một khúc hát trên sông nước) của Trung Hoa thì mới thấy được hết cái hay của bài này. Nó nổi danh ngang bài Niệm Nô Kiều ở trên, nhưng giọng khác hẳn, một bài bi hùng như tiếng gươm tiếng dáo[76], một bài thanh thoát như tiếng tơ tiếng trúc. Dưới ánh trăng, tâm hồn Đông Pha phiêu diêu như muốn bay lên tiên. Tư tưởng Lão Trang đã xuất hiện.

Ở Mật Châu được hai năm, ông được lệnh đổi tới phủ Hà Trung, ở miền Tây nam tỉnh Sơn Tây. Đầu năm 1077, ông lên đường, ghé thăm em, nhưng Tử Do đã lên kinh vì thời cuộc đã biến đổi: Vương An Thạch, Lữ Huệ Khanh, Tăng Bố, Đặng Oản đã bị ngưng chức, chưa biết chính sách của nhà vua sẽ ra sao.

Tử Do ít nói, thận trọng nhưng có chủ trương và cương quyết, từ trước vẫn làm thinh, bây giờ nghĩ đã tới lúc phải tranh đấu, nên không đợi Đông Pha, đi ngay lên kinh dâng sớ để sửa đổi lại hết triều chính. Đông Pha bèn lên Khai Phong tìm em, nhưng tới nơi, có lệnh cấm ông vào thành. Lệnh đó không phải lệnh của Thần Tôn, mà của bộ hạ tân đảng, lúc đó hãy còn mạnh.

Hai anh em Đông Pha đành phải quay về. Đông Pha cưới vợ cho con trai lớn tên là Mại xong rồi lại nhiệm sở mới là Từ Châu.

Từ Châu là một thành lớn, ở phía đông Khai Phong, vị trí rất quan trọng về quân sự. Nó ở gần miền Lương Sơn (nổi danh vì là sào huyệt của các hảo hán trong truyện Thủy Hử).

Mới tới được ba tháng, ông phải đối phó với một trận lụt lớn vì thành phố nằm trên bờ một con sông, nhiều thác, chung quanh là núi cao hiểm trở, những năm nào mưa nhiều, nước lũ, sông tràn lên ngập cả phố xá. Năm đó còn thêm cái nạn lụt của sông Hoàng Hà lan tới Từ Châu. Hoàng Hà là cái tai họa của dân Trung Hoa. Nước rất nhiều phù sa; nhưng như một con ngựa bất kham, lòng sông thay đổi mấy lần, và mỗi lần lụt thì mùa màng nhà cửa trên cả ngàn cây số vuông trôi đi hết. Vương An Thạch đã bỏ nửa triệu đồng để vét sông mà thất bại và viên quan chỉ huy công việc đó phải tự tử.

Nước tràn vào thành phố. Những gia đình giàu có đã lo tản cư. Đông Pha ngăn họ, bắt họ trở vào thành để lòng dân khỏi biến động, rồi ông đích thân điều khiển cả ngàn cấm binh, đắp cao thêm bờ thành, xây đập, khai mương, luôn nửa tháng không về nhà, ăn ngủ với dân chúng ở ngay cửa thành, nhờ vậy tránh được nạn lụt cho Từ Châu. Nhà vua khen ông và cho ông một ngân khoản ba vạn đồng để củng cố thêm thành và đập.

Để ăn mừng, ông dựng một lầu kỷ niệm, gọi là Hoàng lâu ngụ ý rằng thắng được nước (vì hoàng là vàng, màu vàng là màu của đất mà trong ngũ hành thì thổ khắc thủy). Trước lầu ông lại dựng một tấm bia mà bi kí do ông viết. Sau này ông bị triều đình ra lệnh hủy hết các tấm bia có nét chữ ông, quan thái thú Từ Châu sai đào tấm bia liệng xuống một cái mương gần đó. Mười năm sau nữa, người ta quên lệnh của triều đình, nhiều người lại sưu tập bút tích của ông, và có kẻ đem giấy lại vỗ lén vào bia được vài trăm bản. Viên thái thú lúc đó mới sực nhớ rằng lệnh cũ chưa hủy bỏ, như vậy là phạm pháp, bèn bảo đập bể tấm bia. Mấy trăm bản vỗ kia bỗng thành bảo vật, giá vọt lên.

Trong thời ở Từ Châu, Đông Pha có dịp đi thăm một ẩn sĩ, về viết bài Phóng hạc đình kí, giọng phiêu diêu, nổi danh gần như bài Hỉ vũ đình kí.

放 鶴 亭 記

熙 寧 十 年 秋, 彭 城 水,

雲 龍 山 人 張 君 之 草 堂,

水 及 其 半 屝. 明 年 春,

水 落, 天 於 故 居 之 東,

東 山 之 簏. 升 高 而 望, 得 胃 境 焉, 作 亭 於 其 上.

彭 城 之 山, 岡 嶺 四 合,

隱 然 如 大 環; 獨 缺 其 西一 面, 而 山 人 之 亭 適 當 其 缺.

春 夏 之 交, 草 木 際 天; 秋 冬 雪 月, 千 里 一 色.

風 雨 晦 明 之 閒, 俯 仰 百 變. 山 人 有 二 鶴 葚 馴 而 善 飛.

旦 則 望 西 山 之 缺 而 放 焉, 縱 其 所 如, 或 立 於 陂 田,

或 翔 於 芸 表, 暮 則 素 東 山 而 歸,

故 名 之 曰 放 鶴 亭.

郡 守 蘇 軾 時 從 儐 佐 僚 吏, 往 見 山 人,

飲 酒 於 斯 亭 而 樂 之. 把 山 人 而 告 之曰:

“子 知 隱 居 之 樂 乎? 雖 南 面 之 君 未 可 與 易 也”.

易 曰: “鳴 鶴 在 陰, 其 子 和 之”. 詩 曰: “鶴 鳴 於 九 皋,

聲 聞 於 天”. 蓋 其 爲 物,

清 遠 閒 放 超 然 於 塵 埃 之 外,

故 易, 詩 人以 比 賢 人 君 子, 隱 德 之 士.

狎 而 玩 之, 宜 若 有 益 而 無 損 者, 然 衛 懿 公 好 鶴 則 亡 其 國.

周 公 作 酒 誥, 衛 武 公 作 抑 戒 以 爲 荒 或 敗 亂 無 若 酒 者,

而 劉 伶, 阮 籍 之 徒 以 此 全 其 眞 而 名 後 世. 嗟 夫!

南 面 之 君 雖 清 遠 閒 放 如 鶴 者, 猶 不 得 好,

好 之則 亡 其 國; 而 山 人 遯 世 之 士,

雖 荒 惑 敗 亂 如 酒 者, 猶 不 能 爲 害, 而 況 於 鶴 乎?

由 此 觀 之, 其 爲 樂 未 可 以 同 一 日 而 語 也”...

PHÓNG HẠC ĐÌNH KÍ

Hi Ninh thập niên thu, Bành Thành đại thủy, Vân Long sơn nhân Trương quân chi thảo đường, thủy cập kì bán phi. Minh niên xuân, thủy lạc, thiên ư cố cư chi đông, đông sơn chi lộc. Thăng cao nhi vọng, đắc vị cảnh yên, tác đình ư kì thượng. Bành Thành chi sơn, cương lĩnh tứ hợp, ẩn nhiên nhi đại hoàn; độc khuyết kì tây nhất diện, nhi sơn nhân chi đình thích đương kì khuyết.

Xuân hạ chi giao, thảo mộc tế thiên, thu đông tuyết nguyệt, thiên lí nhất sắc. Phong vũ hối minh chi gian, phủ ngưỡng bách biến. Sơn nhân hữu nhị hạc thậm tuần nhi thiện phi. Đán tắc vọng tây sơn chi khuyết nhi phóng yên, túng kì sở như, hoặc lập ư pha điền, hoặc tường ư vân biểu, mộ tác tố đông sơn nhi qui, cố danh chi viết Phóng hạc đình.

Quận thú Tô Thức thời tòng tân tá liêu lại, vãng kiến sơn nhân, ẩm tửu ư tư đình nhi lạc chi. Bả sơn nhân nhi cáo chi viết: “Tử tri ẩn cư chi lạc hồ? Tuy nam diện chi quân vị khả dữ dịch dã”. Dịch viết: “Minh hạc tại âm, kì tử hòa chi”. Thi viết: “Hạc minh ư cửu cao, thanh văn ư thiên”. Cái kì vi vật, thanh viễn nhàn phóng siêu nhiên ư trần ai chi ngoại, cố Dịch, Thi nhân dĩ tỉ hiền nhân quân tử ẩn đức chi sĩ. Hiệp nhi ngoạn chi, nghi nhược hữu ích nhi vô tổn giả, nhiên Vệ Ý Công hiếu hạc tắc vong kì quốc, Chu Công tác Tửu cáo, Vệ Vũ Công tác Ức giới dĩ vi hoang hoặc bại loạn vô nhược tửu giả, nhi Lưu Linh, Nguyễn Tịch chi đồ dĩ thử toàn kì chân nhi danh hậu thế. Ta phù! Nam diện chi quân tuy thanh viễn nhàn phóng như hạc giả, do bất đắc hiếu, hiếu chi tắc vong kì quốc; nhi sơn nhân độn thế chi sĩ, tuy hoang hoặc bại loạn như tửu giả, do bất năng vi hại, nhi huống ư hạc hồ?

Do thử quan chi, kì vi lạc vị khả dĩ đồng nhất nhật nhi ngữ dã”...

Nghĩa:

BÀI KÍ: ĐÌNH PHÓNG HẠC

Niên hiệu Hi Ninh thứ mười,[77] mùa thu ở Bành Thành[78] nước lớn dâng lên tới nửa cánh cửa căn nhà lá của ông Trương, biệt hiệu là Vân Long sơn nhân.[79] Mùa xuân năm sau, nước rút, ông dời nhà sang phía đông nhà cũ, tại chân núi phía đông. Lên cao mà nhìn, thấy có cảnh lạ, bèn xây đình ở trên. Núi Bành Thành, sườn đỉnh bốn bề bao lại, kín như cái vòng lớn, chỉ khuyết một mặt phía tây, mà đình của sơn nhân lấp ngay chỗ khuyết đó.

Cuối xuân sang hạ, cỏ cây xanh tận chân trời mà tới thu đông, ngàn dặm tuyết trắng một sắc. Trong lúc gió mưa, hoặc tối hoặc sáng, cúi ngửa nhìn xa, biến hóa trăm vẻ.

Sơn nhân có hai con hạc rất thuần mà bay giỏi. Sáng thì hướng về chỗ khuyết của núi phía tây mà thả hạc, hạc tung bay tự do, hoặc đậu nơi chân núi, hoặc lượn trên mây cao, tối thì hướng về phía đông mà về. Vì vậy gọi đình đó là đình Phóng hạc.

Thái thú là Tô Thức thường cùng với khách khứa liêu thuộc và các người giúp việc lại thăm sơn nhân, uống rượu ở đình mà vui với cảnh. Chuốc rượu sơn nhân mà bảo: “Ông biết cái vui ẩn cư không? Tuy vua chúa trên ngôi[80] cũng không đổi được cái vui đó. Kinh Dịch nói: “Hạc kêu trong sâu,[81] hạc con họa theo”. Kinh Thi nói: “Hạc kêu ở đầm sâu, tiếng vọng tới trời cao”[82]. Loài đó thanh cao nhàn phóng, siêu nhiên thoát trần, cho nên kinh Dịch và kinh Thi đều ví nó với bậc hiền thân quân tử và kẻ sĩ ẩn dạt. Đùa cợt ngắm nó[83] thì có lẽ hữu ích mà vô hại; vậy mà Vệ Ý Công thích hạc đến mất nước[84]. Ông Chu Công viết thiên Tửu cáo[85], ông Vệ Vũ Công viết thiên Ức giới[86] cho rằng làm hoang toàng, mê hoặc, bại loạn thì không gì bằng rượu; vậy mà bọn Lưu Linh, Nguyễn Tịch lại nhờ rượu bảo toàn thiên chân, lưu danh hậu thế[87]. Than ôi! Vua chúa trên ngôi thì dù danh cao nhàn phóng như hạc kia, cũng không được thích vì thích nó thì mất nước, mà bọn ẩn sĩ ở sơn lâm thì dù hoang toàng, mê hoặc, bại hoại như rượu kia, cũng không làm hại mình được huống chi là hạc.

Do đó mà xét thì vui cũng có ba bảy đường, không thể nhất loạt coi như nhau được.”

*

Danh tiếng Đông Pha ở Từ Châu mỗi ngày một tăng.

Từ khi Âu Dương Tu mất (1072) ông đã được coi là ngôi sao bắc đẩu trên văn đàn, các danh sĩ như Tần Quan, Hoàng Đình Kiên đều tự coi mình là môn đệ của Tô.

Tháng ba năm 1079, nhờ công lao ở Từ Châu, ông được nhà vua cho đổi lại Hồ Châu, một miền nhiều hồ, phong cảnh đẹp, nằm ở phía nam sông Dương Tử và phía bắc Hàng Châu. Ông dâng biểu tạ ơn vua. Trong tờ biểu, ông dùng một tiếng mà bọn Lý Định, Thư Đản (tay sai của Lữ Huệ Khanh) không ưa. Thư Đản gom góp tất cả các văn thơ phúng thích của ông (như những bài tôi đã trích dẫn ở trên) được bốn tập, đưa cho Lý Định, tên bất hiếu, đã giấu tang mẹ để giữ chức quan. Họ mổ xẻ những bài thơ đó, vạch những nghĩa bóng, những chữ “ý tại ngôn ngoại” để thuyết phục Thần Tôn rằng Tô nuôi chí làm phản, phải điệu về triều đình xử tội.

Vương Sằn bạn thân của Đông Pha hay tin đó, sai người báo cho Tử Do ở Nam Kinh, Tử Do lại báo cho Đông Pha, và Đông Pha được tin trước khi sứ giả của triều đình tới. Lúc đó ông đương phơi những bức họa của Văn Đồng, nhà vẽ trúc có tài nhất đời Tống (Chính ông cũng giỏi vẽ trúc - coi bức họa của ông, sáp đồ III trang 128), nhớ tới bạn mới mất mấy tháng trước mà sa lệ. Được tin ông rất lo lắng; khi sứ giả tới công đường, đọc lệnh của triều đình cho ông nghe rồi, ông xin phép về nhà từ biệt vợ con. Cả nhà khóc, ông rán[88] cười kể một chuyện vui cho họ nghe để an ủi họ.

Con trai lớn của ông là Mại đi theo ông. Dân chúng hay tin đều mủi lòng.

Tới kinh ông bị nhốt khám liền, ngày 18 tháng tám.

Vụ xử kéo dài sáu bảy tuần. Mỗi ngày Mại đem cơm vào nuôi cha. Hai cha con hẹn với nhau: chỉ đem rau và thịt vào thôi, khi nào có tin chẳng lành mới đem cá vào. Ít ngày sau, Mại phải đi xa để mượn tiền chi tiêu, nhờ một người bạn đem cơm vào thay mình, người này không biết lời hẹn đó, đưa cá vào. Đông Pha tưởng mình sắp bị xử tử viết di chúc dặn dò vợ con, làm thơ vĩnh biệt em, nhờ em săn sóc gia đình cho và cầu Trời cho kiếp sau được tái sinh làm anh em với nhau nữa. Trong thơ Đông Pha cũng vẫn tỏ lòng trung với nhà vua, và chịu nhận hết lỗi. Tử Do rõ tin tức hơn, biết lời đó là lời đồn bậy, trả lại những thơ đó cho người coi ngục, người này trình lên thượng cấp. Thần Tôn đọc, cảm động, có lẽ vì vậy mà không xử ông nặng tội. Bài thơ Vịnh hai cây bách dưới đây bị bọn Lý Địch đem ra mổ xẻ nặng nhất.

Lẫm nhiên tương đối cảm tương khi,

Trực tiết lăng vân vị yếu kì.

Căn đáo cửu tuyền vô khúc xứ,

Ta gian duy hữu trập long tri[89].

Nghĩa:

Song song cùng mọc đã từ lâu

Thẳng vót từng mây có lạ đâu.

Rễ đến âm ty không khuất khúc,

Có rồng nấp đó biết cho nhau.

Chỉ có hai chữ trập long (rồng nấp) mà suýt bay đầu. Rồng tượng trưng nhà vua đương ở ngôi, vậy thì rồng phải bay trên trời. (Phi long tại thiên) đúng như hào thứ năm quẻ Càn trong kinh Dịch, chứ sao lại viết là rồng nấp ở dưới đất? Mưu lật đổ ngai vàng đây. Cái họa văn tự, đông tây, kim cổ như nhau. Nực cười nhất là một bài thơ tả hoa mẫu đơn, Đông Pha khen hóa công cùng một loài hoa mà tạo ra biết bao nhiêu thứ, màu sắc khác nhau; bọn Lý Định hiểu ra rằng Đông Pha muốn ám chỉ triều đình đã đặt ra bao nhiêu thứ thuế mới.

Đông Pha bị buộc tội là phản loạn, mắng nhiếc triều đình là bọn cóc nhái, loài cú, loài quạ, cả loài bú rù nữa...!

Đủ các danh từ.

Họ bắt tất cả các người đã ngâm vịnh, giao thiệp với Đông Pha, phải trình các thư từ của Đông Pha cho họ xét. Trong khi đương điều tra thì Thái hoàng thái hậu (tức Cao Hậu, vợ vua Nhân Tôn) bị bệnh nặng, biết không qua khỏi, vời Thần Tôn vào bảo:

- “Ta còn nhớ hồi hai anh em họ Tô thi đậu thì ông nội cháu bảo mọi người rằng đã kiếm được hai tể tướng tương lai cho các triều đại sau. Nay bọn tiểu nhân muốn hại Tô Thức, không thấy có lỗi gì trong việc quan rồi đem thơ của hắn ra buộc tội. Đừng nên hại người vô tội”.

Một đêm, đương nằm trong khám, sắp tới lúc ngủ, Đông Pha thấy một người bước vào, liệng một cái hộp nhỏ xuống sàn rồi gối đầu lên ngủ. Tưởng người đó chỉ là một phạm nhân khác, ông cứ thản nhiên ngủ. Vào khoảng canh tư, người đó lay ông thức dậy, bảo: “Tôi mừng cho ông. Cứ ngủ yên đi, đừng lo gì cả”, nói xong lượm cái hộp bước ra.

Sau này Đồng Pha mới hay rằng người đó là một lính hầu cận trong cung. Thần Tôn sai vào dò xét mình.

Nghe lời người đó tâu, nhà vua cho lương tâm Đông Pha không có gì mờ ám nên mới bình tâm như vậy được.

Bọn Lý Định, Thư Đản đề nghị xử tử ông cùng với Trương Phương Bình, Tư Mã Quang và ba người nữa vì đã giao du thân mật với ông. Nhà vua bác bỏ.

Họ trình bài thơ Vịnh hai cây bách đã dẫn ở trên để buộc tội Đông Pha nuôi ý phản loạn. Thần Tôn bảo:

“Không thể hiểu thơ theo cách đó được. Hắn vịnh cây bách mà liên quan gì tới ta”.

Rốt cuộc, Đông Pha chỉ bị giáng chức, biếm lại Hoàng Châu, gần Hán Khẩu; nhưng cả chục người bạn của ông cũng bị liên lụy.

Vương Sằn bị tội nặng nhất, cách hết chức tước, giáng xuống làm thứ dân vì là phò mã mà lại cho Đông Pha biết những chuyện bí mật ở triều đình và in thơ của Đông Pha.

Tử Do dâng biểu xin được cách chức để chuộc tội cho anh. Bọn Lý Định không có chứng cớ rằng ông nhận được những bài thơ phúng thích của anh; mặc dầu vậy chỉ vì lẽ là em của Đông Pha, ông cũng bị giáng chức làm một chức quan nhỏ bán rượu ở một tiệm của chính phủ tại Quân Châu, phía nam sông Dương Tử, một nơi rất hẻo lánh.

Trương Phương Bình, Tư Mã Quang... đều bị phạt. Ngày ba mươi tháng chạp, Đông Pha ra khỏi khám.

Mới về tới nhà nâng chén rượu, ông đã ngâm ngay hai bài thơ, trong đó ông tự ví với “tái ông thất mã”, biết đâu là phúc, là họa, và ví bọn tân đảng với bọn hề ở triều đình. Chép xong hai bài thơ đó, ông ném bút xuống, cười: “Chứng nào tật nấy”.

[73] Nguyên văn chữ Hán: 水調歌頭 (Goldfish).

[74] Nhớ Tử Do.

[75] Tiếng thuyền quyên này nghĩa gốc trỏ mọi người đẹp, không riêng đàn bà, ở đây trỏ Tử Do. Chính là thiền, ta quen đọc là thuyền.

[76] Dáo hay giáo? (Quantam)

[77] Hi Ninh là niên hiệu Tống Thần Tôn, năm Hi Ninh thứ mười là năm 1077.

[78] Bành Thành nay ở tỉnh Giang Tô, huyện Đồng Sơn.

[79] Núi Vân Long ở phía nam huyện Đồng Sơn. Trương Thiên Kí ẩn cư ở đó.

[80] Nguyên văn là nam diện: quay mặt về hướng Nam. Các thiền sử Trung Hoa ở triều đình luôn luôn quay mặt về hướng đó.

[81] Nghĩa là trong chỗ u tịch.

[82] Ý nói: trong chỗ tĩnh mịch mà tiếng hạc vọng lên cao như vậy.

[83] Ý nói: coi như một món tiêu khiển chứ không ham mê.

[84] Vệ Ý Công vì mê hạc, không lo việc nước, bị rợ Địch đánh và cướp nước.

[85] Tửu cáo là một thiên trong kinh Thư, trong đó Chu Công thay lời Vũ Vương răn Khang Thúc về việc uống rượu, đại ý nói rượu chỉ dùng vào việc tế tự lớn, đừng uống tới say mà hư nết.

[86] Tức bài “Ức ức uy nghi” trong thiên Đại nhã của kinh Thi. Vệ Vũ Công năm 95 tuổi làm bài đó để răn mình về việc uống rượu.

[87] Lưu Linh và Nguyễn Tịch đều là người đời Tấn, ở trong nhóm Trúc Lâm thất hiền. Họ chán cảnh loạn lạc đương thời, theo Lão, Trang, sống rất phóng túng, say sưa tối ngày. Lưu Linh có bài “Tửu đức tụng” (ca tụng đức của rượu); còn Nguyễn Tịch thì bảo người quân tử trong thiên hạ không khác gì con rận ở trong quần. Họ lãng mạn, theo chủ trương duy mĩ.

[88] Rán hay ráng? (Quantam).

[89] Có bản chép là: 凜然相對敢相欺,直幹凌空未要奇。根到九泉無曲處,世間惟有蟄龍知。(Lẫm nhiên tương đối cảm tương khi, Trực cán lăng không vị yếu kì. Căn đáo cửu tuyền vô khúc xử, Thế gian duy hữu trập long tri). (Goldfish).