← Quay lại trang sách

CHƯƠNG THỨ BẢY ĐÔNG PHA CƯ SĨ-VÀ THANH PHONG MINH NGUYỆT

Đông Pha bị giáng xuống một chức quan nhỏ ở Hoàng Châu, không được phép kí một công văn nào cả, nghĩa là không có trách nhiệm, quyền hành, mà lại bị cấm không ra khỏi cõi, như vậy là bị giam lỏng.

Đầu năm 1080, ông cùng với con cả là Mại, hồi này đã hai mươi mốt tuổi, đi trước tới Hoàng Châu theo đường bộ; còn vợ và con nhỏ sẽ đi sau với gia đình. Tử Do phải tới nhiệm sở ở Quân Châu, cũng trên đường đó.

Đầu tháng hai, Đông Pha tới Hoàng Châu và cuối tháng năm gia đình mới tới.

Hoàng Châu là một thị trấn nhỏ trên bờ sông Dương Tử, phong cảnh chung quanh rất đẹp, nhiều đồi núi, rừng suối. Tới nơi ông ở trọ một ngôi chùa, Định Huệ Viên, phát tâm theo Phật, muốn sống một đời sống mới, cũng thắp hương tụng nguyện, cũng ăn chay với các nhà sư.

Nhưng ông cũng không quên đạo Khổng, bắt đầu viết về kinh Dịch (bảy quyển) và về Luận ngữ (năm quyển).

Đồng thời ông lại học cả phép trường sinh của đạo Lão, khoe với bạn rằng “đã bắt đầu hiểu bí quyết trường sinh và chỉ ít năm nữa thôi, bạn sẽ ngạc nhiên thấy tôi có tiên cốt… Tôi cũng tập vẽ cảnh rừng về mùa đông và vẽ tre; thư pháp (lối viết chữ) của tôi đã tiến bộ nhiều, nhưng không hiểu tại sao thi hứng tôi không dồi dào như trước”. (Thư cho bạn là Vương Củng, cũng bị liên lụy trong vụ của ông).

Khi gia đình tới, ông lo lắng không biết làm sao nuôi được vợ con (Đãi mười hai tuổi, Quá mười tuổi, đều là con trai) vì triều đình đã cúp lương ông. Cũng may quan Thái Thú ở đó vốn quí ông, cho ông bà đến ở một cái đình tên là Lâm Cao, dành riêng cho các quan nghỉ chân khi đi ngang qua Hoàng Châu. Đình Lâm Cao đó nhờ ông mà sau này nổi danh. Đình nằm ngay trên bờ sông, từ cửa sổ nhìn xuống, cảnh vật thay đổi mỗi giờ. Có tâm hồn thi sĩ như ông, thì cảnh nào mà chẳng đẹp, đâu đâu mà chẳng có trăng thanh gió mát.

Nhưng ông vẫn không được thảnh thơi, phải lo cho bảy tám miệng ăn, lương thì bị cúp mà hai chục năm làm quan chẳng dành dụm được bao nhiêu. Trong thư cho Tần Quan, ông tâm sự: “Tôi phải thắt bụng lại, mỗi ngày chỉ được tiêu 150 đồng tiền thôi[90]. Cứ ngày mùng một đầu tháng, tôi lấy ra 4.500 đồng tiền, chia đều làm ba mươi phần, lấy lạt xâu mỗi phần lại, treo lên xà nhà; rồi mỗi ngày lấy xuống một xâu để chi tiêu, tới tối còn được đồng nào thì để dành phòng khi có khách khứa”. Đúng là hành động của một nhà Nho.

Dù tiết kiệm tới mức nào thì cũng không thể có đủ ăn mãi được, nên phải nghĩ tới việc mưu sinh.

Năm sau Đông Pha phải làm ruộng như Đào Tiềm thời trước. Một người thân tín của ông, Mã Mộng Đắc, xin chính quyền địa phương cấp cho ông một khu đất hoang khoảng mươi mẫu ở Đông Pha (dốc ở phía Đông thị trấn, cách thị trấn độ nửa cây sô). Ông dắt gia đình lại đó ở cất một căn nhà năm gian; ông đích thân vẽ những cảnh núi sông lên tường để trang hoàng. Họa sĩ nổi danh đương thời Mễ Phế, lại chơi, bàn về họa với ông. Năm 1170, khoảng 70 năm sau khi Đông Pha mất, thi sĩ Lục Du (1125-1210) lại thăm ngôi nhà, còn thấy treo một bức chân dung của ông do Lí Long Miên vẽ. (tức sáp đồ I trang 4...).

Trong sân, ông cất một nhà nhỏ để ngồi chơi, ngày hoàn thành thì tuyết đổ, nên gọi là Tuyết Đường, chung quanh trồng liễu, rau, cây trái, trà, lại đào một cái giếng nước trong và mát, dưới chân đồi là ruộng lúa.

Mã Mộng Đắc, người cùng quê với ông, rất mực trung tín, theo ông hai chục năm, coi ông là một vĩ nhân, giúp ông trong công việc cày cấy. Chính ông và vợ con cùng làm mọi việc. Tài chính trong nhà khá lên, họ hàng và bạn bè mọi nơi lại chơi, có cả các nhà sư và đạo sĩ.

Người bạn ông mến nhất là Trần Tháo (tự là Quí Đường).

Hai người ở gần nhau và thường lại thăm nhau.

Trần Tháo theo đạo Lão, có tài kể chuyện ma quỉ, nên Đông Pha thích lại nghe. Một hôm Đông Pha làm bốn câu thơ đùa bạn, bảo rằng ban đêm, Trần đương kể chuyện ma thì:

Hốt văn Hà Đông sư tử hống

Trụ trượng lạc thủ tâm mang nhiên.

Bỗng nghe tiếng rống của sư tử Hà Đông

Lòng hoảng hốt, gậy trong tay rơi xuống.

Đời sau cho rằng Trần Tháo có người vợ họ Liễu hay ghen, và Đông Pha giễu tính sợ vợ của bạn; do đó tiếng “sư tử Hà Đông” trỏ người vợ dữ. Nhưng theo Lâm Ngữ Đường thì như vậy oan cho Trần vì gia đình Trần rất hòa thuận vui vẻ, có lẽ người vợ có giọng oang oang chứ không có tính ghen.

Lâm Ngữ Đường có lí. Đọc bài Phương Sơn tử truyện dưới đây của Tô Đông Pha, chúng ta sẽ thấy Trần là một ẩn sĩ có tiết tháo được vợ con rất kính trọng, một nhân vật kì dị ngày nay không còn nữa.

方 山 子 傳

方 山 子, 光, 黃 閒 隱 人 也. 少 時 慕 朱 家, 郭 解 爲 人,

閭 里 之 俠 皆 宗 之. 稍 壯, 折 節 讀 書,

欲 以 此 馳 聘 當 世, 然 終 不 遇. 晚 乃 遯 於 光, 黃 間,

曰 岐 亭. 庵 居 疏 食,不 與 世 相 聞,

棄 車 馬, 毀 冠 服, 徒 步 往 來, 山 中人 莫 識 也,

見 其 所 著 帽, 方 悚 而 高 曰:

“此 豈 古 方 山 冠 之 遺 像 乎?” 因 謂 之 方 山 子.

余 謫 居 於 黃, 過 岐 亭. 適 見 焉, 曰:

“嗚 呼! 此 吾 故 人 陳 糙 季 常 也, 何 爲 而 在 此?”

方 山 子 亦 蠼 然 問 余 何 以 至 此 者.

余 誥 之 故, 俯 而 不 答, 仰 而 笑.

呼 余 宿 其 家, 環 堵 消 然 而 妻 子 奴 婢 皆 有 自 得 之 薏.

余 記 聳 然 異 之. 獨 念 方 山 子 少 時, 使 酒, 好 劍, 用 財 如 糞 土.

前十九 年, 余 在 岐 山, 見 方 山 子 從 兩 騎, 俠 二 水, 遊 西 山. 爍 起 於 前,

使 騎 逐 而 射 之, 不 擭. 方 山 子 怒 馬 獨 出,

一 發 得 之. 因 與 余 馬 上 論 用 兵, 及 古 今 成 敗,

自 謂 一 時 豪 士. 今 幾 日 耳, 精 悍 之 色,

猶 見 於 眉 間, 而 豈 山 中 之 人 哉?

然 方 山 子 世 有 勳 閥, 當 得 官, 使 從 事 於 其 間,

今 已 顯 聞. 而 其 家 在 洛 陽, 圓 宅 壯 麗, 與 公 侯 等; 河 北 有 田,

歲 得 帛 千 匹, 亦 足 以 富 樂; 皆 棄 不 取,

獨 來 窮 山 中, 此 豈 無 得 而 然 哉?

余 聞 光, 黃 多 異 人, 往 往 佯 狂 垢 汙,

不 可 得 而 見, 方 山 子 儻 見 之 歟?

PHƯƠNG SƠN TỬ TRUYỆN

Phương Sơn tử, Quang, Hoàng gian ẩn nhân dã.Thiếu thời mộ Chu Gia, Quách Giải vi nhân, lư lí chi hiệp giai tôn chi. Sảo tráng, chiết tiết độc thư, dục dĩ thử trì sính đương thế, nhiên chung bất ngộ. Văn nãi độn ư Quang, Hoàng gian, viết Kỳ Đình. Am cư sơ thực, bất dữ thế tưong văn. Khí xa mã, hủy quan phục, đồ bộ vãng lai, sơn trung nhân mạc thức dã, kiến kì sở trước mạo, phương tủng nhi cao, viết: “Thử khởi cổ phương sơn quan chi di tượng hồ?” Nhân vị chi Phương Sơn tử.

Dư trích cư ư Hoàng, quá Kỳ Đình, thích kiên yên, viết: “Ô hô! Thử ngô cố nhân Trần Tháo Quí Thường dã, hà vi nhi tại thử?” Phương Sơn tử diệc quắc nhiên vấn dư hà dĩ chí thử giả. Dư cáo chi cố, phủ nhi bất đáp, ngưỡng nhi tiếu. Hô dư túc kì gia, hoàn đổ tiêu nhiên, nhi thê tử nô tì giai hữu tự đắc chi ý. Dư kí tủng nhiên dị chi, độc niệm Phương Sơn thiếu thời, sử tửu, hiếu kiếm, dụng tài như phẩn thổ.

Tiền thập cửu niên, dư tại Kỳ Sơn, kiến Phương Sơn tử tòng lưỡng kị, hiệp nhị thỉ, du Tây Sơn. Thước khởi ư tiền, sử kị trục nhi xạ chi, bất hoạch. Phương Sơn tử nộ mã độc xuất, nhất phát đắc chi. Nhân dữ dư mã thượng luận dụng binh, cập cổ kim thành bại, tự vị nhất thời hào sĩ. Kim kỉ nhật nhĩ, tinh hãn chi sắc, do hiện ư mi gian, nhi khởi sơn trung chi nhân tai?

Nhiên Phương Sơn tử thế hữu huân phiệt, đương đắc quan; sử tòng sự ư kì gian, kim dĩ hiển văn. Nhi kì gia tại Lạc Dương, viên trạch tráng lệ, dữ công hầu đẳng; Hà Bắc hữu điền, tuế đắc bạch thiên thất, diệc túc dĩ phú lạc; giai khí bất thủ, độc lai cùng sơn trung, thử khởi vô đắc nhi nhiên tai?

Dư văn Quang, Hoàng đa dị nhân, vãng vãng dương cuồng cấu ô, bất khả đắc nhi kiến; Phương Sơn tử thảng kiến chi dư?

Nghĩa:

TRUYỆN PHƯƠNG SƠN TỬ

Phương Sơn là người ở ẩn tại miền Quang, Hoàng. Hồi nhỏ hâm mộ hạng người nhà Chu Gia, Quách Giải[91] bọn hiệp sĩ trong làng xóm đều qui phụ ông. Hơi lớn lên, ông chịu khuất tiết[92] để đọc sách, hi vọng dong ruổi ở đời, nhưng rốt cuộc không gặp vận. Về già mới ẩn cư tại một nơi gọi là Kỳ Đình, miền Quang, Hoàng. Ở am, ăn rau, không giao thiệp gì với đời. Bỏ xe ngựa, huỷ mũ áo, đi bộ. Người trong núi không ai biết ông, thấy ông đội cái mũ vuông mà cao vọt lên, bảo: “Đó phải là kiểu mũ Phuơng Sơn[93] thời xưa còn lại đây chăng?”, rồi nhân đó gọi ông là Phương Sơn tử.

Tôi bị giáng chức lại châu Hoàng, đi qua Kỳ Đình, may gặp ông, hỏi: “Ô kìa! Ông bạn cũ của tôi là Trần Tháo Quí Thường đây mà! Sao mà lại ở đây?” Phương Sơn tử cũng kinh ngạc hỏi tôi vì lẽ gì tới nơi này. Tôi kể duyên do, ông cúi đầu mà không đáp, rồi ngửng lên mà cười bảo tôi về nghỉ ở nhà ông. Nhà ông tường vách tiêu điều mà vợ con nô tì đều có ý vui vẻ, tự tại. Tôi lấy làm kinh dị nhớ lại Phương Sơn tử thuở trẻ thích uống rượu và múa kiếm, tiêu tiền như rác.

Mười chín năm trước tôi ở Kì Sơn, thấy Phương Sơn tử cắp hai mũi tên đi chơi ở Tây Sơn, có hai người cưỡi ngựa theo sau. Chim khách vụt bay trước mặt, ông sai hai người cưỡi ngựa đuổi bắn, không được. Phương Sơn tử phóng ngựa trên lên một mình, bắn một phát trúng liền.

Nhân đó, ông với tôi ngồi trên lưng ngựa, luận phép dùng binh, bàn lẽ thành bại của cổ kim, tôi tự cho ông là bậc hào kiệt một thời. Đến nay đã cách bao năm rồi mà cái sắc diện tinh anh cường tráng còn hiện lên ở khoảng giữa lông mày, có vẻ gì là một ẩn sĩ trong núi đâu.

Nhưng Phương Sơn tử là dòng dõi công thần thế gia, theo lẽ được làm quan nếu ông tòng sự từ thời đó[94] thì nay đã hiển vinh rồi. Vả nhà ông ở Lạc Dương, vườn tược phòng ốc tráng lệ ngang với công hầu; ở Hà Bắc ông lại có ruộng, mỗi năm thu được ngàn tấm lụa, cũng đủ vui cảnh giàu có thế mà ông bỏ hết chẳng màng, một mình tới chốn thâm sơn cùng cốc này, không có điều sở đắc trong lòng thì sao được vậy?

Tôi nghe miền Quang, Hoàng có nhiều dị nhân, thường giả cuồng bôi nhọ, không cho ai thấy. Hoặc giả Phương Sơn tử được thấy các vị đó chăng?

*

Hồi này ông cưới nàng hầu là Vương Triêu Vân mà bà đã mua từ lúc ở Hàng Châu. Về ở với ông bà, nàng mới bắt đầu học, tư chất rất thông minh, sau theo ông trong cuộc bị lưu đày xuống Huệ Châu (Quảng Đông).

Trái lại, con trai của ông học rất tầm thường, tuy tính tình ngoan.

Năm 1083, nàng Triêu Vân sinh một đứa con trai (sau không nuôi được), ông làm một bài thơ, hai câu cuối tự mỉa mình vì thông minh, tài hoa mà bị tai nạn.

Đãn nguyện tử tôn ngu thả độn,

Vô tai vô hại đáo công khanh.

Chỉ mong con cháu ngu và xuẩn,

Bình an vô sự mà tới chức công khanh.

Ông bảo các kiếp trước có lẽ ông là Trang Tử, là Đào Tiềm cho nên rất thích văn thơ hai nhà đó, đọc họ tưởng đâu như chính là ý nghĩ của mình mà họ đã diễn ra giùm.

Ông sửa lại bài Qui khứ lai từ của Đào Tiềm cho thành một bài ca theo điệu đời Tống, rồi dạy nông dân hát, và trong khi cày ruộng, thỉnh thoảng ngừng tay, cầm gậy gõ lên sừng trâu để có nhịp mà cùng hát với họ.

Ông thường nấu lấy thức ăn, tự hào rằng chế được một món thịt heo băm và một món canh rau tuyệt hảo.

Trên tường của Tuyết Đường, ông viết bốn câu để tự răn mình:

Hay ngồi xe thì chân sẽ tàn tật

Ở nhà rộng thì dễ bị cảm.

Hiếu sắc thì sức mau kiệt.

Ăn đồ cao lương thì dễ đau bao tử.

Tóm lại, ông sống đời một nông phu y như Đào Tiềm, tự do mà sung sướng. Nhưng ông vẫn quan tâm tới xã hội. Thấy cái thói bần dân hạn chế số con (vấn đề này đâu phải là mới đặt ra ngày nay), hễ có được hai trai một gái rồi mà sinh thêm nữa thì dìm ngay đứa bé vào nước lạnh cho chết, ông rất bất bình, viết một bức thư dài cho viên thái thú Chu Thọ Xương, yêu cầu ban lệnh cấm ngặt thói đó vì nó vô nhân đạo, trái phép nước; rồi ông kêu gọi lòng từ thiện của các nhà giàu để giúp đỡ các nhà đông con. Ông bảo hồi ông ở Mật Châu, ông đã quyên được mấy ngàn hộc lúa, nhờ vậy cứu được mấy chục đứa trẻ.

Đích thân ông còn hô hào lập ở Hoàng Châu một hội Cứu tế trẻ em nữa, mỗi hội viên đóng mỗi năm ít nhất là mười đồng, giao cho một nhà sư làm thủ quĩ. Gia đình nào nhiều con sẽ được chu cấp nếu cam đoan không giết con nữa. Hễ cưu mang cho họ, con họ sống được dăm sáu tháng rồi, thì lúc đó, nặng tình mẹ con, có bảo giết con, họ cũng không chịu giết.

Ông cho rằng nếu mỗi năm cứu được trăm đứa trẻ thì không gì sung sướng bằng. Đạo Phật đã có ảnh hưởng tới tâm hồn ông.

Hồi ở Hàng Châu, Tô Đông Pha đã đêm đêm tập thở nằm yên không nhúc nhích để chế ngự thể chất rồi chế ngự tinh thần. Bây giờ ở Hoàng Châu, ông luyện lại phép dưỡng sinh và cả phép trường sinh nữa.

Phép dưỡng sinh (giữ gìn sức khỏe) đã có ở Trung Hoa trễ nhất là thời Trang Tử (thế kỷ thứ IV trước T.L.) chứng cớ là thiên Dưỡng sinh chủ trong Nam Hoa kinh của ông; nhưng Trang chỉ đưa ra lí thuyết, không chỉ rõ cách thực hành. Phải bốn năm thế kỉ sau, khi triết học Ấn Độ đã có nhiều ảnh hưởng ở Trung Hoa, thuật Du già mới được cả nhà tu hành, cả Phật lẫn Lão, và các nhà Nho đem ra thi hành.

Đông Pha cũng tập tham thiền, rồi tập nằm, ngồi theo những tư thế qui định để vận động khí huyết, kiểm soát sự hô hấp, tới cái mức mỗi hô hấp kéo dài được “một trăm hai mươi lần mạch nhảy”, nghĩa là khoảng hai phút. Ông lại rán luyện cho trí óc gạt hết các ý nghĩ tạp đi tập trung vào một ý, rồi lần lần càng bớt suy nghĩ càng tốt, rốt cuộc tới trạng thái hoàn toàn tĩnh, không nghĩ ngợi gì cả. Ông thấy nhờ vậy, tâm hồn ông thật nhẹ nhàng, sảng khoái, và viết thư chỉ cho bạn bè kinh nghiệm của mình.

Phép trường sinh (sống hoài, bất tử) có lẽ cũng đã được người Trung Hoa nghĩ tới từ thời chiến Quốc. Trong Chiến Quốc Sách có chép một kẻ dâng thuốc bất tử lên Khoảnh Tương Vương nước Sở, viên thị vệ giật lấy uống để tỏ cho nhà vua hiểu rằng kẻ dâng thuốc chỉ có ý gạt vua, chứ không có thuốc gì là thuốc làm cho người ta bất tử được. Truyện đó cũng chép trong Hàn Phi tử.

Nhưng tới đời Tần và đầu đời Hán, dân Trung Hoa sau mấy thế kỉ loạn lạc, lầm than, dễ tin dị đoan hơn, tư tưởng của phái Âm dương gia rất thịnh, ảnh hưởng muốn lấn cả đạo Lão. Lão giáo vốn là một triết lí cao siêu, lúc đó đã thiên về dị đoan.

Những câu trong Đạo đức kinh: “Tử nhi bất vong giả thọ” (Chết mà không mất là thọ); “Thâm căn cố đế trường sinh cửu thị chi đạo” (Cái đạo gốc sâu rễ bền, sống lâu mà trông xa), bị nhiều người hiểu lầm rằng có phép trường sinh bất tử, và người ta tìm trong âm dương học những cách điều hòa âm dương, lấy trộm cái huyền bí của trời đất mà chế ra cách luyện đan, cách luyện tinh, khí, thần để được bất tử. Chính Tần Thủy Hoàng cầu tiên đan hăng hái hơn ai hết.

Không rõ cách luyện đan đời Tần, Hán ra sao, chứ tới Tô Đông Pha, thì không khác phép của Âu châu thời trung cổ - tức phép mà họ gọi là alchimie - cũng dùng thủy ngân, chu sa... cũng tin rằng có thể luyện được đồng thành vàng. Có lẽ cả châu Âu lẫn Trung Hoa đều chịu ảnh hưởng của Ả Rập vì người Ả Rập thế kỉ thứ VIII, IX, rất giỏi về hóa học.

Đông Pha ở Hoàng Châu cũng hí hoáy luyện đan, nhưng ông nghĩ rằng các “tiên đan” chỉ kéo dài được đời sống thôi chứ không làm cho con người bất tử được.

Ông bảo: “Tôi ngờ rằng những vị mà cổ nhân bảo là bất tử thành tiên, không phải là những người có thực. Các nhà chép truyện đã phóng đại, tưởng tượng ra đấy”; và rốt cuộc ông khuyên các bạn ông có muốn trường sinh thì nhớ bốn câu này:

- Được nhàn nhã thì cũng bằng có quyền cao chức trọng.

- Đi ngủ sớm thì cũng sướng như giàu có.

- Đi thơ thẩn cũng thú như ngồi xe, cưỡi ngựa.

- Ăn trễ thì cũng ngon như ăn thịt.

Vậy ông trở lại với cái lương tri của đạo Nho, cho rằng sướng nhất là có vừa đủ ăn rồi thì đừng ham muốn gì nữa: nhân dục vô nhai, đem cái đời hữu hạn của mình mà theo đuổi cái vô hạn thì không thể nào thọ được.

Ông bỏ cái phần huyền bí người ta tô điểm thêm cho đạo Lão mà chỉ giữ cái nhân sinh quan giản dị, khoáng đạt của Lão Tử. Chính trong cảnh nghèo, phải làm lụng bằng tay chân mà ông thấy vui vẻ hơn lúc nào khác. Ông tha hồ ngắm trăng, ngắm nước, lấy biệt hiệu là Đông Pha cư sĩ, mỗi ngày đi đi về về từ Tuyết Đường ở ngoại ô tới Lâm Cao ở trong thị trấn. Con đường bùn lầy dài trên nửa cây số giữa hai nơi đó đã nổi danh nhờ bài Hậu Xích Bích phú của ông. Bài này với bài Tiền Xích Bích phú là hai viên ngọc của cổ văn Trung Hoa.

Năm 1082 (Nhâm tuất), ngoài rằm tháng bảy, ông cùng với một đạo sĩ là Dương Thế Xương, đi chơi ở dưới núi Xích Bích. Núi vì đá đỏ nên trùng tên với nơi mà tám trăm năm trước, Chu Du đời Tam Quốc dùng hỏa công đốt cháy rụi các chiến thuyền của Tào Tháo.

Đông Pha chép lại chuyến chơi trăng đó như sau:

前 赤 璧 賦

壬 戌 之 秋, 七 月 記 望, 蘇 子 與 客 泛 舟 遊 於 赤 璧 之 下.

清 風 徐 來, 水 波 不 興, 舉 酒 屬 客,

誦 明 月 之 詩, 窈 窕 之 章 少 焉, 月 出 於 東 山 之 上,

徘 徊 於 斗 牛 之 間; 白 露 橫 江; 水 光 接 天. 縱 一 葦 之 所 如,

凌 萬 頃 之 茫 然. 浩 浩 乎 如 馮 虛 御 風 而 不 知 其 所 止;

飄 飄乎 如 遺 世 獨 立,

羽 化 而 登 仙. 於 是 欿 酒樂 葚,

扣 舷 而 歌 之. 歌 曰:

桂 棹 兮 蘭 漿

擊 空 明 兮 訴 流 光

渺 渺 兮 吾 懷

望 美 人 兮 天 一 方

客 有 吹 洞 蕭 者, 倚 歌 而 和 之; 其 聲 嗚 嗚 然, 如 怨 如 慕, 如 泣 如 訴,

餘 音 嫋 嫋 不 絕 如 縷; 舞 幽 壑 之 潛 蛟, 泣 孤 舟 之 嫠 婦.

蘇 子 愀 然 正 襟, 危 坐 而 問 客 曰:

何 爲 其 然 也?

客 曰:

“月 明 星 稀 烏 鵲 南 飛”, 此 非 曹 孟 德 之 詩 乎? 西 望 夏 口,

東 望 武 昌, 山 川 相 寥,

鬱 乎 倉 倉 此 非 孟 德 之 困 於 周 郎 者 乎? 方 其 破 荆 州,

下 江 陵, 順 流 而 東 也,

舳 路 千 里, 旌 旗 蔽 空; 釃 酒 臨 江, 橫 槊 賦 詩,

固 一 世 之 雄 也 而 今 安 在 哉! 香 乎 吾 與子,

漁 樵 於 江 渚 之 上, 侶 漁 蝦 而 友 麋 簏. 駕 一 葉 之 偏 舟,

舉 匏 撙 以 相 屬, 寄 符 遊 於 天 地, 渺 倉 海 之 一 粟;

哀 吾 生 之 須 臾, 羨 長 江 之 無 窮.

挾 飛 仙 以 遨 遊, 抱 明 月 而 長 終.

知 不 可 乎 驟 得, 託 遺 響 於 悲 風.

蘇 子 曰:

客 亦 知 夫 水 與 月 乎? 逝 者 如 斯 而 未 常 往 也;

盈 虛 者 如 彼 而 卒 莫 消 長 也. 蓋 將 白 其 變 者 而 觀 之,

則 天 地 曾 不能 以 一 膊.

自 其 不 變 者 而 觀 之,

則 物 與 我 皆 無 盡 也, 而 又 何 羨 乎?

且 夫 天 地 之 間, 物 各 有 主, 茍 非 吾 之 所 有, 雖 一 毫 而 莫首.

惟 江 上 之 清 風 與 山 間 之 明 月,

耳 得 之 爲 聲, 目 遇 之 而 成 色, 取 之 無 禁, 用 之 不 竭,

是 造 物 者 之 無 盡 臧 也, 而 吾 與 子 之 所 共 適.

客 喜 而 笑, 洗 盞 更 酌. 肴 核 既 賓, 杯 盤 琅 藉,

相 與 枕 藉 乎 舟 中, 不 知 東 方 之 既 白.

TIỀN XÍCH BÍCH PHÚ.

Nhâm tuất chi thu, thất nguyệt kí vọng, Tô Tử dữ khách phiếm chu du ư Xích Bích chi hạ.

Thạch phong từ lai, thủy ba bất hưng, cử tửu chúc khách tụng Minh Nguyệt chi thi, Yểu Điệu chi chương thiểu yên, nguyệt xuất ư đông sơn chi thượng, bồi hồi ư đẩu ngưu chi gian, bạch lộ hoành gian; thủy quang tiếp thiên. Túng nhất vĩ chi sở như, lăng vạn khoảng chi mang nhiên. bằng hư ngự phong, nhi bất tri kì sở chỉ; phiêu phiêu hồ như di thế độc lập, vũ hoá nhi đăng tiên. Ư thị ẩm tửu lạc thậm, khấu huyền nhi ca chi[95]. Ca viết:

Quế trạo hề lan tương[96]

Kích không minh hề tố lưu quang.

Diểu diểu hề ngô[97] hoài,

Vọng mĩ nhân hề thiên nhất phương

Khách hữu xúy đỗng tiêu[98] giả, ỷ ca nhi họa chi, kì thanh ô ô nhiên, như oán như mộ, như khấp như tố, dư âm niểu niểu bất tuyệt như lũ. Vũ u hác chi tiềm giao, khấp cô chu chi li phụ.

Tô Tử sậu nhiên chính khâm, nguy tọa nhi vấn khách viết:

- Hà vi kì nhiên dã?

Khách viết:

- “Nguyệt minh tinh hi, ô thước nam phi”, thử phi Tào Mạnh Đức chi thi hồ? Tây vọng Hạ Khẩu, đông vọng Vũ Xương, sơn xuyên tương liễu, uất hồ thương thương, thử phi Mạnh Đức chi khốn ư Chu Lang giả hồ? Phương kì phá Kinh Châu, hạ Giang Lăng, thuận lưu nhi đông dã, trục lộ thiên lí, tinh kì tế không, sỉ tửu lâm giang, hoành sáo phú thi, cố nhất thế chi hùng dã, nhi kim an tại tai? Hướng hồ ngô dữ tử, ngư tiều ư giang chử chi thượng, lũ ngư hà nhi hữu mi lộc, giá nhất diệp chi thiên chu, cử bào tỗn dĩ tương chúc, kí phù du ư thiên địa, điểu thương hải chi nhất túc; ai ngô sinh chi tu du, tiện Trường Giang chi vô cùng, hiệp phi tiên dĩ ngao du, bão minh nguyệt nhi trường chung. Tri bất khả hồ sậu đắc, thác di hưởng ư bi phong.

Tô Tử viết:

- Khách diệc tri phù thủy dữ nguyệt hồ? Thệ giả như tư nhi vị thường vãng dã; doanh hư giả như bỉ nhi tốt mạc tiêu trưởng dã. Cái tương tự kì biến giả nhi quan chi, tắc thiên địa tằng bất năng dĩ nhất thuấn. Tự kì bất biến giả nhi quan chi, tắc vật dữ ngã giai vô tận dã, nhi hựu hà tiển hồ? Thả phù thiên địa chi gian, vật các hữu chủ, cẩu phi ngô chi sở hữu, tuy nhất hào nhi mạc thủ. Duy giang thượng chi thanh phong dữ sơn gian chi minh nguyệt, nhĩ đắc chi vi thanh, mục ngộ chi nhi thành sắc, thủ chi vô cấm, dụng chi bất kiệt, thị tạo vật giả chi vô tận tang dã, nhi ngô dữ tử chi sở cộng thích.

Khách hỉ nhi tiếu, tẩy trản cánh chước. Hào hạch kí tận, bôi bàn lang tạ, tương dữ chẩm tạ hồ chu trung, bất tri đông phương chi kí bạch.

BÀI PHÚ TIỀN XÍCH BÍCH

Ngoài rằm tháng bảy mùa thu năm Nhâm Tuất, Tô Tử cùng với khách bơi thuyền chơi ở dưới núi Xích Bích.

Hây hây gió mát, sóng lặng như tờ, cầm chén rượu lên mời khách, đọc bài thơ Minh Nguyệt và hát một chương Yểu Điệu[99]. Một lát, trăng mọc lên trên núi Đông Sơn, đi lững thững trong khoảng hai sao Ngưu, Đẩu[100]. Khi đó sương tỏa trên mặt sông nước trong tiếp đến chân trời. Tha hồ cho một chiếc thuyền nhỏ đi đâu thì đi, vượt trên mặt nước mênh mông muôn khoảnh. Nhẹ nhàng như cưỡi gió, đi trên không, mà không biết là đi đến đâu; hớn hở sung sướng như người quên đời, đứng một mình mọc cánh mà bay lên tiên. Vì thế uống rượu vui lắm, rồi gõ vào mạn thuyền mà hát. Hát rằng:

Thung thăng thuyền quế chèo lan.

Theo vừng trăng tỏ vượt làn nước trong

Nhớ ai canh cánh bên lòng,

Nhớ người quân tử ngóng trông bên trời.

Trong bọn khách có một người thổi ống sáo bèn theo bài ca của ta mà họa lại. Tiếng sáo não nùng rên rỉ như sầu như thảm, như khóc như than.

Tiếng dư âm vẫn còn lanh lảnh, nhỏ tít như sợi tơ chưa dứt. Làm cho con giao long ở dưới hang tối cũng phải múa mênh, người đàn bà thủ tiết ở một chiếc thuyền khác cũng phải sụt sùi.

Tô Tử buồn rầu sắc mặt, thu vạt áo, ngồi ngay ngắn mà hỏi khách rằng:

“Làm sao lại có tiếng não nùng làm vậy?”

Khách đáp rằng:

Câu “Minh nguyệt tinh hi, ô thước nam phi”[101] chẳng phải là câu thơ của Tào Mạnh Đức[102] đó ư[103]? Đương khi Tào Mạnh Đức phá đất Kinh Châu, xuống thành Giang Lăng, thuận dòng mà sang mặt đông, tàu bè muôn dặm, cờ tán rợp trời, rót chén rượu đứng trên mặt sông, cầm ngang ngọn giáo ngâm câu thơ, đó thực là anh hùng một đời, mà nay thì ở đâu? Huống hồ tôi với bác đánh cá, kiếm củi ở bên sông này, kết bạn cùng tôm cá, chơi bời với hươu nai, bơi một chiếc thuyền nho nhỏ, nhắc chén rượu để mời nhau, gửi thân phù du ở trong, trời đất xem ta nhỏ nhặt như một hạt thóc ở trong bể xanh[104] thương cho sự sống của ta không được bao lâu mà khen cho con sông này dài vô cùng.[105] Vậy mà muốn được dắt tiên bay để chơi cho sung sướng, ôm lấy vừng trăng tỏ mà sống mãi ở đời. Tôi không làm sao được như vậy, nên nẩy ra tiếng rầu rĩ ở trong cơn gió thoảng.

Tô Tử nói:

- Vậy thế bác có biết nước và mặt trăng không? Nước chảy thế kia mà chưa từng đi bao giờ, mặt trăng khi tròn khi khuyết như vậy mà chưa thêm bớt bao giờ. Bởi vì ta tự ở nơi biến đổi mà xem ra thì cuộc trời đất cũng chỉ ở trong một cái chớp mắt, mà nếu tự ở nơi không biến đổi mà ra thì muôn vật cùng với ta, đều không bao giờ hết cả; cần gì phải khen đâu! Vả lại ở trong trời đất, vật nào có chủ ấy, nếu không phải là của ta thì dẫu một li ta cũng không lấy. Chỉ có ngọn gió mát ở trên sông, cùng vầng trăng sáng ở trong núi, tai ta nghe nên tiếng, mắt ta trông nên vẻ, lấy không ai cấm, dùng không bao giờ hết, đó là kho vô tận của Tạo hóa mà là cáí vui chung của bác với tôi.

Khách nghe vậy, mừng và cười, rửa chén lại rót rượu uống lần nữa. Khi đồ nhắm, hoa quả khan, mâm bát bỏ ngổn ngang, cùng nhau gối đầu ngủ ở trong thuyền, không biết rằng vầng đông đã sáng bạch từ lúc nào.

Phan Kế Bính dịch.

Dịch thơ:

BÀI PHÚ TIỀN XÍCH BÍCH

(Bản dịch thơ của Lê Đại: Từ Long)

Năm Nhâm Tuất qua rằm tháng bảy

Thuyền ông Tô cùng với khách chơi.

Thuận dòng Xích Bích buông xuôi

Bên sông gió thoảng, giữa vời sóng êm.

Ông lấy rượu liền đem mời khách,

Khi đương vui lại thích ngâm thơ.

Đọc bài Minh Nguyệt thơ xưa,

Có câu Yểu Điệu phong ca nước Trần.

Thoắt đỉnh núi trăng dần ló sáng,

Lên lưng chừng quanh quãng Đẩu Ngưu

Ngang dòng nước xuống trắng phau

Da trời sắc nước một màu sáng tinh.

Thuyền một lá mênh mông sóng vỗ,

Lửng lơ dường cưỡi gió buông xuôi

Lâng lâng quên cả cõi đời,

Tưởng như bay tới Bồng Lai chốn này.

Rượu cùng nhắp vui vầy khôn xiết,

Vịn khoang thuyền gõ hát mấy câu.

Hát rằng: “Gỗ quế làm chèo.

Gỗ lan làm lái, ta chèo ta bơi.

Khua đáy nước bóng trời lóng lánh,

Nơi dòng sông theo ánh sáng trôi

Nhớ ai xa xách tuyệt vời,

Góc trời thăm thẳm ngóng người mỹ nhân”.

Khách thổi sáo theo vần họa khúc,

Giọng véo von như khóc như than.

Sắc thôi hơi hãy liền liền

Dây tơ ngừng dứt tiếng huyền còn vương.

Hang thẩm tối thuồng luồng quẫy múa.

Thuyền bơ vơ gái góa âu sầu.

Ông Tô vẻ mặt rầu rầu,

Chỉnh ngồi hỏi khách: “Cớ sao buồn này?”

Khách đáp lại: “Tôi nay vẫn đọc,

Nhớ mấy câu trong khúc đoản ca:

“Quạ bay, sao tỏ, trăng mờ...”

Ấy thơ Mạnh Đức bấy giờ phải không?”

Nay nhìn khắp tây đông cõi đó.

Rặt núi sông cây cỏ rậm rì.

Vũ Xương, Hạ Khẩu chi chi.

Là nơi Mạnh Đức khốn vì chàng Chu.

Tưởng đương lúc Kinh Châu đã vỡ

Hạ Giang Lăng rồi trở sang đông.

Thuyền quân muôn dặm trên sông,

Bóng cờ phấp phới xa trông rợp trời.

Sắp qua bến còn ngồi rót rượu,

Say rồi quay ngọn giáo ngâm thơ.

Anh hùng dậy tiếng từ xưa,

Mà nay ai biết bây giờ ở đâu?

Huống chi lũ ngư tiều trên bến,

Ta cùng nguời kết bạn cùng nhau.

Vui cùng tôm cá nai hưu[106]

Có khi bầu rượu mời nhau dưới thuyền.

Đem thân gửi trong miền phù thế,

Hạt nước trong bốn bể là bao.

Ngán cho đời chẳng bao nhiêu,

Chỉ riêng nước chảy dài lâu vô cùng.

Muốn chắp cánh non bồng đi lại

Ôm vầng trăng mãi mãi tiêu dao.

Muốn như biết chẳng được nào,

Đành đem hơi trúc gửi vào gió thu...”

Nghe khách nói, ông Tô đáp lại:

“Nước cùng trăng người hãy thử coi?

Nước kia chảy mãi không thôi,

Mà trăng có lúc đầy vơi không thường.

Nhưng nước chảy mãi càng chẳng hết.

Trăng kia thời dẫu khuyết lại tròn.

Trăm ngàn năm chẳng hao mòn.

Trăng còn vẫn sáng, nước còn vẫn trôi.

Lấy cái biến và soi cùng khắp.

Trời đất kia chớp mắt mà thôi.

Cho rằng không biến mà coi,

Thì ta với vật tuổi đời dài lâu.

Khắp thiên hạ vật vào chủ nấy,

Phi của ta một mảy không dùng.

Duy trăng núi với gió sông,

Tai nghe thành tiếng, mắt trông nên màu.

Tha hồ lấy, mặc dầu chẳng ngại,

Mặc sức tiêu, tiêu mãi không vơi.

Ấy kho vô tận của trời,

Mà ta vui hưởng cùng ngươi đã từng.”

Khách nghe nói cười mừng lại rót,

Mâm bàn trơ chén bát tứ tung,

Gối thuyền ngả ngốn nằm chung,

Chẳng hay trời đất hừng đông bao giờ.

Lê Đại dịch

Phải đọc nguyên văn chữ Hán, mới thấy sức hấp dẫn lạ lùng như có ma thuật của đoạn cuối; từ “Vậy bác có biết nước và mặt trăng không?...” Thực lạ lùng, đọc mấy chục lần cũng không thấy chán, lần nào cái vui cũng toàn vẹn như lần đầu. Tại ý tưởng thanh thoát chăng?...Cái tương tự kì biến giả nhi quan chi, tắc thiên địa tằng bất năng dĩ nhất thuấn. Tự kì biên giả nhi quan chi, tắc vật dữ ngã giai vô tận dã nhi hựu hà tiện hồ? Câu đó làm cho ta nhớ câu của Trang Tử trong thiên Đức Sung phù: Tự kì dị giả thị chi can đảm Sở Việt dã, tự kì đồng giả thị chi, vạn vật giai nhất dã. (Đứng về chỗ khác biệt nhau mà xét thì dù gan với mật cũng cách xa nhau như Sở với Việt; còn đứng về chỗ giống nhau mà xét thì vạn vật đều nhất thể cả). Nhưng ý của Đông Pha làm cho ta thích thú hơn nhiều.

Hay tại lời văn du dương?... Duy giang thượng chi thanh phong, dữ sơn gian chi minh nguyệt, nhĩ đắc chi nhi vi thanh, mục ngộ chi nhi thành sắc, thủ chi vô cấm, dụng chi bất kiệt, thị tạo vật giả chi vô tận tạng dã, nhi ngô dữ tử chi sở cộng thích... Ngâm xong ta tưởng tượng hai bóng người nhỏ xíu trong một chiếc thuyền con lênh đênh, chơi vơi trong cảnh trăng nước mênh mông và chính tâm hồn ta cũng phiêu diêu, tưởng chừng “vũ hóa nhi đăng tiên”.

*

Ba tháng sau, rằm tháng mười, Đông Pha cùng với hai ông bạn đi bộ từ Tuyết Đường về Lâm Cao, qua dốc Hoàng Nê. Lúc này vào đầu đông, sương đã đổ, lá đã rụng, thấy trăng sáng lại muốn uống rượu ngắm trăng. Nhân một người bạn mới cất lưới được một con cá, ông bèn trở về nhà kiếm rượu, bà đưa cho ông một hũ. Thế là xách rượu và cá, lại đi chơi dưới chân núi Xích Bích một lần nữa.

“Sông chảy róc rách, bờ dựng đứng ngàn thước. Núi cao trăng nhỏ, nước rút đá nhô, ngày tháng cách chẳng bao lâu mà sông núi đã không còn nhận ra được nữa”.

Ông cùng bạn leo núi, bỗng nghe một tiếng hú dài rợn người, ông quay về thuyền, thả nó giữa dòng như lần trước, mặc cho nó trôi đâu thì trôi, ngừng đâu thì ngừng.

“Lúc đó vào gần nửa đêm, bốn bề tĩnh mịch, chợt có một con hạc lẻ bay ngang sông từ phía đông lại, cách xòe như bánh xe, xiêm đen áo mộc, vút lên kêu một tiếng dài, lướt ngang thuyền tôi mà qua hướng tây.

Lát sau khách về, tôi cũng về nhà ngủ, nằm mộng thấy một đạo sĩ áo lông phơi phới, tới phía dưới Lâm Cao, vái tôi hỏi: “Đi chơi Xích Bích vui không?” Tôi hỏi tên tuổi thì cúi đầu mà không đáp. “Ô hô, a ha! Tôi biết rồi! Hồi khuya bay qua thuyền tôi và kêu đó, phải là ông không?” Đạo sĩ quay lại cười, tôi giật mình tỉnh dậy, mở cửa nhìn ra thì đạo sĩ đã biến đâu mất”.

Ông dùng con chim hạc (mà người Trung Hoa cho là loài thọ nhất, sống tới ngàn năm) và giấc mộng thấy đạo sĩ để tạo nên một không khí hư hư thực thực và chúng ta không biết ông sống trong cảnh nào, thực hay mộng. Rõ ràng ông đã chịu ảnh hưởng mạnh của Đạo giáo và chắc ông mong kiếp sau sẽ thành tiên.

Cũng trong hồi ở Tuyết Đường, ông làm một bài từ tỏ cái ý thoát tục đó một cách rõ ràng hơn nữa. Bài này theo điệu Lâm giang tiên.

Đêm đó ông uống rượu, tỉnh dậy rồi lại say nữa, về tới nhà thì vào khoảng canh ba. Đứa ở đương ngáy như sấm, ông gõ cửa mấy lần, nó vẫn không dậy. Ông chống gậy đứng nghe nước dưới sông vỗ bập bềnh, và hận rằng không làm chủ được đời mình, không biết bao giờ mới thoát được cảnh xô đẩy chen lấn. Đêm đã khuya, không có một ngọn gió, mặt sông phẳng lặng như tấm lụa, ông ước ao:

Tiểu chu tòng thử thệ,

Giang hải kí phù sinh[107].

Ngồi chiếc thuyền con theo dòng này,

Mà gửi kiếp phù sinh trên sông biển.

Hôm sau, người ta đồn rằng ông đã thả thuyền trốn đi mất, để lại bài đó từ biệt gia đình và bạn bè. Viên Thái thú Hoàng Châu có nhiệm vụ canh gác ông, tưởng thật, hoảng hồn, vội vàng lại Tuyết Đường thì thấy ông đương ngủ. Tin đó đồn tới cả triều đình.

Năm sau lại có một tin quan trọng hơn. Đông Pha bị bệnh tê thấp ở cánh tay, rồi con mắt bên phải đau nên bế môn, không tiếp ai cả trong mấy tháng liền. Cũng vào lúc đó Tăng Củng, một trong bát đại gia, chết ở một nơi khác, và thiên hạ đồn rằng hai văn hào - Tô và Tăng - được Ngọc Hoàng kêu về trời một ngày. Nhà vua hay tin, tưởng thật, bỏ một bữa ăn, than thở: “Khó mà kiếm được một thiên tài nữa như Tô Thức”. Như vậy đủ biết danh vọng của ông lan rộng tới bực nào từ thôn dã tới triều đình.

Tuy được nhà vua quí tài, tuy đã vui vẻ sống đời một nông phu, mà Đông Pha, lúc này đã năm chục tuổi, vẫn chưa được yên. Còn phải chịu nhiều thăng trầm, hoạn nạn nữa.

[90] Theo Lâm Ngữ Đường thì 150 đồng tiền thời đó bằng 15 xu Mỹ hồi 1946.

[91] Chu Gia, Quách Giải là hai hiệp sĩ đời Hán.

[92] Khuất tiết nghĩa là uốn mình theo thời, bỏ chí hướng của ông là muốn thành một hiệp sĩ.

[93] Mũ phương sơn là một thứ mũ đời Hán, giống kiểu mũ tiến hiền (bậc hiền tài được tiến cử); qua đời Đường, Tống, bọn ẩn sĩ thường đội mũ đó.

[94] Chính nghĩa là trong thời gian đó, từ trẻ tới nay.

[95] Đoạn này đã được sửa lại vài chỗ (Quantam).

[96] Lan tương 蘭 漿: có bản chép là 蘭桨 (Thiều Chửu đọc là “lan tưởng” và giảng là “chèo nhỏ bằng lan”). Theo trang http://cls.hs.yzu.edu.tw/hlm/retrieval/analysis/verse/under/under49.htm thì chữ “lan” đó chính là cây mộc lan 木蘭. (Goldfish).

[97] Ngô 吾: Trong Đại cương văn học sử Trung Quốc, cụ Nguyễn Hiến Lê chép là dư 予. (Golfish).

[98] Tiêu 蕭 (bộ thảo). Trong Đại cương văn học sử Trung Quốc, cụ Nguyễn Hiến Lê chép là tiêu 簫 (bộ trúc). (Goldfish).

[99] Minh Nguyệt và Yểu Điệu là những chương trong Kinh Thi.

[100] Tên hai ngôi sao.

[101] Nghĩa là trăng sáng sao thưa, quạ bay về nam.

[102] Tức Tào Tháo.

[103] Đây Phan Kế Bính dịch xót một câu: Phía Tây trông sang Hạ-khẩu, phía đông nhìn sang Vũ Xương, sông núi uốn khúc, vây nhau, cây cối xuanh tươi um tùm, đó chẳng phải là nơi Tào Mạnh Đức bị khốn Chu Lăng ư?

[104] Theo ý chúng tôi, nên chấm câu như thế này:... gửi thân phù du ở trong trời đất, nhỏ nhặt như hạt thóc ở trong bể xanh...

[105] Theo tôi, nên dịch là: Khen sông Trường Giang là vô cùng, (Trường Giang tức Dương Tử Giang, chảy qua Hoang Châu).

[106] Hươu (?) (Quantam).

[107] Có bản chép 2 câu cuối của bài Dạ qui Lâm Cao 夜歸臨皋 như sau: Tiểu chu tòng thử thệ, Giang hải kí dư sinh 小舟從此逝,江海寄余生. (Goldfish).