CHƯƠNG THỨ TÁM TRÊN ĐUỜNG VỀ TRIỀU-MỘT VỊ ĐẠI THẦN NGHỆ SĨ
Khu vườn Tuyết Đường trồng đào, trà, cam, quít, dâu, táo vừa được ba năm, bắt đầu có chút hoa lợi thì Đông Pha lại phải đi nơi khác. Vua Thần Tôn ân hận đã đày ông xa quá, muốn vời ông về triều giao cho việc chép sử, nhưng bọn Lữ Huệ Khanh, Lý Định ngăn cản.
Sau cùng nhà vua phải tự thảo một tờ sắc cho phép ông được về ở Nhữ Châu, gần kinh đô (tháng ba năm 1084).
Hay tin đó, Đông Pha đã muốn từ chối: ông không ham bổng lộc, càng không ham uy quyền, còn danh vọng thì dầu làm tể tướng cũng đâu bằng làm cư sĩ Đông Pha, mà giúp nước thì thiếu gì cách giúp - nội việc cứu mạng cho bao nhiêu đứa trẻ mới sinh, chẳng là đáng kể ư - huống hồ bọn tiểu nhân Lý Định, Thư Đản còn ở triều đình, thì dễ gì làm được như ý muốn? Nhưng rồi ông nghĩ lại: nhà vua đã ân hận, mà mình từ chối thì không phải đạo, cho nên ông sửa soạn để rời Hoàng Châu. Ông sẽ đi trước vợ con đi sau.
Bạn bè từ quan tới nhà sư, đạo sĩ, nông dân ở chung quanh Hoàng Châu lại tiễn đưa ông. Mười chín người ngồi thuyền tới Từ Hồ; ba người bạn thân nhất: Trần Tháo, nhà sư Tham Liêu và một đạo sĩ một trăm ba mươi tuổi tiễn ông tới Cửu Giang. Vị đạo sĩ này, Lâm Ngữ Đường gọi là Chao Chi, chúng tôi chưa tìm được tên chữ Hán[108]. Người thời đó tin rằng cụ đội mồ mà sống lại, cụ rất thích chim và loài vật, đi đâu cũng mang theo một con mà cụ ưa nhất; cụ mất được vài năm người ta gặp trên đường một người y hệt cụ, bảo có biết Đông Pha ở Hoàng Châu; để biết rõ thực hư ra sao, người ta đào mộ cụ lên, chỉ thấy cây gậy và hai khúc xương ống quyển, còn xác đã biến mất.
Tới Cửu Giang, Đông Pha rẽ xuống Cao An (Quân Châu) để thăm gia đình em. Cảnh Tử Do thật bi thảm: một văn hào đã làm đại thần mà nay thành lái rượu lái muối cho chính phủ, kiêm việc cân cá, cân heo để đánh thuế, mà không có một người giúp việc. Suốt ngày bận rộn, bực nhất là phải tranh biện với bọn con buôn về giá cả, cân già cân non. Gia đình trên mười miệng ăn mà lương thì ít.
Ở chơi với Tử Do một tuần, Đông Pha lên Nam Kinh.
Trong Đông Pha tiên sinh niên phổ của Vương Tôn Tắc không thấy ghi, nhưng căn cứ vào bài Thạch Chung sơn kí của Tô, thì vào hồi này - tháng sáu năm Đinh Sửu (l084) - ông cùng với con trai là Mại, đến thăm núi Thạch Chung rồi chép du kí. Tôi chép lại dưới đây bài du kí đó để độc giả so sánh với bài Du Bao Thiền sơn ký của Vương An Thạch. Hai bài có điểm giống nhau là không bàn về đạo đức như đại đa số các bài cổ văn khác, mà luận về tri thức. Bài của Tô bổ túc cho bài của Vương: Vương khuyên ta phải nghi ngờ các truyền thuyết mà phải tra khảo tới tận nguồn; Tô cũng bảo phải tới tận mỗi vật để tìm hiểu sự thực hiểu rồi thì phải chép lại rành mạch để khỏi gây sự hiểu lầm cho đời sau. Nhờ điểm độc đáo đó mà hai bài có giá trị đặc biệt trong văn học Trung Quốc. Nguyên văn của Tô như sau:
石 鐘 山 記
水 經 雲: “彭 蠡 之 囗 有 石 鐘 山 焉”. 曆 元 以 爲下 臨 深 潭, 微 風 鼓 浪,
水 石 相 搏 聲 如 洪 鐘. 是 說 也, 人 常 疑 之. 今 以 鐘 磬 至 水 中,
雖 大 風 浪 不 能 鳴 也,
而 況 石 乎? 至 唐 李 渤 始 訪 其 遺 蹤,
得 雙 石 於 潭 上, 扣 而 聆 之
, 南 聲 函 胡, 北 音 清 越,
抱 止 響 騰, 餘 韻 徐 歇, 自 以 爲 得 之 矣. 然 是 說 也,
余 尤 疑 之. 石 之 鏗 然, 有 聲 者,
所 在 皆 詩 也. 而 此 獨 以 鐘 名, 何 哉?
元 豐 七 年六 月丁 丑,余 自 齊 安 舟 行, 適 臨 汝,
而 長 子 邁 將 赴 饒 之德 興 尉, 送 之 至 湖 口,
因 得 觀 所 謂 石 鐘 者. 字 僧 使 小東[109] 持 斧 於 亂 石 間,
擇 其 一 二, 扣 之 硿 硿 然. 余 固 笑 而 不 信 也.
至 其 夜月 明,獨 與 邁 乘 小 舟, 至 絕 壁下,
大石 側 立千尺, 如 猛 獸 奇鬼, 參 然 欲 搏 人.
而 山 上 棲 鶻 聞 人 聲 亦 驚 起, 磔 磔 雲 宵 間; 或 曰:
此 鸛 鶴 也. 余 方 心 動 欲 還, 而 大 聲 發 於 水 上,
噌 或 如 鐘 鼓 不 絕. 舟 人 大 恐, 徐 而 察 之,
則 山 下 皆 石 穴 罅, 不 知 其 淺 深,
微 波 入 焉, 涵 澹 澎 湃, 而 為 此 也.
舟 迴 至 兩 山 間, 將 入 港 口, 有 大 石 當 中 流, 可 坐 百 人, 空 中 而 多 竅,
與 豐 水 相 吞 吐, 有 窾 坎 鏜 鞳 之 聲, 與 向 之 噌 或者 相 應,
如 樂 作 焉. 因 謂 邁 曰: “汝 識 之乎? 噌 或 者,
周 景 王 之無 易 也[110], 魏 獻 子 之 歌 鐘 也, 古 之 人 不 余 欺 也.
事 不 目 見 耳 聞 而 臆 斷 其 有 無,可 乎?曆[111]
元 之 所 見 聞, 殆 與 余 同, 而 言 之 不 詳.
士 大 夫 終 不 肯 以 小 舟 夜 泊 絕 壁 之 下 故 莫 能 知; 而 漁 工,
水 師, 雖 知 而 不 能 言, 此 世 所 以 不 傳 也。
而 陋 者 乃 以 斧 斤 考 擊 而 求 之, 自 以 為 得 其 實.
余 是 以 記 之, 蓋 歎 曆[112] 元 之 簡, 而 笑 李 渤 之 陋 也.
THẠCH CHUNG SƠN KÍ
Thủy Kinh vân: “Bành Lãi chi khẩu hữu Thạch Chung sơn yên”. Lịch Nguyên dĩ vi hạ lâm thâm đàm, vi phong cổ lãng, thủy thạch tương bác thanh như hồng chung. Thị thuyết dã, nhân thường nghi chi. Kim dĩ chung khánh chí thủy trung, tuy đại phong lãng bất năng minh dã, nhi huống thạch hồ? Chí Đường Lí Bột thủy phỏng kì di tung, đắc song thạch ư đàm thượng, khấu nhi linh chi, nam thanh hàm hồ, bắc âm thanh việt, phu chỉ hưởng đằng, dư vận từ yết, tự dĩ vi đắc chi hĩ. Nhiên thị thuyết dã, dư vưu nghi chi. Thạch chi khanh nhiên, hữu thanh giả, sở tại giai thị dã, nhi thử độc dĩ chung danh, hà tai?
Nguyên Phong thất niên lục nguyệt, đinh sửu, dư tự Tề An chu hành thích Lâm Nhữ, nhi trưởng tử Mại tương phó Nhiêu chi Đức Hưng úy, tống chi chỉ hồ khẩu, nhân đắc quan sở vị thạch chung giả. Tự tăng sử tiểu đông([113]) trì phủ ư loạn thạch gian, trạch kì nhất nhị khấu chi không không nhiên, dư cố tiếu nhi bất tín dã.
Chi kì dạ nguyệt minh, độc dữ Mại thừa tiểu chu, chi tuyệt bích hạ. Đại thạch trắc lập thiên xích, như mãnh thú kì quỉ, sâm nhiên dục bách nhân; nhi sơn thượng thê cốt, văn nhân thanh diệc kinh khởi, trách trách vân tiêu gian; hoặc viết: “Thử quán hạc dã”. Dư phương tâm động, dục hoàn nhi đại thanh phát ư thủy thượng, tăng hoằng như chung cổ bất tuyệt, Chu nhân đại khủng. Tử nhi sát chi, tắc sơn hạ giai thạch huyệt há, bất tri kì thiển thâm; vi ba nhập yên, hàm đạm bành phái, nhi vi thử dã.
Chu hồi chi lưỡng sơn gian, tương nhập cảng khẩu, hữu đại thạch đương trung lưu, khả tọa bách nhân, không trung nhi đa khiếu, dữ phong thủy tương thôn thổ, hữu khoản khảm thang tháp chi thanh, dữ hướng chi tăng hoằng giả tương ứng, như nhạc tác yên. Nhân vị Mại viết: “Nhữ thức chi hồ?” Tăng hoằng giả, Chu Cảnh Vương chi vô dịch dã, khoản khảm thang tháp giả, Ngụy Hiến tử chi ca chung giả, cổ chi nhân bất dư khi dã. Sự bất mục kiến nhĩ văn nhi ức đoán kì hữu vô, khả hồ? Lịch nguyên chi sở kiến văn, đãi dữ dư đồng, nhi ngôn chi bất tường. Sĩ đại phu chung bất khẳng dữ tiểu chu dạ bạc tuyệt bích chi hạ, cố mạc năng tri. Nhi ngư công thủy sư tuy tri nhi bất năng ngôn, thử thế sở dĩ bất truyền dã. Nhi lậu giả nãi dĩ phủ cân khảo kích nhi cầu chi, tự dĩ vi đắc kì thực”.
Dư thị dĩ kí chi, cái thán Lịch Nguyên chi giản nhi tiếu Lí Bột chi lậu dã.
CHƠI NÚI THẠCH-CHUNG
Sách Thủy Kinh chép: “Cửa hồ Bành Lãi có núi Thạch Chung.”[114] Lịch Nguyên cho rằng phía dưới nơi đó có đầm sâu, gió nhẹ cũng động sóng, nước vỗ vào đá, tiếng như tiếng chuông lớn. Thuyết đó người ta thường nghi ngờ. Vì nay có đem chuông khánh thật đặt dưới nước, dù gió to sóng lớn cũng không kêu được, huống hồ là đá. Tới Lí Bột đời Đường[115] mới tìm tòi dấu cũ, được hai phiến đá ở bờ đầm, gõ mà nghe thì có tiếng nam oang oang, tiếng bắc trong trẻo[116], ngừng gõ mà dư âm còn lanh lảnh, lâu rồi mới dứt; và ông tự cho rằng đã tìm được ý nghĩa của tên núi Thạch Chung. Nhưng thuyết ấy, tôi càng nghi hơn nữa: đá mà kêu keng keng thì ở đâu mà chẳng vậy, sao chỉ riêng đá nơi đó có cái tên là chuông? Niên hiệu Nguyên Phong năm thứ bảy[117], tháng sáu ngày đinh sửu, tôi từ Tế An đi thuyền tới Lâm Nhữ, vì con trưởng tôi là Mại sắp đến làm huyện úy ở Đức Hưng tại châu Nhiêu, tôi tiễn nó đến Hồ Khẩu, nhân đó được coi cái người ta gọi là chuông đó. Nhà sư trong chùa sai một tiểu đồng cầm rìu vào đám đá lổn nhổn, chọn một hai phiến gõ kêu boong boong, tôi vẫn cười mà không tin.
Đêm đó trăng sáng, một mình tôi với Mại chèo chiếc thuyền nhỏ tới chân sườn núi cao. Đá lớn đứng nghiêng cao đến ngàn thước, như thú dữ, như quỉ lạ, lù lù như muốn vồ người; mà chim cắt làm tổ ở trên núi nghe có tiếng người, giật mình bay lên, kêu chách chách trong đám mây. Lại như có tiếng ông già ho và cười trong hang núi, có người bảo: “Đó là loại chim quán”. Lòng tôi hơi sợ đã tính về thì một tiếng lớn phát ra ở mặt nước, phập phình như tiếng chuông tiếng trống không dứt, người trong thuyền kinh hoảng. Tôi lần lần dò xét thì ra ở dưới chân núi đều là hang hốc, không rõ sâu nông bao nhiêu; có sóng nhẹ vỗ vào, nhấp nhô bập bềnh và phát ra tiếng nọ.
Thuyền về tới khoảng giữa hai núi, sắp vào vàm thì có một tảng đá lớn nằm giữa dòng, ngồi được trăm nguời, trong rỗng mà nhiều hốc, gió và nước hút vào rồi rút ra, có tiếng ì ầm vang rền cùng với tiếng phập phình trên kia họa nhau như một khúc nhạc.
Tôi cười mà bảo Mại: “Con thấy không? Tiếng phập phình kia là tiếng chuông Vô dịch của Chu Cảnh Vương,[118] còn tiếng ì ầm vang rền này là tiếng chuông Ca chung của Ngụy Hiến tử đấy[119]. Cổ nhân không dối ta. Việc gì mắt không trông thấy, tai không nghe thấy mà cứ đoán phỏng rằng có hay không có, như vậy có nên chăng? Lịch Nguyên trông thấy, nghe thấy đại loại cũng như ta, nhưng ông nói không được rõ. Kẻ sĩ đại phu không ai chịu chèo chiếc thuyền nhỏ ban đêm đậu ở chân sườn núi cao này nên không thể biết được. Mà bọn đánh cá và chèo thuyền tuy biết nhưng không nói ra được, vì vậy mà không truyền được ở đời. Còn bọn quê mùa lấy búa rìu gõ vào đá cho thành tiếng, tự cho rằng biết được sự thực rồi”.
Vì vậy tôi chép lại chuyện đó mà than cho Lịch Nguyên nói sơ lược quá và cười Lí Bột là quê mùa.
*
Nhân dịp lên Nam Kinh, ông ghé thăm Vương An Thạch nay đã về vườn từ năm 1076, sau vụ quân Tống đại bại trên sông Như Nguyệt (Xem cuối chương IV).
Tô và Vương tuy là địch thủ của nhau về chính trị, nhưng không thù ghét nhau tới nỗi hãm hại nhau. Đông Pha bị trích ở Hoàng Châu là do bọn đàn em của Vương trong khi Vương đã thất thế vì chính bọn đó phản.
Lần này gặp nhau sau hơn mười năm xa cách, Tô thấy tinh thần của Vương đã suy nhiều. Tô ở chơi mấy ngày, bàn bạc về văn chương và đạo Phật. Một hôm Tô thẳng thắn trách Vương hai lỗi: gây chiến với Tây Hạ để dân tình đồ thán, và lưu đày nhiều sĩ phu xuống Đông Nam.
Vương đưa hai ngón tay lên đáp:
- Hai việc đó đều do Lữ Huệ Khanh gây nên cả.
Người đương thời chép rằng về già Vương thường cưỡi lừa một mình thơ thẩn ở đồng quê, miệng lẩm bẩm như người điên. Có lúc nhớ lại các bạn cũ đã xa lánh mình, ông cầm bút lên, định viết thư cho họ rồi nghĩ sao lại đặt bút xuống. Nhưng ông vẫn tiếp tục ghi hồi kí gom lại được bảy chục quyển. Khi nghe tin Tư Mã Quang lên cầm quyền, ông bảo một người cháu đốt những hồi kí đó đim người cháu đánh lừa ông, giữ lại mà đốt những giấy tờ khác.
Người con trai độc nhất của ông chết trước ông, ông càng rầu rĩ, gia sản đem cúng chùa hết.
Tương truyền một hôm ông cưỡi lừa đi chơi thì một người đàn bà quì trước đầu lừa dâng ông một tờ khiếu nại rồi biến mất. Về tới nhà ông rờ túi, tờ khiếu nại cũng không còn. Ông hoảng hốt, hôm sau từ trần (1086).
Lúc đó Tư Mã Quang làm tể tướng, không hề oán giận Vương, để cho Vương giữ chức tước cũ. Vương lưu lại bộ Lâm Xuyên tập (100 quyển) và Đường bách gia thi tuyển (20 quyển), còn những cuốn chú thích kinh, thư bị hủy hết, thật đáng tiếc.
Vương mất rồi, tân pháp sau một thời gian gián đoạn (1086-1093), lại được vua Triết Tôn và tể tướng Chương Đôn thi hành trở lại, nhưng càng về sau, tình hình trong nước càng suy, không sao cứu vãn được nữa. Tóm lại, tân pháp được áp dụng hai mươi lăm năm (từ 1070 đến 1085, rồi từ 1094 đến 1105) đã hoàn toàn thất bại.
Các học giả đã đưa ra nhiều nguyên nhân:
1. Dân chúng vốn sợ các sự thay đổi vì có thói bảo thủ; họ ghét nhất phép bảo giáp và bảo mã.
2. Bị cựu đảng đả kích, nhất là giới đại địa phủ phá hoại; mà uy thế của hai giới đó rất mạnh. Hàn Kì, Âu Dương Tu, Tư Mã Quang, hai anh em họ Trình (Trình Di và Trình Hạo), hai anh em họ Tô đều được quốc dân trọng vọng và đều cực lực phản đối tân pháp; những tấu sớ của họ dâng lên nườm nượp, có thể in thành một pho sách trăm quyển.
3. Tân pháp thi hành gấp quá; không chuẩn bị trước, không đào tạo đủ cán bộ, không kiểm soát được chặt chẽ, bọn thừa hành làm bậy và báo cáo láo, một mặt bóc lột dân chúng, một mặt che mắt nhà cầm quyền; thành thử thu lợi cho triều đình không được bao nhiêu mà phí tổn về lương cho bọn cán bộ đó rất nặng.
4. Vương đã không tự lượng sức, đánh Tây - Hạ mà tiêu hao quân lính và tiền bạc, sau lại thua Việt Nam, dân chúng càng thấy rằng đảng của ông bất lực.
Theo tôi, nguyên nhân chính là Trung quốc thời đó đất đai quá rộng, tình hình quá suy nhược, tài của Vương An Thạch không đủ cứu vãn được. Ông là một lí thuyết gia, học rộng, biết nhiều mà thực hành kém. Ông lại quá tự tín, bất chấp dư luận, coi thường tục lệ, không chịu nghe lời khuyên của ai, không chịu nhận mình nhầm lẫn, bướng bỉnh, cố chấp, nên những người có tư cách, uy tín không chịu hợp tác với ông, mà bọn tay chân của ông hầu hết là hạng nịnh bợ, đầu cơ.
Thời trước Quản Trọng biến pháp mà thành công nhờ có óc thực tế và tinh thần mềm mỏng, biết thu dụng hết các nhân tài trong nước; Thương Ưởng trái hẳn với Quản Trọng, độc tài mà cũng thành công, nhờ nước Tần đất đai còn tương đối nhỏ, tình hình đương có cơ thịnh, dân chúng chất phác, chưa đủ sức chống đối mạnh. Qua đời Hán, nhất là đời Tống, phe phản kháng quá đông, vấn đề quá rộng lớn, Vương Mãng và Vương An Thạch không nắm được tình hình nên thất bại. Khi Lữ Huệ Khanh, Chương Đôn lên thay, muốn dùng bàn tay sắt của Thương Ưởng thì chỉ làm cho sự phản kháng càng thêm kịch liệt mà sự sụp đổ càng mau tới.
Vương An Thạch mất rồi, lại trên tám trăm năm sau mới có một cuộc cách mạng nữa, lần này thành công nhờ một chương trình hấp dẫn, một tổ chức tinh vi, một kĩ thuật hiệu nghiệm và cũng nhờ sự thối nát cùng cực của một chế độ quá lạc hậu.
Đông Pha từ biệt Vương An Thạch, lại thăm một người bạn thân ở Thường Châu, ưa phong cảnh nơi này, dâng biểu xin nhà vua cho được ở lại đó và mua một căn nhà năm trăm đồng, nhưng khi một bà lão tới khóc lóc với ông vì con trai đã tự ý bán nhà của tổ tiên để lại từ mấy đời, ông mủi lòng, đốt văn tự, trả nhà lại mà không đòi số tiền.
Tờ biểu của ông chưa được xét thì tháng ba năm 1085 vua Thần Tôn băng. Vua Triết Tôn lên ngôi, bà Thái hoàng Thái hậu (vợ vua Anh Tôn) thính chính, lại gọi Đông Pha về triều. Ông phàn nàn mình như con ngựa già mà vẫn chưa được yên thân, nhưng rồi cũng nhận chức vì bạn của ông là Tư Mã Quang làm tể tướng; bọn tân đảng mất quyền và bọn cựu đảng lại lên.
Tháng chạp năm 1085, gia đình Đông Pha tới kinh.
*
Triết Tôn mới có chín tuổi, lấy niên hiệu là Nguyên Hựu. Tuyên Nhân Hậu, vợ của Anh Tôn thính chính, dùng Tư Mã Quang làm tể tướng, bãi phép thanh miêu và phép miễn dịch.
Cũng như vợ Nhân Tôn, bà rất quí Đông Pha, cho ông thăng chức Hàn Lâm, tuy là tam phẩm, nhưng cũng như nhị phẩm vì nhà Tống không ban nhất phẩm cho ai cả. Tô giữ việc thảo các chiếu dụ, do lệnh của Tuyên Nhân Hậu cách chức Lý Định và Lữ Huệ Khanh, ban tên thụy là Văn cho Vương An Thạch.
Theo lệ thời đó, mọi giấy tờ của nhà vua phải thảo sẵn trong những ngày lẻ để tuyên đọc vào ngày chẵn, mà thường thảo ban đêm, nên Đông Pha phải ở lại Hàn Lâm viện, trong cung.
Một buổi tối, ông vào nhận lệnh thảo sắc phong Lữ Đại Phòng làm tể tướng thay Tư Mã Quang (Quang cầm quyền mới được một năm thì mất năm 1086, sau Vương An Thạch ít tháng). Tuyên Nhân Hậu hỏi ông; lúc đó có Triết Tôn ngồi bên:
- Năm trước khanh làm chức gì?
Đông Pha đáp:
- Thần làm Đoàn Luyện phó sứ ở Thường Châu.[120]
- Nay làm chức gì?
- Thần đợi tội, nhận chức Hàn Lâm học sĩ.
- Sao mà lên mau như vậy?
- Thần được đội ơn Thái Hoàng Thái hậu và Hoàng đế bệ hạ.
- Không phải.
- Vậy thì chắc là quan cố tể tướng (tức Tư Mã Quang) tiến cử.
- Cũng không phải.
Tô kinh ngạc, đứng yên một lát rồi mới đáp:
- Thần tuy bất tiếu nhưng không dám nhờ ai vận động giùm bao giờ.
- Chính là nhờ Tiên đế (tức vua Nhân Tôn) đấy. Mỗi lần đọc văn của khanh đều khen là kì tài, kì tài, nhưng chưa kịp tiến dụng khanh thì đã qui tiên.
Đông Pha òa lên khóc. Tuyên Nhân Hậu và Triết Tôn cũng khóc.
Rồi bà ban cho Đông Pha một gói trà, một cây chân đèn bằng vàng chạm hình hoa sen.
Tư Mã Quang mất tang lễ cử hành rất long trọng.
Ngày làm lễ phát tang chính là ngày rước thần chủ của vua Thần Tôn vào nhà Thái miếu. Triều thần dự lễ đó trước rồi mới qua điếu Tư Mã Quang. Triết gia Trình Di (em Trình Hạo), nổi tiếng là nghiêm khắc rất mực, điều khiển tang lễ. Theo tục thì các quan phải tới đứng bên linh cửu khóc lên mấy tiếng. Trình Di yêu cầu các quan đừng khóc, lấy lẽ rằng theo sách Luận ngữ, Đức Thánh Khổng ngày nào đã khóc thì không ca hát;[121] mà các quan hôm đó đã ca hát, hoặc ít nhất đã dự cuộc tấu nhạc ở Thái miếu, thì cũng không được khóc.
Đông Pha cãi:
- Nhưng sách Luận ngữ không chép rằng ngày nào Đức Thánh đã ca hát thì không khóc nữa.
Và mặc lời phản đối của Trình Di, Tô cầm đầu các quan ở triều, vẫn lại bên cạnh linh cữu, làm lễ rồi khóc.
Khi quay ra, Tô ngạc nhiên nhận thấy con trai Tư Mã Quang không đứng đó để đáp lễ. Hỏi ra thì cũng tại Trình Di đã cấm: con mà có hiếu thì khi cha mẹ mất, đau khổ vô cùng, không ăn không uống, đi đứng không nổi, nếu còn đứng đáp lễ các người đến phúng điếu thì chẳng hóa ra vẫn còn khỏe mạnh, nghĩa là không thương xót cha mẹ ư? Trước mặt mọi người, Đông Pha bảo: “Cổ hủ thay thầy đồ này!” Ai nấy đều mỉm cười và Trình Di bẽn lẽn bỏ đi.
Một lát sau, vua Triết Tôn cùng Thái hoàng Thái hậu thân hành tới điếu, cũng đứng khóc bên cạnh linh cữu, tặng cho gia đình Tư Mã thủy ngân và long não để đổ vào quan tài, lại thêm ba ngàn thoi bạc và bốn ngàn tấm lụa.
*
Năm sau, Đông Pha lĩnh thêm chức Thị độc, cứ cách một ngày lại giảng sách cho Triết Tôn nghe.
Trong bốn năm (1086-1089) danh vọng của họ Tô lên đến cực điểm. Hai anh em đều làm quan lớn ở triều: Tử Do lĩnh chức Bí thư tỉnh hiệu lang; Đông Pha tuy không làm tể tướng, nhưng được cả triều trọng vọng. Các bạn bè như Vương Tiễn, Vương Củng, Tôn Giác, Phạm Tổ Vũ... cũng lần lượt được triệu về triều.
Đông Pha vẫn sống đời giản dị, theo phép du già, sáng dậy thật sớm, cưỡi con ngựa trắng vào triều, khoảng 10 giờ bãi triều, về nhà dắt vợ con đi coi các cửa tiệm bán các đồ tơ lụa, quạt, hộp, tranh ảnh, cá, chim, hoặc một mình đi thăm các bạn bè.
Một lần ông lại thăm tể tướng Lữ Đại Phòng. Lữ mập mạp, đương ngủ trưa, Tô phải ngồi đợi lâu, hơi bực mình. Khi Lữ dậy tiếp ông, ông trỏ một con rùa ở trong một cái hồ nhỏ, bảo:
- Có thứ rùa ba cặp mắt, sao ngài không kiếm lấy một con?
Lữ ngây thơ hỏi lại:
- Có loài rùa sáu mắt ư?
- Có chứ. Sử chép một vị thượng thư đời Đường bắt được một con rùa sáu mắt, dâng lên vua, vua hỏi nó quí ở chỗ nào, đáp: nó quí ở chỗ có ba cặp mắt, còn rùa thường chỉ có một cặp. Ngài thử nghĩ, một con rùa sáu mắt ngủ một giấc thì nhất định là bằng ba con rùa thường.
Một lần khác, một thi sĩ vô danh xin yết kiến ông, trình ông một tập thơ, lại đắc ý lấy giọng ngâm lên. Ngâm được ít bài rồi hỏi ông:
- Đại nhân thấy thơ của tiểu sinh ra sao?
- Đáng trăm điểm...
Mặt chàng kia tươi như hoa. Đông Pha nói thêm:
- Bảy chục điềm cho giọng ngâm và ba chục điểm cho thơ.
Văn ông hay, chữ ông tốt, danh ông lớn nên rất nhiều người muốn thu thập bút tích của ông. Một người dặn thư lại của ông, hễ kiếm được miếng giấy nhỏ nào có chữ ông thì sẽ được mười cân thịt. Ông hay chuyện đó.
Một hôm viên thư lại đó trình ông bức thư của một người quen, đọc xong ông trả lời miệng. Một lát sau, viên thư lại trở vào, thưa:
- Ông đó xin đại nhân trả lời cho mấy chữ.
Đông Pha bảo:
- Bảo với bạn của thầy rằng hôm nay không sát sinh nhé.
*
Về Khai Phong, Tô ít có dịp leo núi, thả thuyền như ở Hoàng Châu, nhưng bọn thi sĩ tới đông, ông lại có cái thú khác: chơi với mực. Thi sĩ Trung Hoa thời xưa đều luyện nét bút, và một số như Vương Duy đời Đường còn giỏi về họa nữa; mà họa sĩ Trung Hoa cũng có nét chữ đẹp nếu không biết làm thơ thì cũng thích thơ. Thi, thư (viết chữ) và họa, ba cái đó liên lạc mật thiết với nhau.
Tô Đông Pha cùng với Mễ Phế rất ưa vẽ trúc và sáng lập một lối mới gọi là “thi nhân họa”. Chính Tô đã viết một trăm ba mươi sáu lời bàn về thư pháp, ba mươi ba lời bàn về họa pháp, ba mươi sáu lời bàn về mực và mười tám lời bàn về cây bút. Hoàng Đình Kiên, một thi sĩ nổi danh, tự nhận là môn đệ của Tô, viết trên một trăm lời bàn về thư pháp, và bàn nhiều hơn nữa về họa pháp.[122] Tô, Mễ và Lí (Long Miên) thường họp nhau để vẽ.
Có bức, Tô vẽ núi, Lí vẽ tùng bách, Tử Do hoặc Hoàng Đình Kiên làm thơ đề. Nét bút của Tô cũng rất nhanh, đi một hơi như “nước chảy mây bay”.
Tuy không ưa thái độ cố chấp của anh em họ Trình, Đông Pha cơ hồ chịu ảnh hưởng của Lý học, không phải trong phép xử thế mà trong môn vẽ. Cũng như đa số các họa sĩ khác đời Tống, ông chú trọng tới cái “lí” của bức tranh, nghĩa là cái lí của vật mà ông vẽ. Chẳng hạn vẽ một cảnh rừng thu, thì ghi được màu sắc của lá cây, của trời mây chỉ là việc phụ; việc chính là diễn sao được cái “tinh thần” của thu, cái “vẻ thu”, để cho người coi tranh bất giác cảm thấy muốn khoác thêm cái áo tơi nhẹ rồi dạo cảnh mà hít cái không khí lành lạnh của thu, cảm thấy được khí âm bắt đầu lấn cái khí dương. Hoặc vẽ con cá thì phải làm sao cho người coi bất giác muốn lội, muốn lượn với nó, hoặc quậy lên với nó. Như vậy là diễn được cái “lí” của vật.
Muốn diễn được cái “lí” đó, dĩ nhiên phải nhận xét cho đúng các chi tiết. Một lần một người chơi tranh, phơi tranh ở sân, một mục đồng đi ngang, ngắm nghía một bức vẽ hai con trâu húc nhau, rồi lắc đầu cười: “Vẽ bậy. Trâu húc nhau thì đuôi luôn luôn quặp vào giữa hai chân sau chứ có đâu vểnh lên như vậy.”
Nhưng vẽ đúng chi tiết, chưa phải là diễn được cái “lí”. Vì cái “lí” cảm được mà không nhìn thấy được. Chẳng hạn cái “lí” của con sếu đứng ở trong đầm, khi thấy có bóng người tiến lại, là đã có ý muốn bay đi rồi, mặc dầu chưa có một sợi lông, một bắp thịt nào cử động. Đông Pha rán diễn được cái đó. Môn họa đã hòa hợp với môn triết.
*
Thời nào cũng vậy, muốn giữ được chức “hảo quan” thì phải như Đặng Oản, biết nhẫn nhục “tiếu mạ hoàn tha tiếu mạ”, biết khúm núm vâng vâng dạ dạ, biết giữ gìn lời ăn tiếng nói, phát biểu ý kiến một cách “ba phải”, không làm mất lòng một ai, biết dung dưỡng một bọn tay chân để họ công kênh mình lên và nhất là phải biết nắng chiều nào che chiều ấy.
Đông Pha chỉ có toàn những đức ngược lại: cương trực tới mức mắng vào mặt Trình Di mà thời đó người ta trọng gần như thầy Mạnh, thầy Nhan; lại có óc trào phúng, mỉa mai cả quan tể tướng Lữ Đại Phòng, gọi ông ta là rùa sáu mắt; mà tâm hồn thì nghệ sĩ, thích thơ, thích vẽ, sành cả âm nhạc, giao du toàn với hạng như Mễ Phế, Lý Long Miên, Hoàng Đình Kiên...; như vậy thì làm sao ngồi ở chốn triều đình cho lâu được, nhất là triều đình nhà Tống thời loạn đó.
Tuyên Nhân Hậu tuy nhân từ, có thể công minh nữa, quí Tô lắm, nhưng chắc là không cương quyết, không có chính sách rõ rệt, làm sao có thể làm trọng tài, đối phó nổi với bọn mưu mô xảo quyệt ở triều đình?
Cho nên sau khi Tư Mã Quang chết, ở triều nổi lên ba phái: phái Hà Nam, cũng gọi là phái Lạc, của Trình Di và các nhà Lí học; phái Hà Bắc, cũng gọi phái Sóc, của Lưu Chí, trung lập; và phái Thục, tức phái Tứ Xuyên, của anh em họ Tô. Đường lối ba phái không khác nhau bao nhiêu, đều chống Tân đảng, nhưng họ không phục nhau, có khi khuynh loát nhau nữa. Ngoài ra, các nhân vật quan trọng trong Tân đảng tuy đã bị cách chức, nhưng đàn em của họ vẫn còn ở triều đình, nhất là giữ địa vị khá quan trọng ở các tỉnh, vẫn tìm mọi cơ hội lật đổ cựu đảng để nắm quyền trở lại.
Trong phái Thục, Tử Do là người ít nói mà hoạt động mạnh hơn hết. Mới được về triều, ông ta đã tìm cách loại hết các người trong Tân đảng: Lữ Huệ Khanh, Thái Xác, Thái Kinh, Chương Đôn. Rồi ông lại tấn công phái Sóc, cho rằng họ chỉ là bọn “giá áo túi cơm” có lẽ vì họ trung lập không nhiệt tâm trừ tân đảng như ông. Ông không đả phái Lạc vì trọng tư cách của anh em họ Trình, nhưng chính Trình Di không ưa Đông Pha, cho là ngông nghênh.
Tóm lại, phái Thục ba phía thụ địch, và người ta không tấn công Tử Do mà chỉ tấn công Đông Pha vì Đông Pha hay hớ hênh mà cũng vì ông được Tuyên Nhân Hậu trọng nhất. Người ta lại dùng cái thuật hồi trước: mổ xẻ văn thơ ông để bắt bẻ hoặc vu oan.
Chủ trương của ông gồm ba điểm chính:
1. Mở đường ngôn luận, cho người ta được thẳng thắn chỉ trích chính quyền như Âu Dương Tu, chứ không khép mỏ mọi người như Vương An Thạch. Ông bảo phải noi gương Đường Thái Tôn, có lẽ là ông vua sáng suốt nhất của Trung Hoa, cho mọi người bất kì sang hèn đều được vào triều tâu thẳng với mình về chính sách trị dân, về những nỗi vui khổ của dân.
Trong một kì thi tiến sĩ, ông bảo thí sinh phê bình chính sách quá nhu của Tống Nhân Tôn và chính sách quá cương của Tống Thần Tôn, cả hai đều vô hiệu, rồi hỏi có trung đạo không, có thể nào như Hán Văn Đế khoan mà không loạn và như Hán Tuyên Đế, cương mà không nghiêm khắc không?
Địch thủ của ông nắm ngay lấy cơ hội đó tố cáo ông là bất kính với các tiên đế, dâng biểu lên Thái hoàng Thái hậu hạch tội ông. Ông không đáp, dâng biểu xin được đổi đi tỉnh.
2. Ông đề nghị bỏ phép thanh miêu, và người dân nghèo nàn còn thiếu nợ của triều đình, sẽ được tha cho, khỏi trả cả vốn lẫn lời. Giọng ông rất gay gắt, bảo cho dân vay để lấy lời như vậy tức là ăn cắp của dân. Nhà vua không nghe, chỉ ngưng cho vay mà không xóa nợ cho dân nghèo. Ông dẫn lời Mạnh Tử, bảo như vậy không khác gì kẻ ăn cắp gà, biết mình có lỗi, xin hứa từ nay ăn cắp bớt đi, mỗi tháng một con thôi, rồi sau sẽ chừa hẳn.
Ông nhắc đi nhắc lại mãi điều đó, sáu năm sau, triều đình mới theo đề nghị của ông.
3. Hồi đó, ai đi thi cũng mong để làm quan. Người đỗ đạt thì nhiều mà người được bổ dụng thì ít, một phần vì số nhiệm sở có hạn, một phần vì các ông lớn vận động để được đặc cách khỏi phải thi (mỗi năm có vài ba trăm người như vậy), hậu quả là gây ra nhiều sự bất công, dùng nhiều kẻ bất tài, và mười kẻ làm quan có tới chín kẻ ăn hối lộ để gỡ gạc vốn liếng. Ông vạch tội bọn tham quan che mắt triều đình đó. Một vị võ tướng nọ, khi quân Tây Hạ xâm chiếm biên cương, giết mười ngàn quân mà báo cáo chỉ có mười hai người thiệt mạng! Triều đình phái người tới điều tra rồi vụ đó cũng ỉm đi.
Lại có một vị võ tướng nọ bực mình không diệt nổi bọn cướp trong miền, đổ tội cho dân là dung túng chúng và đem xử tử mấy ngàn dân vô tội; vậy mà được sắc ban khen là anh hùng, có công dẹp loạn.
Bọn địch thủ của ông dâng không biết bao nhiêu sớ tấu chỉ trích ông, Tuyên Nhân Hậu đọc hết, rồi cất đi mà không xử, cũng không cho Đông Pha hay. Đông Pha biết rằng lòng tin của bà đã lung lay, nên xin được đổi tới một nơi xa, giữ một chức nào không bị ai ghen ghét.
Ông khẩn khoản tới nỗi, bốn lần tái bút: T.B, T.T.B, T.T.T.B, T.T.T.T.B. Sau cùng ông được mãn nguyện: tháng ba năm 1089, có sắc phong ông chức Long đồ các học sĩ, thái thú Hàng Châu, coi sáu tỉnh miền đó. Nhà vua tặng ông trà, mấy hộp bằng bạc, một con ngựa trắng. Văn Ngạn Bác, một cựu thượng thư, tám mươi ba tuổi mà còn mạnh, đi tiễn ông, lúc chia tay khuyên ông đừng làm thơ phúng thích nữa, ông đáp: “Thưa vâng, tôi biết rằng bài nào của tôi cũng bị vô số kẻ đem ra bàn tán”.
[108] Theo http://www.tianya.cn/techforum/content/343/1/16962.shtml, người bạn thứ ba, một trăm ba mươi tuổi, là đạo sĩ Kiều Kim 喬今. (Goldfish).
[109] Nguyên văn trong sách, theo tôi là: 寺 僧 使 小 童… (Quantam).
[110] Nguyên văn trong sách thiếu bốn chữ 窾 坎 鏜 鞳 (khoản khảm thang tháp.) (Quantam).
[111] Nguyên văn trong sách thiếu chữ này: 曆 Lịch. (Quantam).
[112] Nguyên văn trong sách thiếu chữ này: 曆 Lịch. Theo Thiều Chửu vì kiên tên vua Cao Tôn nhà Thanh nên chữ 曆 sau viết là 酈. (Quantam).
[113] Nguyên văn trong sách “tiêu đông”, theo tôi là “tiểu đồng”. (Quantam)
[114] Hồ Bành Lãi, núi Thạch Chung đều ở Giang Tây, Thạch Chung có nghĩa là chuông đá.
[115] Lịch Nguyên là người chú thích sách Thủy Kinh. Lí Bột không có tên tuổi.
[116] Ngũ âm là: cung, thương, dốc chủy, vũ, tiếng nam là âm cung, tiếng bắc là âm thương.
[117] Tức năm 1084. Nguyên Phong là niên hiệu Tống Thần Tông.
[118] Vô dịch là tên một cái chuông, có nghĩa là không chán.
[119] Ca chung là tên một cái chuông dùng khi ca hát. Ngụy Hiến tử là tên một vị Đại phu nước Tấn thời cổ.
[120] Khi tới Hoàng Châu, Đông Pha bị giáng xuống chức đó, thất phẩm.
[121] Chương Thuật nhi: Tử ư thị nhật khốc tắc bất ca.
[122] Trong số các thi sĩ lớp trước của ta mà tôi được biết, thì Đông Hồ giữ được tinh thần đó. Những lúc rảnh ông thường luyện nét chữ Hán và vẽ mai. Nét chữ và nét vẽ của ông đều rất tươi và có vẻ phong lưu, thanh nhã.