← Quay lại trang sách

Chương I - 1- TRỜI QUÊ HƯƠNG KHÓI MÙ BAY VIỄN MỘNG-(1061 -1071)

LỜI DẪN

1061-1071, trong khoảng 10 năm này, ông làm quan tại các chỗ: Kiểm phán tại Phượng tường, rồi Giám quan cáo viện tại Sử quán ở Kinh đô, và sau đó xin ngoại nhiệm, được đổi ra Hàng châu vào năm 1071. Những chi tiết về sự vụ làm quan của ông, ở đây chỉ lược đại khái.

Bắt đầu với bài thơ Hoài Cựu. Rồi chúng ta sẽ thấy, Đất Khách luôn luôn phảng phất bóng dáng Quê Hương; trời của quê hương là vang vọng của lịch sử. Sầu cố quận hay tình tha phương là những tiếng ngân dài của lịch sử. Đó là đoạn đầu của một cuộc lịch nghiệm. Thơ được trích do bố trí dự định sẵn, thì những cách điệu khác nhau của chúng chỉ là những sai dị trong bước đi mà thôi. Cái Tình ẩn và cái Tình hiện trong mỗi bài thơ chỉ cùng chung một nỗi. Nỗi đó, tạm thời gói lại trong Trời quê hương khói mù bay viễn mộng ở đây. Gọi là trời quê hương, là muốn nói tới hoài vọng của người khách vừa bước ra đi, từ giã quê hương, cho đoạn đầu của Lữ Thứ. Quê hương qua lớp khói mù, là muốn nói tới hoài vọng trẻ trung, vì quê hương là nơi ngụ ẩn tình của lịch sử. Bay viễn mộng, là đoạn đường Lữ Thứ đã mở ra rồi, nên cuộc lịch nghiệm thoáng hệin những nét đăm chiêu. Cũng có thể lưu ý rằng, những chữ này chỉ dùng theo nghĩa Riêng của đoạn này, để tương xứng với một cuộc Tình Riêng của Thơ

I.

Đồi mai ngơ ngác nụ cười

Cánh hồng là mộng của đời lưu ly

Tồn sinh thấp thoáng nẻo về

Dấu trơ bãi tuyết ngoài tê cánh đồng

Sư già tháp mới hồn không

Tường rêu đổ xuống đâu đồng vọng Thơ

Gập ghềnh năm tháng hay chưa

Đường dài người mỏi gót lừa kêu đau

Năm canh tý (1060), Ông làm chủ bạc tại huyện Phước xương, tỉnh Hà nam. Năm trước, sau khi mãn tang mẹ, Ông và Tử Do theo cha, Lão Tô, dong thuyền Nam du. Thơ văn của hai anh em được gói thành "Nam hành tập". Đó là những bài thơ của tuổi trẻ; người ta nói như vậy. Hồn thơ bộc phát tự nhiên, như cánh chim hồng đang ước hẹn với trời cao. Trong con mắt của người đời, cái cảnh giang sơn thanh kỳ tú lệ đã tô điểm cho phong cách tự phụ của thời niên thiếu:

Giang sơn dưỡng hào tuấn

Lễ số khốn anh hùng

Chấp bản nghinh quan trưởng

Xu trần bái hạ phong

Cốt cách đó chưa hiện rõ những nét cuồng ngạo. Sóng Trường giang vẫn ào ạt mùa nước lũ trong từng năm một; nhưng lịch sử vẫn mãi triền miên bất động trải dài thành hai bờ bến. Hồn thơ sẽ đến để mở cánh cửa trời, và rồi sẽ khép lại thành một cõi của từ sinh trường mộng. Lúc nào mở, và lúc nào đóng? Con chim trên rừng đốt tổ bay đi, cuộc Lữ không tính được khoảng đầu và khoảng cuối.

Trên con đường của những ngày tháng đầu tiên từ giã quê hương, thơ Ông đồng vọng tiếng hát này:

Đài thượng hữu khách ngâm thu phong

Bi thanh tiêu tán phiêu nhập cung

Đài biên du nữ lai thiết thính

Dục học thanh đồng ý bất đồng

Quân bi cánh hà sự?

.....

Trên gò cao, khách đứng hát với ngọn gió mùa thu. Âm hưởng trầm buồn hững hờ bay vào khung cửa kín. Bên gò có nàng du nữ đến nghe lén. Muốn học tiếng hát đó, nhưng chỉ có thể cùng âm vang mà không thể cùng đồng vọng. Thế thì, ngài buồn chuyện gì nhỉ?

Gió thu rồi cũng sẽ tới lúc thổi lên tóc trắng. Và cánh chim hồng rồi cũng sẽ để lại dấu vết trên bãi tuyết trắng... Ngẫu nhiên:

HOÀI CỪU

Nhân sinh đáo xứ tri hà tợ

Ưng tợ phi hồng đạp tuyết nê

Nê thượng ngẫu nhiên lưu chỉ trảo

Hồng phi na phục kế đông tây

Lão tăng dĩ tử thành thân tháp

Hoại bích vô do kiến cựu đề

Vãng nhật kỳ khu hoàn ký phủ

Lộ trường nhân khốn kiển lô tê

懷舊

人生到處知何似

應似 飛 鴻踏雪泥

泥上偶然留指爪

鴻飛那計東西

老僧已死成新塔

壞壁無由見舊題

往日崎嶇還記否

路長人困蹇驢嘶

Bài thơ của Ông được trích ở đây, nó là một tình tự trẻ trung; cái tình hoài cựu chưa đượm mùi sương gió. Mãi về sau, thơ và từ của Ông vẫn còn âm hưởng đồng vọng của một cánh chim hồng, lẻ loi và cao vút. Dù là tung cánh trong bình minh hay giữa nắng quái, nguồn thơ đó càng lúc càng ngời sáng phong vận cuồng ngạo và phóng dật. Bắt được tiết điệu của bài thơ, và thấy ra phong vận của nó, thì cái dòng thơ triền miên bất tuyệt của Ông cũng được thấy ra từ đó.

Cuộc nhân sinh, rồi đây biết nó sẽ như thế nào? Có lẽ, nên coi như một cánh chim hồng dẫm chân lên bãi tuyết. Ngẫu nhiên mà trên bãi tuyết đó còn in nguyên vẹn những vết chân của cánh hồng. Cánh hồng sẽ bay bổng mù khơi, còn kể gì đến những dấu chân kia.

Sư già vừa chết, ngôi tháp mới cũng vừa được dựng lên. Tường rêu đã đổ xuống, không tìm đâu ra những bài thơ đề trên đó nữa. Một ngày qua, đường đời gập ghềnh, có biết chưa? Đường thì dài, người thì mỏi, con lừa khấp khiểng kêu đau.

2.

THẠCH TỊ THÀNH

Bình thời chiến quốc kim hà tại

Mạch thượng chinh nhân tự bất nhàn

Bắc khách sơ lai thí tân hiểm

Thục nhân tùng thử tống tàn sơn

Độc xuyên ám nguyệt mông lung lý

Sầu độ bôn hà thương mang gian

Tiệm nhập tây nam phong cảnh biến

Đạo biên tu trúc thuỷ sàn sàn

石鼻城

平时战国今无在,

陌上征夫自不闲。

北客初来试新险,

蜀人从此送残山。

独 穿暗月朦胧里,

愁渡奔河苍茫间。

渐入西南风景变,

道边修竹水潺潺

Thạch tị thành, không rõ địa danh này. Hoặc giả là núi Thạch thành; phía đông nam, huyện Tín dương, tỉnh Hà nam có một ngọn; phía tây huyện Nghi tân, tỉnh Tứ Xuyên, thấy một ngọn; đông bắc huyện Thiệu hưng, tỉnh Triết giang, một ngọn. Trong thơ có nói Thục nhân, tức người đất Thục, tỉnh Tứ xuyên ngày nay. Quê Ông, huyện My Sơn, cũng ở trong vùng này. Thơ cũng nói Bắc khách, người khách từ phương bắc đến; tất nhiên chỉ cho Ông. Có lẽ bấy giờ Ông từ Kinh đô về tại vùng này.

Năm tân sửu (1061), từ Hà nam, Ông được triệu về Kinh, rồi được bổ làm Kiểm phán phủ Phượng tường, trong hạt Tứ xuyên. Đến năm bính ngọ (1066), 5 năm sau đó, Lão Tô mất. Ông về quê chôn cha. Vậy, bài thơ được làm trong khoảng thời gian này, từ 26 đến 31 tuổi.

Bấy giờ Ông còn trẻ, lời thơ sảng hoạt mà thanh thiết. Đó cũng là bản sắc độc đáo trong tiết điệu thơ của Ông. Hai câu 3-4, ngụ những ẩn tình nồng hậu, thắm thiết.

Thi tân hiểm, thưởng thức cảnh lạ giữa những ngọn đá cheo leo; ứng với 4 chữ "Bắc khách sơ lai" ở trước, và đối với 3 chữ "tống tàn sơn" ở câu dưới. Ứng và đối trong một bút pháp tuyệt vời, nói được cái tình tự đậm đà của khách phương xa đến và đi, cùng tấm lòng đón và đưa của những gì ở đó.

Tống tàn sơn, đưa tiễn ngọn núi tàn, ngọn núi trơ vơ. Thơ Đỗ Phủ có những câu:

Thặng thủy thương giang phá

Tân sơn kiệt thạch khai

Nước lũ sông đầy vỡ

Non trơ đá chởm lên

Thặng thủy tàn sơn tả cảnh núi non không tề chỉnh; núi thì thấp xuống, nước thì tràn ra, chẳng hạn

Dấu vết của một thời chiến quốc không thấy đâu đây nữa; nhưng người rong ruổi trên con đường qua đó vẫn còn phải bươn bả.

Khách phương bắc mới tới, đã tìm đến thưởng thức các lạ giữa những ngọn đá cheo leo;

Và từ đó, người đất Thục ở đó sẽ hằng ngày đưa tiễn những ngọn núi trơ vơ kia.

Khi thì một mình len lỏi qua con trăng mờ trong cảnh mông lung. Khi thì ngậm ngùi vượt qua dòng sông chảy xiết giữa nước xanh mênh mang.

Càng về phía tây nam, phong cảnh càng thay đổi dần.

Ở đó, hai bên đường có những hàng tre thẳng tắp và những con nước dật dờ.