- 2 -
3.
Đá mòn phơi nẻo tà dương
Nằm nghe nước lũ khóc chừng Cuộc Chơi
Nghìn năm vang một nỗi đời
Gió đưa cuộc Lữ lên lời Viễn phương
Đan sa rã mộng Phi thường
Đào tiên trụi lá bên đường Từ Sinh
Đồng hoang Mục tử Chung tình
Đăm chiêu dư ảnh nóc đình Hạc khô
Tâm tình Hoài vọng của Lữ khách y nhiên là tâm nguyện chí thành được khơi dậy từ những bước đường ngược gió. Con đường của Lịch sử, của dòng sông trôi xuôi, và trôi ào ạt như nước lũ, cuốn trôi tất cả những giấc mộng bình sinh. Đó là lịch sử của tử sinh trường mộng. Trong cõi mộng đó, trên bước đường ngược gió của Lữ khách đó, nắng hiu hắt trổi màu trầm tư tịch mặc giữa những tàn lụi, hoang phế, và băng hoại; là sự chung cục của tất cả trong sự hủy diệt nồng nàn. Hơi thở mòn mỏi tiêu pha; Người đã lãng phí trọn vẹn tinh thể của Người, để cho Thiên nhiên bày tỏ ân tình trơ trọi, như viên sỏi bên đường lây lất với nắng và với gió. Nắng lên cùng với dấu hiệu của hao mòn và sụp đổ. Gió lên cùng với những ước nguyện thiên thu phảng phất ra ngoài khung trời Hoằng viễn và Tịch nhiên. Mộng Phi thuờng được ký thác trong đan sa, trong dấu hiệu của trường sinh bất tử; nhưng đường Sinh tử đi trong cõi Hoằng viễn Tịch nhiên, ấy thế mà không bao giờ dừng bước cho Lữ khách một lần ngụ cư ở đó. Sống và chết vẫn như một nỗi đời hư huyễn, vẫn rầm rộ như một cuộc chơi. Giữa khoảng đồng rộng, đồng trống, đồng không mông quạnh, Mục tử đăm chiêu tư lự những chuyện đường đời và Lịch sử qua bóng dáng con Hạc gầy; rồi tự hỏi: đâu là cõi Mộng Thiên Thu?
*
* *
Năm đó, tân sửu (1061), ông 26 tuổi, làm kiểm phán tại phủ Phượng tường. Trong bài ký viết cho "Phượng tường bát quan thi", những bài thơ về tám chỗ Ông đến thăm viếng tại phủ Phượng tường, Ông, viết: "Phượng tường nằm nơi chỗ giao tiếp của đất Tần và Yhục; các bậc sĩ đại phu, sớm chiều thường qua lại đó". Và đoạn trước của bài ký, Ông viết: "Đấy là buồn cho đời, cảm khái cho tục, và tự thương mình đã không thấy được người xưa mà lại muốn một lần xem thấy những di tích của họ." Cái ý đó, được thấy hiện rõ nơi bài thơ dưới đây:
LÂU QUÁN
Môn tiền cổ kiệt ngọa tà dương
Duyệt thế như lưu sự khả thương
Trường hữu u nhân bi Tấn Huệ[1]
Cưỡng tu di miếu học Tần Hoàng[2]
Đan sa [3]cửu diếu tỉnh thủy xích
Bạch truật thùy triêu trù táo hương
Văn đạo thần tiên diệc tương quá
Chỉ nghi điền tẩu thị Canh Tang[4]
摟 觀
門 前 古 碣 臥 斜 陽
閲 世如流事可傷
長有幽人悲晉惠
強修遺廟學秦皇
丹砂久窖井水赤
白朮 誰 燒 廚 灶香
聞道神仙亦相過
只疑田叟是庚 桑
Lâu quán, gác của đạo sĩ, tại phủ Phượng tường. Ông tự viết lời dẫn: "Tần Thủy Hàng lập miếu Lão tử phía nam của quán. Tấn Huệ đế mới sửa lại quán này"
Ngọa tà dương; "Môn tiền cổ kiệt ngọa tà dương", trước cửa quán, hòn đá chởm nằm trơ trong nắng chiều. Có thể cùng bắt gặp một cảm hứng như vậy trong một bài từ của Ông, làm theo điệu từ "Hoán khê sa" (Toàn mạt hồng trang khán sứ quân), câu kết như vầy:
Đạo phùng túy tẩu ngọa tà dương
Giữa đường, người ta gặp ông cụ say năm trơ giữa nắng chiều. Có lẽ đó là cảnh khi ông bị đày ra ở Hải Nam. Lúc đó đã già lắm rồi. Một già, một trẻ, cùng một quãng đời chìm nổi, cách xa nhau, mà vẫn cùng một tiết điệu, một cảm hứng, một phong vận tài hoa kỳ lạ, giữa những mòn mỏi tiêu dao của tuế nguyệt:
Đá mòn phơi nẻo tà dương.
Nằm nghe nước lũ khóc chừng cuộc chơi
Trước cửa quán, hòn đá chởm nằm trơ trong nắng chiều.
Ngắm sự đời, như nước chảy, trôi đi và đi mất, thấy mà đau.
Cho đến nay vẫn còn có người không thiết sự đời -- tức Ông -- ngậm ngùi cho Tấn Huệ đế -- mộng trường sinh hóa thành bất đắc kỳ tử. Cũng có người vẫn còn bắt chước Tần Thủy Hoàng, gượng sửa lại cái miếu hoang.
Đan sa ngày đó luyện thuật trường sinh, nay không dùng nữa, chìm dưới giếng, làm đỏ cả nước giếng.
Bạch truật ngày đó, nay thấy có người lấy làm nhang đốt trong bếp.
Nghe đâu thần tiên cũng thường có giao thiệp với người đời. Vậy có lẽ cụ già cày ruộng kia chắc là lão tiên Canh Tang Sở.
4.
VI TUYẾT HOÀI TỬ DO
(I)
Kỳ dương [5]cửu nguyệt thiên vi tuyết
Dĩ tác tiêu điều tuế mộ tâm
Đoản nhật tống hàn châm xử cấp
Lãnh quan vô sự ốc lô thâm[6]
Sầu trường biệt hậu năng tiêu tửu
Bạch phát thu lai dĩ thượng trâm
Cận mãi điêu cừu[7] kham xuất tái
Hốt tứ thặng truyền vấn tây sâm
(2)
Giang thượng đồng [8]chu thi mãn hiệp
Trịnh tây phân mã [9]thế thùy ưng
Vị thành báo quốc tàm thơ kiếm
Khởi bất hoài qui úy hữu bằng
Quan xá độ thu kinh tuế vãn
Tự lậu kiến tuyết dữ thùy đăng
Diêu tri độc Dịch đông song[10] hạ
Xa mã xao môn định bất ưng
微雪怀子由
(1)
岐阳九月天微雪,
已作萧条岁暮心。
短日送寒砧杵急,
冷官无事屋庐深。
愁肠别后能消酒,
白发秋来已上簪。
近买貂裘堪出塞,
忽思乘传问西琛。
(2)
江上同舟诗满箧,
郑西分马涕垂膺。
未成报国惭书剑,
岂不怀归畏友朋。
官舍度秋惊岁晚,
寺楼见雪与谁登。
遥知读《易》东窗下,
车马敲门定不应。
Bây giờ là năm nhâm dần (1060), Ông 27 tuổi, làm một chức quan nhỏ tại phủ Phượng Tường. Chức quan Ông nhỏ, mà tài Ông cao, chí Ông lớn. Cho nên, người đời nói, trong hai bài thơ này, tình tự Ông ẩn hiện những uẩn khúc, cũng khá kỳ lạ. Đó là tâm sự của tuổi già với cái tuổi 27, thấy trong bài 1, các câu: từ 2-5; nhưng vẫn là phong vận trẻ trung, thấy được nơi bài 1 trong câu 6. Bài 2 mới thật sự tỏ rõ cái cao ngao và thị tài của tuổi trẻ.
Tháng 11 năm trước, Ông chia tay Tử Do ở Trịnh Châu (thuộc tỉnh Hà Nam) để đi Phượng Tường; lúc chia tai ngoài cửa Tây, ngồi trên ngựa, Ông làm thơ gởi lại Tử Do, với 4 câu cuối:
Hàn đặng tương đối ký trù tích
Dạ vũ hà thời thinh tiêu sắt
Quân tri thử ý bất khả vong
Thận vật khổ ái cao quan chức.
Đại khái, hai anh em cùng đang ngồi dưới ngọn đèn mờ nhạt mà tính nhẩm, biết bao giờ cùng ngồi nghe mưa đêm tiêu sắt? và Ông dặn em đừng bao giờ quen ý đó, nên đừng bươn bả đuổi theo chức quan cao.
Tháng 9, tại huyện Kỳ Dương, trời đổ tuyết nhẹ;
Cũng đủ làm cho tâm tình trong cảnh năm già trở nên vẻ xơ xác.
Ngày vắng, tiếng chày xua đuổi cái lạnh nghe như vội vã.
Viên quan nhỏ, không việc gì, ngồi trong nhà tranh hun hút
Gan ruột sầu héo có thể làm tiêu tan được rượu,
Tóc trắng, mùa thu tới, đã thấy như cài trâm.
Vừa mới bán chiếc áo lạnh lông điêu, nên không dám đi chơi xa.
Bỗng nghĩ đến việc ruỗi xe đi tìm cái lạnh.
Năm xưa, hai anh em cùng dong thuyền, xách theo những túi thơ đầy
Năm ngoái, chia tay nhau rẽ ngựa ngoài cửa tây Trịnh Châu, nước mắt ướt đẫm ngực.
Chưa làm nên sự nghiệp với đời nên thẹn cùng sách và kiếm.
Há không mong trở về; nhưng về lúc này hẳn là ngại với bạn bè.
Nhà quan qua mùa thu, kinh sợ cho năm đã quá xế
Trên nóc chùa đã đầy tuyết, nhưng không biết rủ ai cùng lên đó.
Tưởng chừng em hẳn ngồi đọc kinh Dịch bên cửa sổ mái tây.
Lúc đó, dù xe ngựa có đến gõ cửa, hẳn là không đáp lại.