← Quay lại trang sách

- 4 - -

7.

Mùa đông chí, cháu ông, An Tiết đến thăm. Ông ra Hoàng châu đến bây giờ đã gần hai năm. Tình cố quận, tình tha hương, cả hai đền mặn mà. Tuổi ông lúc đó gần tròn 46, mà đầu đã bạc. Mùa thu, tóc trắng, đâu đâu cũng đồng vọng âm hưởng tịch liêu. Một già một trẻ, nơi đồi núi xa xăm, sự đời như sóng nước Trường Giang; tháng 9 đã bắt đầu mùa nước lũ; cuối đông, sương mù kéo dày trùng điệp. Cái nồng nàn, thắm thiết của hồn thơ, biết đâu là cùng tận? Con chuột đói lần ra trong những đêm vắng. Tạo vật vốn dĩ vô tình, nhưng tuế nguyệt la đà, mây trời chìm nổi; thì trên những triền núi cheo leo, có khi cũng có thể nghe được tiếng đồng vọng mơ hồ của đêm dài heo hút. Đồng vọng đó cũng có thể thấy ở chỗ “năm tháng cheo leo”, hay năm tháng trơ vơ. Nắng buổi chiều trợt dốc dài trên sườn núi, ruỗi dài giữa cô quạnh mông lung. Cái đó như là tâm sự được ký thác bên kia bờ viễn mộng; tâm sự riêng biệt của năm tháng, hay của cánh chim hồng, bay ngang qua dòng thác thời gian đổ xuống ào ạt?

I

Nam lai bất giác tuế tranh vanh

Tọa bát hàn hôi thính vũ thanh

Già nhãn văn thơ nguyên bất độc

Bạn nhân đặng hỏa diệc đa tình

Ta dư lạo đạo vô qui nhật

Linh nhữ ta đà dĩ bán sanh

Miễn sử Hàn công bi thế sự

bạch đầu hoàn đối đoản đăng khanh[1]

I

Tâm suy diện cải sấu tranh vanh

Tương kiến duy ưng thức cựu thanh

Vĩnh dạ tư gia tại hà xư

Tàn niên tri nhữ viễn lai tình

Úy nhân mặc tọa thành si độn

Vấn cựu kinh hô bán tử sanh

Mộng đoạn tửu thinh thu vũ tuyệt

Tiếu khan cơ thử thượng đăng khanh

南来不觉岁峥嵘

坐拨寒灰听雨聲

遮眼文书元不讀

伴人燈火亦多情

嗟余潦倒無歸日

今汝跎已半生。

免使韩公悲世事

白頭遑對短燈檠

心衰面改瘦峥嵘

相見惟應識舊聲

永夜思家在何處

残年知汝遠来情。

畏人默坐成痴钝

問舊驚呼半死生

梦断酒醒山雨絕

笑看饑鼠上橙檠。

(I)

Từ sang nam, bỗng chốc năm đã chầy heo hút,

Giữa đêm dài ngồi khơi tro lạnh nghe mưa rơi

Tay che mắt, thơ văn nguyên chẳng đọc,

Bên bóng đèn ánh lửa ấm tình người

Ta lận đận mấy năm trường lưu lạc,

Cháu bon chen bươn bả nửa đời rồi.

Thế sự đó ông Hàn xưa khỏi khóc,

Đèn vắn chân tóc trắng vẫn chưa thay.

(II)

Tâm suy mặt đổi gầy hốc hác,

Gặp nhau qua giọng cũ mà thôi

Quê hương xa đồng vọng đêm dài

Cháu lặn lội sưởi tình năm tháng lại

Ngồi lặng tiếng bởi sợ người nên ngây dại,

Bạn bè xưa sống chết nghĩ mà kinh

Rượu tỉnh mơ tàn mưa đã dứt

Cười xem chuột đói leo chân đèn

8

I

Cơ nhân hốt mộng phạn tắng dật

Mộng trung nhất bão bách ưu thất

Chỉ tri mộng phạn bản lai không

Vị ngộ chân cơ thị hà vật

Ngã sinh vô điền thực phá nghiễn

Nhĩ lai nghiển khô ma bất xuất

Khứ niên thái tuế không tại dậu

Bàng xá hồ tương bất dụng khất

Kim niên hạn tuế phục như thử

Tuế vãn hà dĩ kiềm ngô đột

Thanh thiên đãng đãng hô bất văn

Huống dục khê thủ hào nê Phật

Úng trung tích dịch vưu khả tiếu

Kỳ kỳ mạch mạch hà đẳng trật

Âm dương hữu thì vũ hữu số

Dân thị thiên dân thiên tự tuất

Ngã tuy cùng khổ bất như nhân

Yếu diệc tự thị dân chi nhất

Hình dung tuy thị táng gia cẩu

Vị khẳng nhị nhĩ tranh đầu cốt

Đảo quán lạc trách tạ bằng hữu

Độc dữ văn lôi cọng khuê tất.

Cố nhân sân ngã bất khai môn

Quân thị ngã môn thùy khẳng khuất

Khả liên minh nguyệt như bát thủy

Dạ bán thanh quang phiên ngã thất

Phong tùng nam lai phi vũ hầu

Thả vị bì nhân tẩy chưng uất

Khiên thường nhất họa khoái tai dao

Vị hạ cơ hàn niệm minh nhật

飢 人 忽 夢 飯 甑 溢 ,

夢 中 一 飽 百 憂 失 。

只 知 夢 飽 本 來 空 ,

未 悟 真 飢 定 何 物 。

我 生 無 田 食 破 硯 ,

爾 來 硯 枯 磨 不 出 。

去 年 太 歲 空 在 酉 ,

傍 舍 壺 漿 不 容 乞 。

今 年 旱 勢 復 如 此 ,

歲 晚 何 以 黔 吾 突 。

青 天 蕩 蕩 呼 不 聞 ,

況 欲 稽 首 號 泥 佛 。

甕 中 蜥 蜴 尤 可 笑 ,

跂 跂 脈 脈 何 等 秩 。

陰 陽 有 時 雨 有 數 ,

民 是 天 民 天 自 卹 。

我 雖 窮 苦 不 如 人 ,

要 亦 自 是 民 之 一 。

形 容 可 似 喪 家 狗 ,

未 肯 聑 耳 爭 投 骨 。

倒 冠 落 幘 謝 朋 友 ,

獨 與 蚊 雷 共 圭 蓽 。

故 人 嗔 我 不 開 門 ,

君 視 我 門 誰 肯 屈 。

可 憐 明 月 如 潑 水 ,

夜 半 清 光 翻 我 室 。

風 從 南 來 非 雨 候 ,

且 為 疲 人 洗 蒸 鬱 。

褰 裳 一 和 快 哉 謠 ,

未 暇 飢 寒 念 明 日 。

II

Khứ niên đông pha thập ngỏa lịch

Tự chủng hoàng tang tam bách xích

Kim niên ngải thảo cái tuyết đường

Nhật chích phong xuy diện như mặc

Bình sinh lại đọa kim thủy hối

Lão đại cần nông thiên sở trực

Phái nhiên lệ tứ tam xích vũ

Tạo hóa vô tâm hoảng nan trắc

Tứ phương thượng hạ đồng nhất vân

Cam chú bất vi long sở cách

Bồng cao hạ thấp nghinh hiểu lỗi

Đăng hỏa tân lương thôi dạ chức

Lão phu tác bãi đắc cam tẩm

Ngọa thính tường đông nhân hưởng kịch

Bôn lưu vị dĩ khanh cốc bình

Chiết vi khô hà tứ phiêu nịch

Hủ nho thô lệ chi bách niên

Lực canh bất thọ chúng mục liên

Pha pha lậu thủy bất nại hạn

Nhân lực vị chí cầu thiên toàn

Hội đương tác đường kính thiên bộ

Hoành đoạn tây bắc già sơn tuyền

Tứ lân tương suất trợ cử xử

Nhân nhân tri ngã nang vô tiền

Minh niên cọng khan quyết cừ vũ

Cơ bão tại ngã ninh quan thiên

Thùy năng bạn ngã điền gian ẩm

Túy đảo duy hưu chi đầu chuyên

去 年 東 坡 拾 瓦 礫 ,

自 種 黃 桑 三 百 尺 。

今 年 刈 草 蓋 雪 堂 ,

日 炙 風 吹 面 如 墨 。

平 生 懶 惰 今 始 悔 ,

老 大 勸 農 天 所 直 。

沛 然 例 賜 三 尺 雨 ,

造 物 無 心 怳 難 測 。

四 方 上 下 同 一 雲 ,

甘 霪 不 為 龍 所 隔 。

蓬 蒿 下 濕 迎 曉 耒 ,

燈 火 新 涼 催 夜 織 。

老 夫 作 罷 得 甘 寢 ,

臥 聽 牆 東 人 響 屐 。

奔 流 未 已 坑 谷 平 ,

折 葦 枯 荷 恣 漂 溺 。

腐 儒 麤 糲 支 百 年 ,

力 耕 不 受 眾 目 憐 。

破 陂 漏 水 不 耐 旱 ,

人 力 未 至 求 天 全 。

會 當 作 塘 徑 千 步 ,

橫 斷 西 北 遮 山 泉 。

四 鄰 相 率 助 舉 杵 ,

人 人 知 我 囊 無 錢 。

明 年 共 看 決 渠 雨 ,

飢 飽 在 我 寧 關 天 。

誰 能 伴 我 田 間 飲 ,

醉 倒 惟 有 支 頭 磚 。

III

Thiên công hiệu lệnh tái bất xuất

Thập nhật sầu lâm tính vi nhất

Quân gia hữu điền thủy mạo điện

Ngã gia vô điền ưu nhập thất

Bất như Tây châu Dương đạo sĩ

Vạn lý tùy thân duy lưỡng tất

Duyên lưu bất ố tố diệc giai

Nhất diệp biển chu nhiệm phong đột

Sơn khung mạch khúc đô bất dụng

Nê hành lộ túc chung vô tật

Dạ lai cơ trường như chuyển lôi

Lữ sầu phi tửu bất khả khai

Dương sinh tự ngôn thức âm luật

Động tiêu nhập thủ thanh thả ai

Bất tu cánh đãi thu tỉnh sáp

Kiến nhân bạch cốt phương hàm bôi

公号令再不出,

十日愁霖併為一。

君家有田水冒田,

我家無田憂入室。

不如西州杨道士,

萬里随身惟两膝。

沿流不恶惡斥亦佳,

一葉扁舟任風突。

山芎麦麴都不用,

泥行露宿终無疾。

夜來飢腸如轉雷,

旅愁非酒不可開。

杨生自言識音律,

洞蕭入手清且哀。

不须更待秋井塌,

见人白骨方衔杯。

Ba bài họa thơ của Không Nghị Phủ. Thơ họa vần, nhưng cốt cách không phải là họa. Không chỉ tài tình, mà còn tài hoa nữa. Giọng khinh bạc, thì cao vòi vọi. Giọng cay đắng, thì cay cùng cực. Giọng nồng nàn, giọng giận dữ. Trong một cảm tình, Đó há không là những phương trời viễn mộng, trong cùng một lúc, bỗng đột ngột hiện về? Ban đầu ông nói sử tình nắng hạn và cảnh khó của ông. Rồi bất chợt lời thơ như phẫn nộ, có thể thấy những chỗ ông gằn giọng, Cuối cùng là giọng thơ trở nên điềm đạm, và đến lúc chấm dựt thì ngậm ngùi: rượu nồng cho tình người nồng nàn trong một cõi nhân sinh, và xương trắng lạnh lùng với đất cho lịch sử trở thành những lời vĩnh tịch

Nắng hạn cùng cực, mưa gió cùng cực; mọi cái hiện ra trong sự cùng cực sôi động. Lời thơ có phẫn nộ, có phóng dật, mang tất cả phong vận tài hoa sôi động, nhưng phảng phất một cõi trầm lặng tịch liêu; một viên đá nhỏ nằm giữa ngã ba đường, trong cảnh tượng náo nhiệt. Hồn thơ tỏa ra từ đó, bao trùm cả một cõi thơ bát ngát. Đá cuội say sưa nghiêng ngửa, và xương trắng lạnh lùng không nói: đâu là trời thơ? Đó là dấu lặng trong một bản đại hòa tấu. Không nên nghe một cách khinh suất.

Dịch nghĩa

(Các bài này vạn nhất đừng cố dịch theo vần điệu. Người đọc dù không biết một tí chữ Hán. Trời thơ sẽ đến bất ngờ. Mai sau xương trắng cửa mình nín lặng dưới lòng đất, nhưng đá cuội bên đường sẽ nghe ra hế, và gật đầu trong sự tình giao ứng.)

I

Người đói bỗng nằm mộng thấy bát cơm đầy;

Một bữa no trong cơn mộng mà một trăm nỗi ưu phiền tiêu tất cả

Chỉ biết rằng cái no trong mộng bản lai là không.

Chứ chưa tỏ ngộ được cái đói thực sự là cái gì.

Tôi sinh ra không có ruộng, kiếm ăn bằng nghiên mực mẻ;

Từ lâu nghiên mực đã khô, mài không ra

Năm ngoái sao Thái tuế nằm trơ tại dậu,

Nhà bên cạnh, một lọ tương cũng không chịu xin.

Mà năm nay, cái thế hạn lại như vậy.

Cuối năm, lấy gì nấu cho đen ống khói nhà tôi?

Trời xanh vòi vọi, kêu không thấu.

Còn lại muốn cúi đầu réo Phật đất nữa ư?

Con thằn lằn trong vò lại đáng nực cười

Bò tới bò lui lịch kịch, chẳng ra đầu đuôi gì cả.

Âm dương có thời, mưa gió có số

Dân là dân của trời, trời phải thương;

Tôi tuy cùng khổ, chẳng hơn được ai,

Nhưng cũng là một người trong đám dân đó.

Hình dung tuy như con chó nhà ma,

Nhưng chưa chịu vểnh tai dành cái mẩu xương vứt ra đó.

Bứt giải, lột mũ, tạ bạn bè,

Một mình cùng với lũ ruồi, chúng kêu vo vo như sấm, bu lại trên đám hành.

Bạn bè giận tôi không mở cửa

Nhưng ngài thử coi, ai khứng nghiêng mình trước cửa nhà tôi?

Chỉ thương tình trăng ngây thơ tuôn ánh sáng như nước xối,

Nửa đêm đổ ánh sáng mát lọt vào nhà ta,

Gió từ nam thổi tới, chưa phải là lúc có mưa

Nhưng cũng vì cái người mệt mỏi mà rửa sách những nực nội ấm ức trong lòng

Vén tay áo đáp lại bằng một bài dao: rằng sướng thay!

Nhưng chưa một thoáng, lại nghĩ tới chuyện đói no ngày mai.

II

Năm ngoái, dọn gạch ngói tại đông pha,

Tự trồng dâu trong ba trăm thước đất.

Năm này cắt cỏ lợp nhà tuyết

Nắng rám, gió thổi, mặt đen như mực.

Bình sinh biếng nhác, nay mới hối.

Già nua mà chăm chỉ làm ruộng, nên trời thương,

Chiếu lệ đổ mưa rầm rầm, cao ba thước.

Tạo hóa vô tâm, mù mờ khó lường nổi.

Mây cả một vùng, khắp bốn phía, từ trên đến dưới;

Đổ mưa dầm không ngớt, không cho rồng nghỉ ngơi.

Sớm mai, lau sậy dưới đất trùng đã đón lưỡi cày.

Đèn lửa sáng tươi trở lại, thúc giục người ta dệt vải ban đêm.

Lão phu làm ruộng xong được một giấc ngon;

Nằm nghe bên tường đông có người khua tiếng guốc.

Nước chảy chưa bao lâu, hầm hố đầy cả.

Lau gãy, sen héo, mặc tình chìm nổi.

Hủ nho giã gạo thô tưởng chừng một trăm năm chưa chắc xong;

Ra sức cày, mà cày không nổi, con mắt mọi người trông thấy mà thương.

Bờ ruộng vỡ, nước chảy tràn vào, bất kể trời hạn.

Sức người chưa ra hết sực, lại phải cầu trời làm trọn cho, mới mong!

Lại phải đào ao, dài một nghìn bộ,

Nằm ngang cắt đôi tây bắc, cản suối trên đổ xuống.

Hàng xóm kéo nhau đến giúp tay, nhắc hộ cái chày!

Ai ai cũng biết túi tôi không mống tiền.

Sang năm rồi coi, mưa sẽ làm vỡ con kênh đó!

Đói no tại ta, mắc chi đến trời?

Ai có thể ngồi uống rượu với ta giữa ruộng?

Đó là viên sỏi đầu ngã ba, nó đã say nghiêng ngửa.

IV

Ông trời không ban hiệu lệnh mưa nữa.

Mưa một lần suốt luôn mười hôm, dầm dề ủ dột.

Nhà bác có ruộng, nước tuôn ngập ruộng

Nhà tôi không ruộng lại lo nước tràn lên thềm.

Chẳng bằng như Tây Châu Dương đạo sĩ,

Đi hàng vạn dăm, chỉ theo mình hai cái đầu gối.

Xuôi dòng không ghét, ngược dòng cũng tốt

Một mảng thuyền, mặc tình trôi.

Cỏ thuốc rừng, rượu bếp tẻ, đều không cần.

Lội bùn, ngủ sương, không vội vã;

Nhưng đêm đến, bụng đói, kêu như sấm

Thì cái sầu cô lữ, không rượu, làm sao nguôi?

Lão Dương tự cho giỏi âm luật,

Đưa sáo vào tay, tiếng nghe trong mà buồn.

Khỏi đợi giếng mùa thu vỡ nước

Thấy người xương trắng mới ngậm chén.

[1] Đoản đăng khanh, chân đèn vắng, trong m ột b ài th ơ c ủa H àn Dũ. Đại khái: chân đèn dài, tám thước, chỉ để mà dài; chân đèn vắn, hai thước, vừa tiện lại vừa sáng, Anh học trò lúc 20 tuổi, giã nhà đi lập danh phận. Đêm đêm chong đèn ngồi đọc sách trước cây đèn chân vắn. Rồi sau giàu sang, chong đèn chân dài cho đẹp nhà đẹp cửa. Cây đèn chân vắn bị bỏ rơi, nằm buồn câm nín tại một góc tường