← Quay lại trang sách

- 3 - -

5

Buổi sáng, đến Ba hà khẩu đón Tử Do:

Khứ niên ngự sử phủ

Cử động xúc tứ bích

U u bách xích tỉnh

Ngưỡng thiên vô nhất tịch

Cách tường văn ca hô

Tự hận kế chi thất

Lưu thi bất nhẫn tả

Khổ lệ tí chỉ bút

Dư sinh phục hà hạnh

Vinh sự hữu kim nhật

Giang lưu kính diện tĩnh

Yên vũ khinh mạc mạc

Cô chu như phù ế

Điểm phá thiên khoảnh bích

Văn quân tại Từ hồ

Dục kiến cách chỉ xích

Triêu lai hảo phong sắc

Kỳ vĩ tây bắc trịch

Hành đương trung lưu kiến

Tiếu nhãn thanh quang dật

Thử bang nghi khả lão

Tu trúc đái tuyền thạch

Dục mãi Kha thị lâm

Tư mưu đãi quân tất

去年御史府

举动触四壁。

幽幽百尺井,

仰天無一席。

隔墙聞歌呼,

自恨計之失。

留詩不忍寫,

苦淚渍紙筆。

餘生復何幸,

榮事有今日

江流鏡面淨,

煙雨輕冪冪。

孤舟如鳧黳,

點破千頃碧。

聞君在磁湖,

欲見隔咫尺。

朝來好風色,

旗腳西北擲。

行當中流見,

笑眼清光溢。

此邦疑可老,

修竹帶泉石。

欲買柯氏林,

玆謀待君必

Mấy câu đầu, ông tả lại cảnh ngồi tù tại phủ ngự sử năm ngoái. Phần giữa nói tâm trạng của ông khi đi đón Tử Do, vào buổi sáng, tại Ba hà khẩu. Cuối cùng, ông nói với Tử Do về tình trạng sinh sống thường nhật, và cùng những dụ tính ngày sau. Ông có cảm giác như vĩnh viễn lưu đày tại đất Hoàng Châu đó.

Năm ngoái phủ ngự sử

Tay chân chạm vách tường

Hun hút trăm thước giếng

Trông trời không chiếu manh

Nghe ca hô cách vách

Hận mình tính hỏng trơn

Thư lưu không nỡ viết

Lệ khổ đẫm giấy bút

Còn sống thế là may

Mới có niềm vui này

Sng trôi mặt nước phẳng

Mưa nhẹ khói mù bay

Thuyền lẻ như cò vạc

Chấm phá biếc trời mây

Nghe chú tại Từ hồ

Muốn gặp trong gang tấc

Buổi sáng phong cảnh tốt

nhắm Tây bắc phất cờ

Rồi gặp ở trung lưu

cười hai mắt sáng chói

Đất này thôi dưỡng già

Hàng tre ôm đá suối

Muốn mua rừng họ Kha

Đợi chú lo mới nổi

6.

ĐÔNG PHA BẤT THỦ 東坡八首

I

Phế lỗi vô nhân cố

Đồi viên mãn bồng cao

Thùy năng quyên trợ lực

Tuế vãn bất thường lao

độc hữu cô lữ nhân

thiên cùng vô sở đào

đoan lai thập ngõa lịch

tuế hạn thổ bất cao

kỳ khu thảo cức trung

Dục quát nhất thốn mao

Vị nhiên thích lỗi thán

Ngã lẫm hà thời cao

II

Hoang điền tuy lãng mãng

Cao tì các hữu thích

Hạ thấp chủng canh thuật

Đông nguyên thì táo lật

Giang nam hữu Thục sĩ

Tang quả dĩ hứa khất

Hảo trúc bất nam tài

Đản khủng tiên hoành dật

Nhưng tu bốc giai xứ

Qui dĩ an ngã thất

Gia đồng thiêu khô thảo

Tẩu báo ám tỉnh xuất

Nhất bão vị cảm kỳ

Biều ẩm dĩ khả tất

III

Tự tích hữu vi tuyền

Lai tùng viễn lĩnh bối

Xuyên thành quá tụ lạc

Lưu ác tráng bồng ngải

Khứ vi Kha thị pha

Thập mẫu ngư hà hội

Tuế hạn tuyền dĩ kiệt

Khô bình niêm phá khối

Tạc dạ nam sơn vân

Vũ đáo nhất lê ngoại

Huyễn nhiên tầm cố độc

Tri ngã lý hoang hội

Nê cần hữu túc căn

Nhất thốn ta độc tại

Tuyết nha hà thời động

Xuân cưu hành khả quái

I

Chủng đạo thanh minh tiền

Lạc sự ngã năng sổ

Mao khong ám xuân trạch

Châm thủy văn hảo ngữ

Phân ương cập sơ hạ

Tiệm hỉ phong diệp cử

Nguyệt minh khán lộ thượng

Nhất nhất châu thùy lũ

Thu lai sương huệ trọng

Điên đảo tương xanh trụ

Đản văn huề lũng gian

Trách mãnh như phong vũ

Tân xuân tiện nhập tắng

Ngọc diệp chiếu không lữ

Ngã cửu thực quan thương

Hồng hủ đẳng nê thổ

Hành đương tri thử vị

Khẩu phúc ngữ dĩ hứa

V

Lương nông tích địa lực

Hạnh thử thập niên hoang

Tang giá vị cập thành

Nhất mạch thứ khả vọng

Đầu chủng vị dũ nguyệt

Phúc khối dĩ thương thương

Nông phu cáo ngã ngôn

Vật sử miêu diệp xương

Quân dục phú binh nhĩ

Yếu tu túng ngưu dương

Tái bái tạ khổ ngôn

Đắc bảo bất cảm vong

VI

Chủng tảo kỳ khả bác

Chủng tùng kỳ khả đoạn

Sự tại thập niên ngoại

Ngô kế diệc dĩ khác

Thập niên hà thúc đạo

Thiên tải như phong bạc

Cựu văn Lý Hành nô

Thử sách nghi khả học

Ngã hữu đồng xá lang

Quan cư tại Tiềm nhạc

Di ngã tam thốn cam

Chiếu tòa quang trác lạc

Bách tài thảng khả trí

Đương xuân cập băng ác

Tưởng kiến trúc ly gian

Thanh hoàng chiếu ốc giác

VIII

Phan tử cựu bất điệu

Cô tửu Giang Nam thôn

Quách sinh bản tương chủng

Mại dược Tây thị viên

Cổ sinh diệc hiếu sự

Khủng thị áp nha tôn

Gia hữu thập mẫu trúc

Vô thời dung khấu môn

Ngã cùng giao cựu tuyệt

Tam tử độc kiến tồn

Tùng ngã ư Đông Pha

Lao hưởng đồng nhất xan

Khả liên Đỗ Thập di

Sự dữ Chu Nguyễn luân

Ngô Sư Bốc Tử Hạ

Tứ hải giai đệ côn.

VIII

Mã sinh bản cùng sĩ

Tùng ngã nhị thập niên

Nhật dạ vọng ngã quí

Cậu phận mãi sơn tiền

Ngã kim phản lụy quân

Tá canh chuyết tư điền

Quát mao qui bối thượng

Hà thời đắc thành chiên

Khả liên Mã sinh si

Chỉ kim khoa ngã hiền

Chúng tiếu chung bất hối

Thí nhất đương hoạch thiên

廢壘無人顧,

頹垣滿篷篙。

誰能捐筋力,

歲晚不償勞。

獨有孤旅人

天窮無所逃

端來拾瓦礫

歲旱土不膏

崎嶇草棘中

欲刮一寸毛

喟焉釋耒嘆

我廩何時高

荒雖浪莽

高庳各有適

下隰種秔稌

東原蒔棗栗

江南有蜀士

桑果已許乞

好竹不難栽

但恐鞭橫逸

仍須卜佳處

規以安我室

家僮燒枯草

走報暗井出

一飽未敢期

瓢飲已可必

自有微泉

來從遠嶺背

穿城過聚落

流惡壯蓬艾

去為柯氏陂

十畝魚蝦會

歲旱泉已竭

枯萍粘破塊

昨夜南山雲

雨到一犁外

泫然尋故瀆

知我理荒薈

泥芹有宿根

一寸嗟獨在

雪芽何時動

春鳩行可膾

種稻清明前

樂事我能數

毛空暗春澤

針水間好語

分秧及夏初

漸喜風葉舉

月明看露上

一一珠垂縷

秋來霜穗重

顛倒相撐拄

但聞畦隴間

蚱蜢如風雨

新春便入甑

玉粒照筐筥

我久食官仓

红腐等泥土

行當知此味

口腹語已許

良農惜地力

幸此十年荒

桑柘未及成

一麦庶可望

投种未逾月

覆塊已苍苍

農父告我言

勿使苗葉昌

君欲富饼饵

要须纵牛羊

再拜谢苦言

得饱不敢忘

种枣期可剥

种松期可斫

事在十年外

吾計亦已悫

十年何足道

千载如風雹

舊聞李衡奴

此策疑可學

我有同舍郎

官居在灊岳

遗我三寸甘

照座光卓荦

百栽倘可致

當及春冰渥

想見竹篱間

青黄照屋角

潘子久不調

沽酒江南村

郭生本将種

賣葯西市垣

古生亦好事

恐是押牙孫

家有十畝竹

無時客叩門

我穷交舊絕

三子獨見存

従我菸東坡

劳饷同一餐

可憐杜拾遗

事與朱阮掄

吾師卜子夏

四海皆弟昆

馬生本窮士

従我二十年

日夜望我貴

求分買山钱

我今反累君

借耕輟兹田

刮毛龜背上

何時得成氈

可憐馬生癡

至今夸我賢

眾笑终不悔

施一當獲千

Đông Pha, khoảng đất phía đông Hoàng Châu. Ông về làm ruộng ở đó, tự hiệu Đông Pha cư sĩ. Tám bài thơ làm tại đây, tả cảnh sinh hoạt thường nhật của Ông.

Ông tự viết lời dẫn cho cả tám bài thơ:

“Tôi đến Hoàng Châu được hai năm, càng ngày càng túng quẫn. Người bạn cũ Mã Chính Khanh, cám cảnh tôi thiếu ăn, nên lo hộ trong quân cho tôi được vài mươi mẫu đất trồng trọt, để tôi ở đó cày cuốc. Đất bỏ hoang từ lâu, gai, tranh, gạch ngói, các thứ chen chúc nhau tràn lan. Mà năm lại gặp đại hạn, việc khai khẩn quá mệt nhọc, gân sức rã rời hết, buông cày đứng than thở. Mới làm các bài thơ đó. Tư an ủi sự siêng năng của mình sẽ được đền bù năm sau, do đó quên cả mệt nhọc”

Tám bài thơ thuật sự, nên chương pháp như một bài tản văn. Lời thơ và tình tự, chất phác và nồng nàn. Ở đây có thể thưởng thức tài làm thơ lão luyện của ông. Và cũng có thể nghe được đâu là tâm tình dịu ngọt của một nhà thơ. Ông nói tới những công lao cực nhọc của người làm ruộng, những lo lắng khi trời hạn hán. Rồi tới cái vui và tình làng xóm giao hảo. Tại đó, ông có ba ngườ bạn nông dân thân thiết, bác Phan, bác Quách và bác Cổ. Thú đồng quê cực nhọc mà tựa như nhàn. Hai câu kết trong bài (I) là hứng thơ như mạch ngầm chảy suốt qua cả tám bài:

Vị nhiên thích lỗi thán

Ngã lẫm hà thời cao

Buông cây đứng than thở

Kho lúa bao giờ đầy?

Ông đã ghi lại ý tưởng đó trong lời dẫn. Buông cây đứng than thở, đứng bùi ngùi thở dài…. Thở dài cho kho lúa đầy cao, và cũng thở dài cho trời thơ và cõi mộng xa xôi.

(I)

Ruông đất bỏ hoang, không ai đoái tưởng tới. Vườn tược đổ nát, lau lách mọc đầy. Ai mà ra gân sức cho nổi; rồi vãn một năm không bù lại công khó.

Chỉ có người bị lưu đày cô quạnh, góc bể chân trời không chỗ trốn, mới hăm hở đến dọn gạch, dọn ngói. Năm hạn, đất không dẻo. Giữa đám gai lởm chởm, chừng như muốn bứt từng sợi lông. Rồi bùi ngùi buông cày đứng than thở, biết bao giờ cho đụn lúa đầy cao?

(II)

Ruộng hoang dù cỏ dại mọc đầy, nhưng cũng cất được căn nhà thấp. Chỗ trũng thấp thì trồng lúa canh, lúa thuật; đất bằng ở mé đông trồng rau thì là, trồng táo, trồng dẻ.

Đất Giang nam bấy giờ có kẻ quê ở đất Thục (tức là ông) đã yên phận trồng dâu trồng trái. Tre tốt trồng không khó, nhưng sợ người ta chặt làm roi (Gieo cái tài sản của mình cho tốt, tâm mình cho thẳng như tre, tránh sao khỏi đời nó bẻ làm roi)

Nay đã chọn được chỗ ở tốt, việc nhà đã thu xếp ngăn nắp rồi. Sắp trẻ đốt cỏ khô, chạy tới báo tin có mạch nước ngầm. Nhưng một bữa no, không mong gì hơn nữa; uống nước trong cũng đã đủ lắm.

(III)

Chỗ này trước kia có con suối nhỏ, từ sau dãy núi xa xôi chảy đến, len lỏi qua thị thành, qua các làng mạc, cuốn đi những thứ hại, làm tươi tốt lau sậy. Rồi chảy qua bờ ruộng nhà họ Kha, cả mười mẫu đầy những tôm và cá. Đến năm nay, trời hạn, suối cũng cạn; bèo khô dính bám vào những mảng đất lở.

Đêm hôm qua, mây kéo trên núi nam, mưa dâng chừng ngập lưỡi cày, mênh mông chảy theo con lạch cũ; mới biết ta đã dọn sạch hết cỏ dại. Rau cần, mọc chen dưới bùn, còn lại chút rễ, vắn chừng một tấc. Chồi trắng như tuyết bao giờ động, để đến mùa xuân, bắt chim cưu mà ăn thịt thái (Ông tự chú: Người đất Thục quí chồi non rau cần, xắt nó trộn với thịt thái chim cưu mà ăn)

(IV)

Trồng lúa trước thanh minh, có thể tính được nỗi vui sướng của mình. Trời mưa bay như lông bay, phủ mờ ao hồ mùa xuân; nghe những tiếng hớn hở nói lúa đã chích nước (ông tự chú: Người Thục gọi mưa bay là mưa lông. Lúa khi vừa trổ, nông phu bảo nhau là lúa sẽ chích nước.)

Rải mạ đợi mùa hè, mừng dấn thấy gió đã lay ngọn. Trăng sáng rọi trên sương, như từng hạt ngọc kết vạt áo rũ. Mùa thu, sương nặng trên bông lúa; cọng lúa nghiêng ngửa giữ nhau đứng vững. Nghe trên các bờ ruộng, cào cào kêu như mưa như gió (Ông tự chú: tại đất Thục, vào mùa lúa chín, cào cào bay từng đàn giữa ruộng; dáng như sâu lúa, nhưng không làm hại lúa.)

Xuân mới, chợt đi vào trong chậu; hạt ngọc lấp lánh trong thúng mủng. Từ lâu, ta ăn gạo thóc quan, trái hồng thúi coi như đất bùn. Đâu biết được mùi vị này, đã chịu vừa miệng vừa bụng ta lắm rồi.

(V)

Nhà nông giỏi thì biết tiếc sức của đất. Đất này nhớ mười năm bỏ hoang, dâu đỏ dâu đen chưa đến lúc lớn, có thể mong được một mùa lúa mạch. Gieo giống chưa đầy tháng, đã thấy xanh mượt trên các gò đất. Nông phu bảo ta rằng, đừng để lá mạ lên hết mức; nếu anh muốn giàu bánh trái, nên thả trâu dê ra. Lại bái tạ lời thiết tha đó. Được no cơm, sẽ không dám quên.

(VI)

Trồng cây táo chờ đến mùa bóc vỏ; trồng cây thông cũng chờ đến mùa đốn được. Đó là việc mười năm sau; nhưng việc tính toán của mình coi như đã tốt đẹp. Mười năm có là bao? Một nghìn năm thì cũng như gió rào, mưa đá. Xưa kia, có nghe chuyện người tớ của Lý Hành. Cái cách đó có lẽ học được.

Tôi có người bà con, làm quan ở Tiềm Nhạc, tặng cho cây cam chừng ba tấc; rọi chỗ ngồi sáng chói. Trồng nó hàng trăm lần mới được. Gặp lúc mùa xuân, tuyết bám đầy, tưởng chừng như nơi hàng dậu, màu xanh màu vàng rũ bên góc nhà.

(VII)

Bác Phan từ lâu không đến rủ đi mua rượu xóm Giang nam. Bác Quách đang sửa soạn gieo giống, bán thuốc ở chợ Tây. Bác Cổ lại khá bày vẽ, chắc là bắt con cháu nhín răng. Nhà có mười mẫu tre, không hề có người đến đập cửa. Ta còn ở bước đường cùng, bạn ngày xưa không còn ai. Chỉ còn thấy có ba bác đó, theo ta ở Đông pha, cùng làm lụng mệt nhọc rồi cùng chung bữa. Khá thương Đỗ Thập Di (Đỗ Phủ). Việc gì mà bàn với Chu Nguyễn? Thầy ta là Bốc Tử hạ, bốn biển đều là anh em.

(VIII)

Bác Mã vốn một gã nghèo cùng, theo ta hai mươi năm; ngày đêm coi trọng ta, xin góp tiền mua núi! Ta nay làm lụy đến bác. Nhờ bác cho cày ruộng đó. Nhưng nhổ lông trên lưng con rùa, bao giò dệt thành chiếc mũ dạ cho nổI? Đáng thương bác mã dạI dột, đến nay cứ tâng bốc ta là hay. Người ta cười cho mà không hối, cứ như cho một lấy lại nghìn!