Chương 2
Khi Rosamund Darnley tới ngồi bên cạnh, Hercule Poirot không hề có ý che giấu niềm vui của mình.
Như vẫn thừa nhận từ lâu, không phải bất cứ phụ nữ nào ông từng gặp cũng được ông ngưỡng mộ như Rosamund Darnley. Ông thích vẻ độc đáo của cô, những đường nét duyên dáng của thân hình, dáng cao ngạo của cái đầu. Ông thích những nếp tóc đen mượt mà, nụ cười mỉa mai châm biếm của cô.
Cô đang mặc bộ váy áo bằng một thứ chất liệu màu xanh nước biển nào đó có những họa tiết màu trắng. Trông rất đơn giản nhờ đường nét mộc mạc mà đắt tiền. Công ty trách nhiệm hữu hạn Rose Mond của cô là một trong những nơi may y phục phụ nữ nổi tiếng nhất London.
“Tôi nghĩ mình chẳng thích nơi này,” cô nói. “Tôi đang tự hỏi vì sao lại đến đây cơ chứ?”
“Cô đã từng tới đây rồi hay sao?”
“Vâng, cách đây hai năm vào dịp lễ Phục sinh. Lúc ấy không quá đông người?”
Poirot nhìn cô nói thật dịu dàng: “Chuyện gì đó đã xảy ra, làm phiền cô. Đúng như vậy, phải không?”
Cô gật đầu. Hai bàn chân đong đưa tới lui. Cô đăm đãm nhìn xuống chân.
“Tôi đã gặp một bóng ma. Là thế đó,” cô nói.
“Một bóng ma sao, Mademoiselle ?”
“Vâng.”
“Bóng ma của cái gì? Hay là của ai?”
“Ôi, bóng ma của chính tôi.”
“Có phải đó là một bóng ma đau khổ?” Poirot khẽ hỏi.
“Đau khổ chẳng thể ngờ. Nó đưa tôi quay trở lại…” Cô dừng lại, trầm ngâm một lát rồi nói, “Thử hình dung thời thơ ấu của tôi đi! Không, không thể nào! Ông đâu phải là người Anh!”
Poirot hỏi: “Phải chăng đó là một thời thơ ấu điển hình của người Anh?”
“Ôi, thật khó tin, nhưng đúng thế đó! Miền quế - ngôi nhà lớn tồi tàn - lũ chó và bầy ngựa - đi bộ dưới mưa - củi lửa - táo trong vườn - thiếu tiền - đồ cũ bằng vải len - váy áo mặc hoài mặc mãi vào buổi tối hết năm này tháng nọ - vườn hoa bị lãng quên -những đóa hoa cúc tây nở rộ như những lá cờ cực kỳ to lớn về mùa thu…”
“Và cô muốn quay trở lại sao?” Poirot hỏi thật dịu dàng.
Rosamund Darnley lắc đầu. “Chẳng thể nào quay trở lại, đúng không? Điều ấy - không bao giờ. Nhưng hẳn tôi đã muốn đi trên - một con đường khác.”
“Tôi thắc mắc đó.”
Rosamund bật cười. “Tôi cũng thế, thật đó!”
“Hồi tôi còn trẻ, và hồi đó, thưa cô, quả thật cách đây đã lâu, có một trò chơi gọi là Nếu không là chính mình thì bạn sẽ là ai? Người ta viết câu trả lời vào cuốn album của các quý cô. Bìa viền vàng và đóng bằng da thuộc màu xanh lam. Trả lời ra sao à? Thưa cô, tìm ra câu đó thật sự chẳng dễ dàng lắm đâu.”
“Đúng, chắc chẳng dễ dàng gì. Thật quá liều lĩnh. Người ta chẳng muốn nhận mình là Mussolini hay công chúa Elizabeth. Về phần bạn bẻ của mình thì đã biết quá rõ ràng rồi. Còn nhớ, có lần tôi từng gặp một ông chồng thật hấp dẫn đi cùng vợ. Họ đối xử với nhau cực hòa nhã vui vẻ, như vẫn luôn hòa thuận như thế sau nhiều năm chung sống, khiến tôi ganh tị với người phụ nữ ấy. Hẳn tôi đã bằng lòng đổi chỗ với bà ta. Về sau có người cho tôi biết khi ở chỗ riêng tư thì họ chẳng hề nói với nhau suốt mười một năm!” Cô bật cười. “Thế mới thấy ta chẳng bao giờ biết hết được, phải không ông?”
Một lúc khá lâu sau Poirot mới nói: “Lắm người phải ganh tị với cô đó, Mademoiselle .”
Rosamund đáp lại lạnh nhạt: “À vâng. Tất nhiên.” Cô ngẫm nghĩ, đôi môi cong lên thành một nụ cười mai mỉa. “Vâng, quả thật tôi là kiểu mẫu hoàn hảo của một phụ nữ thành đạt! Thật sự rất thích thiết kế thời trang, tôi vui sướng vì được đáp ứng cả về nghệ thuật lẫn tài chính, vừa là một nghệ sĩ sáng tạo thành công vừa là một nữ doanh nhân thành đạt. Tôi sống rất phong lưu sung tức, ngoại hình cũng được, khuôn mặt dễ cảm và miệng lưỡi không quá hiểm độc.”
Cô tạm dừng, nụ cười nở rộng ra.
“Dĩ nhiên là - không có chồng! Tôi đã thất bại về mặt ấy, phải không ông Poirot?”
“Thưa cô,” vị thám tử đáp lại thật lịch thiệp, “sở dĩ cô chưa lập gia đình là vì cánh đàn ông chúng tôi không ai có đủ tài ăn nói. Do chọn cuộc sống độc thân chứ không phải bị như thế.”
“Tuy thế cũng như tất cả đàn ông, tôi chắc chắn ông vẫn đinh ninh chẳng phụ nữ nào hài lòng nếu không lấy được chồng và có con.”
Poirot nhún vai. “Lấy chồng và có con, đó là số phận bình thường của phụ nữ. Trăm phụ nữ mới có một - còn hơn vậy nữa, ngàn người mới có một người có thể tạo dựng cho mình danh vọng và địa vị như cô mà thôi.”
Rosamund toét miệng cười với ông. “Tuy thế, rốt cuộc tôi chẳng là gì cả, chỉ là một cô gái già khốn khổ! Dẫu sao đó cũng là điều tôi cảm thấy hôm nay. Tôi sẽ hạnh phúc hơn với hai đồng xu một năm, một ông chồng to con, vũ phu, ít nói, và một bầy con nheo nhóc sau lưng. Đúng như thể, phải không ạ?”
Poirot nhún vai. “Cô đã nói thế thì đúng như vậy, thưa cô.”
Rosamund bật cười, đột nhiên trở lại vô tư, điềm tình. Cô rút một điếu thuốc ra đốt lên.
“Rõ là ông biết cách cư xử với phụ nữ, ông Poirot ạ. Giờ đây tôi thấy thích quan điểm trái ngược và tranh luận với ông để ủng hộ cho sự nghiệp của phụ nữ. Dĩ nhiên tôi vẫn sống cực kỳ sung tức - và tôi biết điều ấy chứ!”
“Vậy thì mọi thứ trong vườn hoa - hay phải nói là trên bờ biển này đều đẹp đẽ đáng yêu cả, thưa cô.”
“Hoàn toàn đúng.”
Tới lượt mình, Poirot cũng lôi ra hộp thuốc lá và đốt một điếu nhỏ xíu, thứ thuốc lá ông rất thích hút. Nhìn đám khói bốc lên mù mịt bằng con mắt kỳ quặc, ông lẩm bẩm:
“Như vậy ông - à không, đại úy Marshall là bạn cũ của cô, phải không Mademoiselle ?”
Ngồi thẳng dậy, Rosamund hỏi lại:
“Này, làm thế nào ông biết được? Ôi, chắc là Ken đã nói với ông.”
Poirot lắc đẩu. “Không ai nói với tôi gì cả. Dù sao thì tôi cũng là thám tử, thưa cô. Đó là kết luận hiển nhiên có thể rút ra.”
“Tôi không hiểu.”
“Cứ nghĩ kỹ đi!” Hai bàn tay của người đàn ông nhỏ thó vung vẩy như trổ tài hùng biện. “Cô ở đây đã một tuần rồi. Thật hoạt bát vui vẻ, chẳng có mối bận tâm nào. Hôm nay bỗng dưng cô nói tới một bóng ma, về thời xưa cũ. Chuyện gì đã xảy ra? Rất nhiều ngày qua chẳng có khách nào mới tới, cho đến đêm hôm qua khi đại úy Marshall cùng vợ và con gái tới đây. Hôm nay có thay đổi! Rõ ràng là vậy!”
“À, cũng đúng. Kenneth và tôi ít nhiều vẫn ở bên nhau lúc còn bé. Gia đình Marshall ở sát vách nhà chúng tôi. Ken vẫn luôn đối xử tử tế với tôi - mặc dù ra vẻ kẻ cả, dĩ nhiên thế vì anh ấy lớn hơn tôi bấn tuổi. Từ lâu tôi chưa hề gặp lại và biết gì về anh ấy cả. Chắc hẳn - chí ít cũng mười lăm năm rồi?”
Poirot nói vè trầm ngâm. “Lâu thật.”
Rosamund gật đầu. Có một khoảnh khắc tạm dừng, rồi Hercule Poirot hỏi:
“Ông ấy là người biết cảm thông, đúng vậy chứ?”
Rosamund đáp lại thật sôi nổi:“Ken là người đáng mến. Một trong số những người tốt nhất. Cực kỳ ít nói và kín đáo. Phải nói anh ấy chỉ có một sai lầm là hay vướng dính vào những cuộc hôn nhân bất hạnh.”
Poirot thốt lên với một giọng hết sức thấu hiểu: “A..”
Rosamund Darnley nói tiếp:“Kenneth rất ngốc - cực kỳ ngốc nghếch trong những chuyện liên quan đến phụ nữ. Ông còn nhớ vụ án Martingdale chứ?”
Poirot nhíu mày. “Martingdale? Martingdale sao? Thạch tín, không phải vậy chứ?”
“Vâng. Cách đây chừng mười bảy hay mười tám năm. Người đàn bà bị xử tội giết chồng.”
“Và đã có bằng chứng ông ta tự ăn thạch tín nên bà vợ được phóng thích, đúng không?”
“Đúng thế. À, sau khi được phóng thích, Ken đã cưới cô ta. Đó là kiểu cách cực kỳ khờ dại anh ấy thường mắc phải.”
Poirot lẩm bẩm: “Nhưng người phụ nữ ấy có vô tội hay không?”
Rosamund Darnley đáp vẻ nóng nảy: “Ôi, tôi dám nối là cô ta vô tội. Chẳng ai thật sự biết được! Nhưng trên đời có vô khối đàn bà để kết hôn, việc gì lại đi chệch đường và cưới một người từng ra trước vành móng ngựa vì tội giết người chứ?”
Poirot không nói gì. Có lẽ ông biết nếu cứ giữ im lặng thì Rosamund sẽ nói tiếp. Đúng như vậy.
“Dĩ nhiên anh ấy còn rất trẻ, lúc đó chỉ mới hai mươi mốt thôi. Anh ấy si mê cô ta. Cô ta chết khi Linda ra đời - một năm sau khi họ kết hôn. Tôi tin là Ken đau lòng kinh khủng vì cái chết của vợ. Sau đó anh ấy ăn chơi trác táng rất ghê - chắc là cố quên đi.”
Cô dừng lại một lát.
“Rồi xảy đến vụ việc của Arlena Stuart. Lúc ấy cô ta đang ở Revue. Đó là vụ án ly hôn của vợ chồng Codrington. Phu nhân Codrington khi ly dị với chồng đã nêu tên Arlena Stuart trước tòa. Người ta kháo nhau là ngài Codrington quả thật say mê cô này. Người ta hiểu ngầm hẳn họ phải kết hôn ngay khi quyết định của tòa có hiệu lực. Nhưng khi tòa phán cho ly hôn, ông ấy lại không chịu cưới cô ta. Bỏ luôn. Tôi tin chắc cô ta đã kiện ông ấy vì không giữ đúng lời hứa. Dẫu sao vụ việc cũng gây náo động rất ghê vào thời kỳ ấy. Chuyện xảy ra kế tiếp là Ken đi cưới cô ta. Thật ngốc - cực kỳ ngốc nghếch!”
Poirot nói nhỏ: ‘Đàn ông có thể được tha thứ vì điều dại dột như vậy - cô ta xinh đẹp, thưa cô.”
“Vâng, điều ấy thì có ai nghi ngờ đâu. Cách đây độ ba năm lại có một vụ tai tiếng khác. Ngài Roger Erskine già nua đã để lại cho cô ta tất cả tiền bạc. Cứ tưởng điều ấy đã khiến Ken sáng mắt ra rồi chứ.”
“Và không phải vậy sao?”
Rosamund nhún vai. “Tôi đã nói với ông tôi chưa từng gặp hay được biết bất cứ điều gì về anh ấy nhiều năm rồi cơ mà. Có điều người ta bảo anh ấy hết sức thản nhiên xem như chẳng có chuyện gì cả. Tôi muốn biết sao lại như thế. Phải chăng anh ấy có một niềm tin tuyệt đối mù quáng đối với cô ta?”
“Có thể có những lý do khác.”
“Vâng. Vì kiêu hãnh! Chẳng hề nao núng! Tôi không biết thật ra anh ấy cảm thấy thế nào về cô ta. Chẳng ai biết được.”
“Còn cô ta thì sao? Cảm thấy thế nào về ông ấy?”
Rosamund ngó ông lom lom. “Cô ta á? Là một kẻ đào mỏ vàng số một thế giới. Còn ăn thịt người nữa đó! Nếu có bất cứ kẻ mặc quần dài nào ngoại hình dễ ưa đến cách cô ta trong vòng một trăm thước, thì đó là một món đồ giải trí mới đối với Arlena! Cô ta là loại người như thể đó.”
Poirot chầm chậm gật đầu tỏ ra hoàn toàn đồng ý.
“Phải. Điều cô nói rất đúng… Mắt cô ta chỉ tìm kiếm mỗi một thứ - đàn ông.”
“Bây giờ cô ta đang để mắt đến Patrick Redfern. Anh ta trông cũng bảnh - là loại người đơn giản thì đúng hơn - ông biết rồi đó, rất yêu vợ, chẳng phải là loại hay tán tỉnh. Kiểu đàn ông ấy là rượu ngon, thịt béo đối với Arlena. Tôi thích cô Redfern bé nhỏ - cô ấy trông tuyệt đẹp với vẻ xanh xao nhợt nhạt - nhưng chắc cô ấy chẳng có cơ chống lại được con hổ ăn thịt người ấy - Arlena.”
“Đúng là không rồi, như cô nói đó.” Poirot có vẻ lo âu.
Rosamund nói: “Tôi tin Christine Redfern là giáo viên. Cô ấy là mẫu người lúc nào cũng nghĩ trí tuệ luôn có ưu thế trong mọi vấn đề. Thế nào cô ấy cũng sẽ bị sốc cho xem.”
Poirot lắc đầu bực tức.
Rosamund đứng dậy. “Thật là đáng xấu hổ, ông ạ.” Cô nói thêm không rõ ý tứ thế nào. “Phải có ai làm gì đó đi chứ.”
Trong phòng ngủ Linda Marshall đang bình thản săm soi khuôn mặt của mình trong gương. Nó rất ghét khuôn mặt mình. Dường như với nó trong giây phút này gương mặt đó toàn là xương xẩu, tàn nhang. Nó phát chán khi nhìn đến mái tóc mềm mại màu nâu như bụi rậm dày đặc mà nó thầm gọi là lông chuột, đôi mắt màu xám hơi xanh lục, hai gò má cao và cái cằm dài hung hàn. Miệng và hàm răng có lẽ không đến nỗi quá tệ - nhưng rốt cuộc răng có là cái gì chứ? Và phải chăng có một nốt ruồi ở cánh mũi đây?”
Cô bé thở phào nhẹ nhỏm khi xác định đó không phải là nốt ruồi, nghĩ thầm:
“Mười sáu tuổi thật khiếp - đúng là kinh khiếp!”
Nhiều khi người ta không biết mình đang ở đâu. Linda vụng về như một con ngựa non và đầy gai góc như một con nhím. Lúc nào cũng có ý thức về sự vụng về của mình và chuyện nó chẳng là cái gì cả. Ở trường học cũng không quá tệ. Nhưng bây giờ cô bé đã bỏ học. Dường như chẳng ai biết rõ tiếp theo nó sẽ làm gì. Cha nó nói mập mờ về chuyện gửi nó đến Paris mùa đông năm tới. Cô bé không muốn đi Paris mà cũng chẳng thích ở nhà. Cho đến lúc này không hiểu sao nó lại chưa bao giờ nhận ra một cách chính xác mình căm ghét Arlena biết bao.
Khuôn mặt non trẻ của Linda trở nên căng thẳng, đôi mắt xanh lục gay gắt hơn.
Arlena…
Nó nhủ thầm: “Bà ta là một con thú - ác thú …”
Mẹ kế! Thật tàn tệ khi có mẹ kế, mọi người đều nói như vậy. Và đúng thế thật! Không phải vì Arlena đối xử tệ bạc với gì đâu. Hầu như chả có lúc nào bà ta để ý đến nó ấy chứ. Nhưng khi bà ta để ý, thì trong cái liếc nhìn, trong lời lẽ luôn ẩn chứa một niềm vui thích khinh miệt. Cử động uyển chuyển hoàn hảo và đĩnh đạc của bà ta càng làm nổi bật sự vụng về của cô bé mới lớn. Khi bà ta ở gần bên, nó cảm thấy xấu hổ vì còn non nớt thô thiển biết chừng nào.
Nhưng không phải chỉ có vậy thôi. Không, không phải chỉ là chuyện đó.
Linda vẫn thường rầu rĩ mò mẫm đi vào những góc sâu kín trong tâm trí mình. Nó không giỏi phân biệt và xếp loại những cảm xúc của mình cho lắm. Có điều gì đó Arlena đã làm với mọi người - với cả nhà…
“Bà ta thật xấu xa,” nó quả quyết nghĩ thầm. “Bà ta hết sức, hết sức xấu xa.”
Nhưng thậm chí không thể cứ để mặc như vậy. Không thể chỉ hếch mũi lên hít vào một cái tỏ ra đạo đức hơn hẳn rồi xua bà ta ra khỏi tâm trí.
Bà ta đã làm gì đó với mọi người. Còn bố, bố thì hoàn toàn khác…
Nó lấn cấn vì điều đó. Bố xuống đưa nó đi học về. Có lần bố đã đưa nó lên tàu ra biển chơi. Và bố ở nhà - có Arlena ở đó. Hết thảy - hết thảy các kiểu kìm nén và không phải - và không phải ở đó.
Linda nghĩ bụng: “Rồi sẽ cứ tiếp tục như thể này. Ngày lại qua ngày, hết tháng này rồi tháng khác. Mình không chịu nổi.”
Cuộc sống trải ra trước mắt nó - vô cùng vô tận - trong chuỗi ngày mà sự có mặt của bà mẹ kế làm cho u ám và mất hết niềm vui. Nó vẫn còn khá ngây ngô để mà hiểu chuyện. Một năm đối với nó dường như dài lê thê bất tận.
Một đợt sóng căm thù mẹ kế to lớn, đen ngòm và nóng bỏng trào dâng trong tâm trí:
“Mình muốn giết chết bà ta. Ôi! ước gì bà ta chết đi…”
Nó nhìn qua mép cái gương, ngó xuống biển ở bên dưới.
Nơi này thật sự khá vui. Hay có thể vui thú. Hết thảy những bãi biển và vịnh nhỏ ấy, những lối mòn nhỏ xíu kỳ quặc ấy. Rất nhiều nơi để khám phá. Và những nơi nó có thể tới chơi một mình. Còn có những hang động nữa, bọn con trai nhà Cowan đã nói với nó như vậy.
Linda thầm nghĩ: “Chỉ khi nào Arlena đi nơi khác mình mới được hưởng niềm vui thú.”
Nó hồi tưởng lại buổi tối lúc mới đến nơi. Thật thú vị khi đến từ đất liền. Thủy triều lúc đó đã dâng lên ngập cả con đường đắp nối vào đất liền. Họ đã đến bằng một chiếc thuyền. Khi ấy trông khách sạn thật thú vị, thật khác thường. Rồi sau đó trên trảng đất cao một phụ nữ cao ráo tóc đen đã nhảy dựng lên và nói: “Ôi chao, Kenneth!”
Và vô cùng kinh ngạc, bố nó đã kêu lên:
“Rosamund!”
Linda xét nét Rosamund một cách nghiêm khắc và phê phán theo kiểu cách của tuổi trẻ. Cô bé quyết định chấp thuận cô ấy. Nó nghĩ Rosamund là người biết phải trái. Mái tóc cô ấy dài đẹp - rất xứng hợp với cô ấy - hầu hết người ta để kiểu tóc chẳng hợp chút nào. Trang phục tuyệt đẹp. Và cô ấy có một kiểu khuôn mặt vui thích là lạ - như thể vui thích với chính cô ấy chứ chẳng phải với mình. Cô ấy đã đối xử tử tế với nó, Linda. Chẳng hề nói luôn mồm hay nói điều này chuyện nọ (điều này chuyện nọ là cụm từ cô bé dùng để xếp loại hết thảy những chuyện linh tinh cô không thích.) Và có vẻ như Rosamund không hề nghĩ nó là một con ngốc. Thực tế cô ấy đã đối xử với Linda như một con người thực thụ. Cô bé rất hiếm khi cảm thấy mình là một con người thực thụ nên nó biết ơn sâu sắc khi được ai đó có vẻ coi trọng như thế.
Dường như bố cũng hài lòng khi gập cô Darnley, Thật lạ - trông bố như biêny thành người hoàn toàn khác. Bố đã có vẻ - có vẻ như là — nó giải đáp điều khó hiểu ấy — à, có vẻ trẻ ra, là vậy đó! Bố cười - như một cậu bé, thật là kỳ quặc. Giờ đây nghĩ đến điều đó mới thấy rất hiếm khi nó nghe thấy bố cười.
Nó cảm thấy bối rối. Như thể vừa thoáng thấy một con người khác hẳn. Nó nghĩ:
“Không biết bố như thế nào lúc trạc tuổi mình…”
Nhưng điều đó khó hiểu quá. Nó thôi không thắc mắc nữa.
Một ý nghĩ chợt lóe lên trong đầu nó.
Hẳn sẽ vui thú biết bao nếu như hai cha con đến rồi phát hiện cô Darnley xũng đang ở đây - chỉ cô ấy và bố thôi. Một viễn cảnh mở ra chỉ trong phút chốc. Bố luôn vui cười như một cậu bé, cô Darnley và Linda - tất cả những niềm vui thú có thể có được trên hòn đảo này - tắm biển - những hang động…
Bóng tối lại sập xuống.
Arlena. Chẳng thể nào hưởng được niềm vui thú khi có bà ta ở quanh đây. Sao lại không nhỉ? À, dẫu sao cô bé Linda cũng không được vui thú. Chẳng thể nào hạnh phúc khi ở đó có một con người mà mình - thù ghét. Phải, thù ghét. Nó thù ghét Arlena.
Từng chút từng chút, đợt sóng cãm thù đen ngòm nóng bỏng đó lại trào dâng. Mặt cô bé trở nên trắng bệch. Đôi môi hơi hé mở. Con ngươi trong mất nó thu nhỏ lại. Và những ngón tay cứng dơ co quắp…
Kenneth Marshall gõ nhẹ lên cửa phòng vợ. Nghe tiếng cô ta đáp lại, anh mở của đi vào.
Arlena vẫn đang tỉa tót những nét trang điểm hoàn chỉnh. Cô mặc đồ màu xanh lục lấp lánh trông hơi giống một nàng tiên cá. Cô đang đứng trước gương chuốt mascara lên lông mi.
“Ôi, là anh, Ken.”
“Phải, anh không biết em đã xong chưa.”
“Một lát nữa thôi.”
Kenneth Marshall rảo bước tới cửa sổ, nhìn ra ngoài biển. Như thường lệ, nét mặt anh vẫn không biểu lộ bất kỳ một thứ cảm xúc nào, vẫn vui tươi bình thường.
“Arlena?” anh quay lại hỏi vợ.
“Gì ạ?”
“Anh được biết trước đây em đã từng gập Redfern, đúng không?”
Cô vợ đáp thật thoải mái:
“À vâng, anh yêu ạ. Trong một bữa tiệc cocktail ở đâu đây. Lúc ấy em nghĩ cậu ta gần như một con thú cưng.”
“Anh cũng được biết như thế. Có phải em đã biết trước cậu ta cùng vợ xuống đây?”
Arlena mở mắt rất to.
“Ồ không, anh yêu ạ. Đã hết sức bất ngờ.”
Kenneth Marshall nói thật bình thản:
“Anh cứ tưởng có lẽ chính điều ấy đã khiến em nghĩ đến nơi này chứ. Em đã rất hăng hái muốn chúng ta đến đây.”
Cô vợ bỏ mascara xuống. Quay về phía chồng cô mỉm cười - một nụ cười dịu dàng quyến rũ.
“Ai đấy đã kể cho em nghe về nơi này. Chắc là nhà Ryland. Họ bảo chỗ này là tuyệt diệu - vẫn còn rất hoang sơ! Anh không thích hay sao?”
“Anh không chắc.”
“Ôi, anh yêu ơi, anh thích tắm biển và đi loanh quanh chẳng làm gì cả cơ mà. Em chắc chắn anh sẽ thích làm như thể ở nơi này.”
“Anh có thể thấy em định đến đây để hường niềm vui thú.”
Mắt cô ta mở to ra một chút. Cô nhìn chồng có vẻ ngờ vực.
“Em đã nói cho Redfern biết mình đang đến đây, phải không?” Kenneth Marshall hỏi.
“Kenneth yêu quý ạ, anh sẽ không tỏ ra khó chịu quá đáng chứ?”
“Này Arlena! Anh biết em là người như thế nào mà. Họ là một cặp đôi trẻ tuổi khá hoàn hảo. Cậu ta rất yêu quý vợ, thật sự như thế. Em phải phá nát gia đình người ta mới được hay sao?”
“Thật quá bất công khi trách cứ em. Em chẳng làm bất cứ điều gì - chẳng làm gì cả. Em không thể tránh được nếu như…”
Ông chồng thúc giục: “Nếu như cái gì chứ?”
Mi mắt cô nhấp nháy.
“À, dĩ nhiên rồi. Em biết người ta say mê em. Nhưng đấy chẳng phải do em. Họ cứ như thế thôi.”
“Như thế là em thừa nhận cậu Redfern trẻ trung đó say mê em à?”
Arlena khẽ đáp: “Quả thật cậu ta khá dại dột.” Cô bước tới một bước về phía chồng. “Nhưng anh biết rồi, phải không Ken, thật tình em chẳng quan tâm đến bất cứ ai ngoài anh.”
Cô ta ngước nhìn chồng qua hai hàng lông mi vừa tô đậm. Đó là một cái nhìn tuyệt diệu - một cái nhìn ít người có thể kháng cự lại.
Kenneth Marshall nghiêm nghị nhìn xuống cô vợ. Nét mặt anh thật điềm tĩnh. Giọng nói thật bình thản:
“Anh nghĩ đã hiểu em khá rõ, Arlena à…”
Bên ngoài khách sạn về phía nam, các trảng đất và bãi tắm ở liền ngay bên dưới. Còn có một lối mòn dẫn đi vòng quanh vách đá về phía tây nam của hòn đào. Một quãng rất ngắn dọc theo lối mòn đó có vài bậc thềm dẫn xuống một dãy những hốc lõm vào vách đá và trên bản đồ hòn đảo ở khách sạn được gán cho cái tên Gành Nắng. Ở đây có các hốc đá bên trong có chỗ ngồi.*
Patrick Redfern cùng vợ tới một trong những hốc đá đó ngay sau bữa ăn tối. Đó là một đêm trời trong trăng sáng.
Hai vợ chồng ngồi xuống. Họ im lặng một lúc. Sau rốt anh chồng nói: “Một buổi tối hết sức thú vị, đúng không Christine?”
“Đúng.”
Giọng cô vợ có gì đó khiến anh chồng khó chịu. Anh ta ngồi đó, chẳng hề nhìn vợ.
Christine hỏi với giọng bình thản:
“Anh đã biết trước người đàn bà ấy sẽ đến đây à?”
Quay ngoắt lại, anh ta đáp: “Anh chẳng hiểu em muốn nói gì nữa.”
“Em nghĩ anh hiểu đấy.”
“Này Christine! Anh không biết điều gì đã tác động đến em…”
Cô ngắt ngang. Giọng nói giờ đây run rẩy đầy cảm xúc:
“Đến em sao? Đấy là điều đã tác động đến anh cơ mà.”
“Chẳng có gì tác động đến anh cả.”
“Ôi, Patrick! Có đấy. Anh cứ nằng nặc đòi đến đây. Đòi hết sức dữ dội. Em đã muốn trở lại Tintagel nơi mà - nơi chúng mình từng hưởng tuần trăng mật. Anh cứ nhất quyết phải đến đây.”
“À, sao lại không chứ? Đây là một điểm du lịch thật hấp dẫn.”
“Có lẽ thế. Nhưng anh muốn đến đây vì cô ta sẽ đến.”
“Cô ta ư? Cô ta là ai?”
“Vợ Marshall. Anh - anh mê cô ta.”
“Vì Chúa, Christine ạ, đừng làm cho mình trở thành một con ngốc. Ghen tuông chẳng giống em chút nào.”
Lời nói lớn tiếng giận dữ của anh ta có một chút không chắc chắn. Anh ta đã cường điệu.
“Chúng mình đang sống quá hạnh phúc mà anh,” cô vợ nói.
“Hạnh phúc ư? Dĩ nhiên chúng ta đã hạnh phúcl Chúng ta đang hạnh phúc. Nhưng sẽ không còn hạnh phúc nửa nếu như em cứ làm ầm lên mỗi khi anh nói chuyện với một phụ nữ khác.”
“Không phải thế.”
“Phải đấy, là như thế. Kết hôn rồi người ta cũng phải có - à, tình bạn với người khác chứ. Thái độ hoài nghi này là hoàn toàn sai lầm. Anh - anh không thể nói chuyện với một phụ nữ xinh đẹp hay sao? Đừng nhảy đong đỏng lên quy kết anh đang phải lòng cô ta chứ…”
Anh ta dừng lại, rồi nhún vai.
“Anh đang phải lòng cô ta,” Christine nói.
“Ôi, đừng ngốc nghếch, Christine! Anh chỉ - chỉ nói chuyện với cô ta thôi mà.”
“Không đúng.”
“Vì Chúa, xin em đừng nhiễm cái thói ghen tuông với mọi phụ nữ xinh đẹp chúng ta tình cờ gặp mặt!”
“Không chỉ là một phụ nữ xinh đẹp nào đấy đâu! Cô ta - cô ta khác. Là đồ đê tiện! Đúng thế. Cô ta sẽ làm hại anh, Patrick ạ. Làm ơn bỏ đi! Chúng mình hãy đi khỏi nơi đây!.”
Patrick hất cằm lên như muốn nổi loạn. Không hiểu sao trông anh ta rất trẻ khi nói thật ngang ngạnh:
“Đừng buồn cười như thế, Christine! Và - và chúng ta đừng cãi nhau vì chuyện ấy!”
“Em đâu có muốn cãi nhau.”
“Thế thì cư xử như một con người biết lý lẽ! Nào, ta trở về khách sạn thôi!”
Anh ta đứng lên. Có một khoảnh khắc im lặng, rồi Christine cũng đứng lên.
Cô nói: “Hay lắm…”
Ngồi trong hốc đá kế cận, Hercule Poirot buồn bã lắc đầu.
Có lẽ một số người hẳn đã hết sức thận trọng tránh ra xa để khỏi nghe những chuyện riêng tư. Nhưng Hercule Poirot thì không, ông không có cái kiểu quá thận trọng như thế.
“Hơn nữa,” như ông giải thích với ông bạn Hastings trong một cuộc hẹn về sau, “đó là một chuyện có nguy cơ gây ra án mạng.”
Ông bạn Hastings ngó ông lom lom nói: “Nhưng án mạng vẫn chưa xảy ra mà.”
Poirot thở dài: “Thế nhưng án mạng đã được chỉ ra rất rõ ràng rồi, mon cher .”
“Vậy sao lúc đó ông không ngăn chặn lại?”
Và với một tiếng thở dài, Hercule Poirot đã nói như trước đó từng nói ở Ai Cập: nếu một kẻ đã quyết tâm phạm tội giết người thì chẳng dễ gì ngăn cản hắn. Ông thường không tự trách mình vì chuyện đâ xảy ra. Theo ông chuyện đó không thể nào tránh khỏi.