Chương 3
Rosamund Darnley và Kenneth Marshall ngồi trên lớp cỏ êm ái của vách đá nhìn xuống Vũng Hải Âu. Cái vịnh nhỏ này ở phía đông hòn đảo. Đôi khi người ta tới đây để tắm biển vào buổi sáng khi muốn được bình an.
Rosamund nói: “Thật tuyệt khi tránh xa mọi người.”
Marshall lầm bầm không nghe rõ: “Ờ… phải.” Anh lăn mình nằm xuống hít ngửi lởp cỏ mượt êm. “Thơm thật. Còn nhớ vùng đồi cỏ ở Shipley không?”
“Nhớ chứ.”
“Hồi ấy vui nhỉ?”
“Vâng.”
“Cô không thay đổi nhiều, Rosamund ạ.”
“Có chứ. Em đã thay đổi rất nhiều đó.”
“Cô đã rất thành công, giàu, có đủ mọi thứ, nhưng vẫn là cô em Rosamund ngày xưa.”
Rosamund thì thầm: “Ước gì em được như thế.”
“Được cái gì chứ?”
“Không có gì. Thật đáng tiếc phải không Kenneth, chúng mình không giữ được bản tính tốt đẹp và lý tưởng cao cả hồi còn trẻ nhỉ?”
“Anh không biết bản tính của cô đã có lúc tốt đẹp đấy, cô bé ạ. Cô vẫn thường có những cơn thịnh nộ kinh người. Có lần anh suýt chết ngạt khi cô lên cơn tam bành với anh đấy.”
Rosamund cười. “Anh còn nhớ cái ngày chúng mình dắt con chó Toby xuống sông bắt chuột xạ hay không?”
Họ dành mấy phút để hồi tưởng lại những cuộc phiêu lưu khi xưa.
Rổi sau đó đến một khoảnh khấc tạm dừng.
Rosamund mân mê cái móc trên túi xách.
Sau cùng cô hỏi lại:
“Kenneth này?”
“Ờ,” lời đáp lại của anh không rổ ràng. Kenneth vẫn nằm úp mặt trên thảm cỏ.
“Nếu em nói với anh điều gì đó có lẽ hỗn láo quá đáng, anh sẽ không bao giờ nói chuyện với em nữa chứ?”
Anh lăn mình ngồi dậy.
“Anh nghĩ mình sẽ không bao giờ,” anh nói thật nghiêm túc, “xem bất cứ điều gì cô nói là hỗn láo cả. Cô biết đấy, cô là chỗ thân tình mà?”
Cô gật đầu chấp nhận tất cả ý nghĩa của cụm từ sau cùng ấy. Chỉ che giấu niềm vui thích mà nó đem đến cho cô.
“Kenneth, sao anh không ly dị đi?”
Mặt anh biến sắc rồi đanh lại - vẻ hạnh phúc biến mất hẳn. Anh lấy ống điếu từ trong túi ra rồi nhồi thuốc vào.
Rosamund nói: “Em xin lỗi nếu đã làm cho anh bực mình.”
Kenneth bình thản đáp: “Cô chẳng làm cho anh bực mình đâu?”
“Thế thì vì sao anh lại không ly dị?”
“Cô không hiểu đâu, cô em thân mến ạ?”
“Có phải anh - yêu cô ta kinh khủng quá không?”
“Không phải vì chuyện ấy đâu. Anh đã kết hôn với cô ấy mà.”
“Em biết rồi. Nhưng mà - cô ta đã mang tai mang tiếng.”
Kenneth vừa ngẫm nghĩ một lát, vừa ấn thuốc lá xuống thật kỹ lưỡng.
“Mang tai mang tiếng ư? Anh cho là có đấy.”
“Anh có thể ly dị với cô ta mà, Ken.”
“Cô em thân mến ạ, cô không việc gì phải nói ra một điều như thế. Chỉ vì đàn ông hơi say đắm cô ấy một chút không thể nói là cô ấy cũng say đắm họ.”
Rosamund nghiền ngẫm kỹ một lời đối đáp. Rồi cô nói:
“Anh có thể sắp xếp để cô ta đòi ly dị với anh, nếu anh thích cách ấy hơn.”
“Anh dám nói mình có thể làm như thế.”
“Anh cần phải làm thế, Ken ạ. Thật tình ý em là thế đó. Có một đứa con mà.”
“Linda à?”
“Vâng, là Linda.”
“Linda liên can gì đến chuyện ấy chứ?”
“Arlena không hợp với con bé. Thật sự là như thế. Em nghĩ Linda cảm thấy hết sức tồi tệ.”
Marshall châm một que diêm vào ống điếu. Giữa hai lần bập bập khói thuốc anh nói: “Phải - có gì đó trong chuyện ấy. Anh cho rằng Arlena và Linda không hợp nhau lắm. Có lẽ chẳng thích hợp với một con bé. Có hơi phiền phức một chút.”
“Em thích Linda - thích lắm. Nó có gì đó - thật tuyệt.”
“Nó giống mẹ nó. Khó tính y như Ruth.”
“Thế anh không nghĩ - thật sự - anh cần phải tống khứ Arlena đi hay sao?”
“Thu xếp một cuộc ly dị à?”
“Vâng. Người ta ly dị suốt ấy mà.”
Bỗng dưng Kenneth Marshall nói mãnh liệt:
“Đúng. Và đó chính là điều anh rất ghét.”
“Ghét sao?” Cô giật mình kinh ngạc.
“Phải. Dạo này thường có quan điểm sống kiểu ấy. Nếu nhận làm một việc và không thích nó, thế thì cứ việc thoát khỏi nó càng sớm càng tốt. Chết tiệt, phải có cái gì gọi là thiện ý chứ. Nếu ta kết hôn với một phụ nữ và hứa hẹn chăm sóc cho cô ấy thế thì đấy là do ta muốn làm vậy. Đấy là việc khó khăn phức tạp. Ta đã gánh vác trách nhiệm rồi mà. Anh chán chuyện kết hôn vội rồi dễ dàng ly dị. Arlena là vợ của anh, chỉ có thế thôi.”
Rosamund chồm người tới trước. Cô hạ giọng nói: “Vậy ra anh là người như thế đó? Cho đến khi cái chết chia lìa đôi lứa hay sao?”
Kenneth Marshall gật đầu. “Đúng thế.”
“Em hiểu rồi,” cô nói.
Đang đi xuống một lối đi nhỏ hẹp quanh co trở về Vịnh Leathercombe, ông Horace Blatt suýt đụng phải Christine Redfern ở một góc đường.
Trong lúc cô ép sát mình vào hàng rào, ông đạp phanh thật mạnh để thắng gấp chiếc Sunbeam lại.
“Ô là la,” ông Blatt tươi cười nói.
Đó là một người đàn ông to bè bè khuôn mặt đỏ và một vành tóc đo đỏ quanh một chỗ bị hói bóng loáng trên đầu. Rõ ràng ông có tham vọng trở thành sức sống và linh hồn của bất cứ nơi nào ông tình cờ vào đó. Theo ý kiến mà ông phát biểu hơi ồn ào một chút, Khách sạn Hải Tặc cần phải làm cho tươi sáng lên. Ông thật bối rối vì cái kiểu người ta dường như biến đi đâu mất khi ông xuất hiện.
“Suýt biến cô thành mứt dâu rồi nhỉ?” ông nói vui.
“Vâng, đúng thế.”
“Lên xe đi,” ông bảo.
“Thôi, cảm ơn. Tôi đi bộ được rồi.”
“Vớ vẩn,” ông nói. “Ô tô để làm gì kia chứ?”
Xiêu lòng vì thấy cần thiết, Christine Redfern leo lên xe.
Ông Blatt khởi động lại động cơ đã ngừng lại do trước đó phanh gấp. Ông hỏi thăm:
“Cô làm gì mà lại đi vơ vẩn có một mình thế? Không ổn chút nào với một người đẹp như cô.”
Christine vội đáp: “Ôi, tôi thích đi một mình.”
Ông thúc khuỷu tay một cái thật khủng khiếp vào cô ta, cùng lúc đó suýt đâm xe vào hàng rào.
“Các cô lúc nào cũng nói thế. Chẳng phải ý họ vậy đâu. Cô biết đấy, Khách sạn Hải Tặc ấy cần được làm cho vui tươi lên một tí. Nó chẳng có gì vui vẻ cả. Trong ấy chẳng có sinh khí. Dĩ nhiên có khá nhiều hình nộm lưu trú ở đấy. Trước tiên là rất nhiều trẻ con và còn rất nhiều lão già cổ hủ nữa. Có lão người Anh gốc Ấn Độ hết sức khó chịu và ông cha xứ sung sức, mấy người Mỹ cứ lải nhải nói mãi và người ngoại quốc để ria mép ấy - hàng ria mép của ông ta khiến tôi phải bật cười. Hẳn ông ta là thợ làm tóc, cái gì đấy đại loại như thế.”
Christine lắc đầu. “Ô không phải đâu, ông ta là thám tử đấy.”
Ông Blatt lại để cho chiếc xe suýt đâm vào hàng rào. Ông hỏi:
“Thám tử sao? Cô muốn nói ông ta đang cải trang à?”
Christine thoáng mỉm cười.
“Ồ, không phải đâu, thật ra ông ta lúc nào cũng thế. Là Hercule Poirot đấy. Chắc hẳn ông từng nghe nhắc đến rồi.”
“Tôi không kịp nhớ ra tên ông ta. À phải rồi, tôi từng nghe nhắc đến ông ta. Nhưng tôi tưởng ông ta đã chết rồi. Mẹ kiếp, ông ta chết đi mới phải chứ. Điều tra cái gì ở dưới này thế?”
“Chẳng điều tra gì cả - đi nghỉ hè thồi.”
“À, có thể như thế,” ông Blatt có vẻ nghi ngờ. “Trông hơi giống một gã hay tếu táo nhỉ?”
“À,” Christine ngập ngừng đáp lại. “Có lẽ hơi khác thường một chút.”
“Ý tôi muốn nói là có chuyện gì không ổn với Scotland Yard à? Tôi thấy người Anh thật phiền phức.”
Ông xuống tới chân đồi và, với một tiếng còi inh ỏi đắc thắng, lái xe chạy vào trong gara của Khách sạn Hải Tặc, vì thủy triều lên nên nằm trên đất liền đối diện với khách sạn.
Linda Marshall đang ở trong một cửa hiệu nhỏ đáp ứng nhu cầu của khách đến viếng thăm Vịnh Leathercombe. Một bên dành hết cho các kệ sách có thể mượn về với hai xu. Những quyển mới nhất cũng đã mười năm tuổi, một số hai mươi năm, nhiều cuốn còn cũ hơn.
Trước tiên cô bé lấy một quyển rồi sau đó một quyển nữa từ trên kệ sách với vẻ hoài nghi và liếc nhìn vào trong kệ. Nó quyết định chẳng thể nào đọc nổi quyển The Four Feathers hay Vice Versa . Nó lấy ra một quyển sách nhỏ dày khấc, bìa da màu nâu.
Thời gian trôi qua…
Giật mình một cái cô bé nhét quyển sách trà vào trong ngăn kệ khi Christine Redfern cất tiếng:
“Cháu đang dọc gì đấy, Linda?”
Linda vội đáp: “Không gì cả. Cháu đang tìm một quyển sách ạ.”
Nó lôi bừa ra quyển Cuộc hôn nhân của William Ashe rồi vừa tiến tới quầy thu ngân vừa mò tìm hai đồng xu.
Christine nói: “Ông Blatt vừa mới lái xe chở cô về - sau khi suýt nữa đã đụng trúng cô. Thật tình cô cảm thấy chẳng thể nào cùng cuốc bộ với ông ấy qua cả con đường đắp cao, nên đã nói là phải mua vài món hàng.”
“Ông ấy thật khiếp, cô nhỉ?” Linda nói. “Lúc nào cũng khoe mình giàu có và cứ nói những câu bông đùa dở tệ chịu không nổi.”
“Tội nghiệp ông ấy. Người ta thật sự thấy hơi tội nghiệp cho ông ta.”
Linda không đồng tình. Nó thấy ông Blatt chẳng có gì đáng thương hại cả. Nó còn trẻ và nhẫn tâm.
Nó ra khỏi cửa hiệu cùng với Christine rồi đi xuống về phía con đường đắp cao.
Linda bận rộn với những suy nghĩ riêng. Nó thích Christine Redfern. Theo Linda, Christine và cô Rosamund Damỉey là những người duy nhất có thể chịu đựng được trên hòn đảo này. Cả hai không hề nói đi nói lại về một chuyện. Bây giờ khi đang cùng với Christine chẳng nói chẳng rằng, Linda nghĩ như thế mới là phải lẽ. Nếu chẳng có gì đáng nói, sao lúc nào cũng phải kiếm chuyện phiếm mà nói cơ chứ?”
Nó lạc vào những suy nghĩ rối bời.
Bất chợt nó hỏi: “Cô Redfern này, có bao giờ cô cảm thấy mọi thứ đều quá đáng sợ - quá khủng khiếp - đến nỗi cô sẽ - ôi, nổ tung…?”
Những lời lẽ gần như khôi hài, nhưng khuôn mặt cau lại có vẻ bồn chồn lo lắng của Linda chẳng hề khôi hài. Ban đầu Christine nhìn Linda với ánh mắt mơ hồ rõ là không hiểu nổi, quả thật cô thấy chẳng có gì để cười cợt…
Christine thở hắt nói: “Có - có - cô đã có lúc cảm thấy - đúng như thế…”
Ông Blatt hỏi: “Thế ông là thám tử lừng danh ấy, hử?” Họ đang ở quầy rượu, nơi ông Blatt khoái lai vãng nhất.
Hercule Poirot công nhận lời nhận xét đó với sự thiếu khiêm tốn như thường lệ.
Ông Blatt tiếp tục: “Và ông đang làm gì ở dưới này - đang làm việc à?”
“Không, không phải. Tôi đang nghỉ ngơi.”
Ông Blatt nháy mắt. “Là ông nói thế thôi, đúng không?”
Poirot đáp: “Không nhất thiết phải vậy đâu.”
“Ôi! Này này! Với tôi ông cứ yên tâm. Tôi không rêu rao lại tất cả những gì mình nghe thấy đâu! Hẳn sẽ không tiếp tục được con đường của mình nếu như chẳng biết cư xử. Nhưng ông biết hầu hết mọi người làm gì - cứ lách cha lách chách mọi chuyện họ nghe được! Giờ ông không chịu nổi chuyện đó! Chính vì thế ông phải giấu là mình đến đây để nghỉ hè chứ chẳng làm chuyện gì khác.”
Poirot hỏi: “Và tại sao ông lại cho là ngược lại?”
Ông Blatt nheo một mắt nói: “Tôi là người từng trải. Biết rõ dáng vẻ bên ngoài của một con người. Một người như ông sẻ đến sòng bạc Deauville hay Le Touquet hoặc xuống Rừng Thông Juan. Đấy là - thành ngữ gì ấy nhỉ? - là nơi trú ngụ tinh thần của ông.”
Poirot thở dài. Ông nhìn ra cửa sổ. Mưa đang rơi và sương mù vây quanh hòn đảo.
“Có thể ông nói đúng! Ở dó ít nhất lúc thời tiết ẩm ướt thường có những trò tiêu khiển.”
“Casino muôn năm!” ông Blatt nói. “Ông biết không, tôi đã phải làm việc khá vất vả gần hết cả đời. Chẳng có thời gian nghỉ lễ hay hưởng món ngon vật lạ. Tôi quyết định sẽ thành đạt và đã thành đạt rồi. Bây giờ tôi có thể làm những gì mình thích. Tiền của tôi cũng nhiều như ai. Tôi đã hiểu chút ít về cuộc đời, xin nói cho ông biết.”
Poirot lẩm bẩm: “À, vậy sao?”
“Chẳng hiểu sao tôi lại đến nơi này nữa,” ông Blatt nói tiếp.
Poirot nhận xét: “Tôi cũng thắc mắc như vậy đấy.”
“Này, thắc mắc cái gì thế?”
Poirot phẩy tay nói thật hùng hồn:
“Không phải tôi không biết nhận xét đâu. Tôi nghĩ gần như chắc chắn ông sẽ chọn sòng bạc Deauville hay Biarritz.”
“Thay vì thế, cả hai chúng ta đều đến đây, hử?” Ông Blatt cười khục khặc. “Thật tình không hiểu sao tôi lại đến đây.” Ông trầm ngâm suy nghĩ. “Chắc là nghe có vẻ lãng mạn. Khách sạn Hải Tặc. Đảo Buôn Lậu. Kiểu địa chỉ ấy làm cho ta buồn cười. Khiến ta nghĩ đến lúc mình còn là một thằng nhãi ưa chơi trò cướp biển và buôn lậu, đủ điều đủ chuyện.”
Ông cười hơi ngượng ngập.
“Lúc còn nhỏ, tôi từng lái thuyền buồm đi chơi một chút. Không phải ở vùng này đâu. Ra khơi ở vùng bở biển phía đông. Thật lạ là kiểu sở thích ấy chẳng bao giờ hoàn toàn rời bỏ ta. Tôi có thể mua một du thuyền tuyệt vời nhất tùy thích nhưng không hiểu sao thật tình tôi không có sở thích ấy. Tôi thích ngao du trên thuyền nhỏ hai buồm. Redfern cũng ham mê lái thuyền buồm. Cậu ấy từng ra khơi với tôi một hai lần rồi. Bây giờ không giữ được cậu ấy - lúc nào cũng quanh quẩn bên cô vợ tóc đỏ của Marshall.”
Ông ta tạm dừng lại rồi hạ giọng nói tiếp.
“Hầu hết mọi người đều là những que củi khô trong khách sạn này! Cô vợ của Marshall gần như là người duy nhất còn có sinh khí! Tôi nghĩ ông chồng có lý do phải trông chừng cô ta. Đủ điều đủ chuyện về cô ta vào cái thời còn diễn trên sân khấu - và về sau này nữa! Đàn ông gục đổ dưới chân cô ta. Rồi sẽ có ngày xảy ra chuyện rắc rối cho mà xem.”
Poirot hỏi: “Rắc rối kiểu nào vậy?”
Horace Blatt đáp: “Chuyện ấy còn tùy. Xin nói về Marshall, ông ta là người có tính khí kỳ khôi. Thực tế tôi biết ông ta là người như thế. Từng nghe kể một chuyện về ông ta. Tôi từng gặp kiểu người trầm lặng ấy. Chẳng bao giờ biết đường nào mà lần với loại người ấy. Redfern nên coi chừng đấy.”
Ông đột nhiên ngừng lại khi người ông vừa nhắc tới bước vào quầy rượu. Ông tiếp tục nói lớn tiếng có vẻ ngượng ngùng:
“Và như tôi nói đấy, lái thuyền buồm quanh bờ biển này cũng có cái thú của nó. Chào Redfern, uống với tôi một ly nhé? Cậu dùng gì? Martini không pha hả? Tốt. Còn ông thi sao, Poirot?”
Thám tử lắc đầu. Patrick Redfern ngồi xuống rồi nói:
“Lái thuyền buồm sao ạ? Đấy là thú vui tuyệt nhất trần đời. Ước gì tôi có thế tham gia nhiều hơn. Lúc còn bé tôi mà rảnh là lại lao lên một chiếc thuyền buồm nhỏ quanh bờ biển này.”
Poirot hỏi: “Vậy là anh biết rõ vùng này hả?”
“Dĩ nhiên! Tôi biết nơi này trước khi có khách sạn cơ. Chỉ có vài ngôi nhà nhỏ của dân chài ở Vịnh Leathercombe và một ngôi nhà cổ gần sụp đổ đóng cửa kín mít, trên đảo này.”
“Có một ngôi nhà ở đây hả?”
“À có đấy, nhưng nhiều năm chẳng có ai ở trong ấy cả. Gần như sụp đổ. Trước đây thường có đồn đại về những lối đi bí mật từ ngôi nhà ấy ra đến Động Tiên. Còn nhớ chúng tôi vẫn luôn tìm kiếm lối đi bí mật ấy.”
Horace Blatt đánh đổ rượu, ông chửi rủa, lau người rồi hỏi:
“Động Tiên này là cái gì thế?”
Patrick trả lời:
“Ôi, ông không biết sao? Nó ở trên Vũng Tiên. Không dễ tìm được lối vào trong ấy đâu. Nó ở giữa rất nhiều tảng đá mòn chất đống ở một đầu. Chỉ là một khe nứt dài và hẹp. Chỉ có thể ép mình len qua đấy. Bên trong mở rộng ra thành một cái động hết sức lớn. Có thể hình dung chuyện đó thật vui thú xiết bao với một thằng bé. Một lão dân chài đã chỉ nó cho tôi. Ngày nay ngay cả dân chài cũng chẳng biết đến nó. Hôm nọ tôi hỏi một ông vì sao nơi ấy gọi là Vũng Tiên mà ông ta không biết.”
Poirot nói: “Nhưng tôi vẫn không hiểu. Tiên này là tiên gì vậy?”
Patrick Redfern đáp:
“Ôi, đấy là kiểu mẫu điển hình của vùng Devonshire. Có động tiên ở Sheepstor trên Bãi Hoang. Phải bỏ lại một kẹp tóc làm quà cho tiên. Đấy là thần tiên của bãi đất hoang.”
Poirot nói: “A! Thật là thú vị đó.”
Patrick nói tiếp:
“Còn rất nhiều chuyện truyền tụng về tiên trên vùng Dartmoor. Có những hòn núi người ta bảo thường có tiên cưỡi ngựa rong chơi, và chắc là các chủ trại trở về nhà sau một đêm trong rừng rậm vẫn còn than phiền vì bị tiên dẫn lối dưa đường.”
Blatt hỏi: “Cậu muốn nối khi họ đã bắt cặp với nhau à?”
Patrick Redfern mỉm cười đáp:
“Chắc chắn dấy là lẽ thường tình!”
Ông Blatt nhìn đồng hô đeo tay.
“Tôi vào dùng bữa tối đây. Nói chung tôi thích cướp biển nhất, chứ chẳng thích thần tiên đâu, Redfern ạ.”
Patrick Redfern bật cười khi ông ta đi ra ngoài.
“Tin tôi đi, tôi muốn thấy chính ông già này bị tiên dẫn lối đưa đường.”
Poirot nhận xét với vẻ trầm tư:
“Là doanh nhân dạn dày kinh nghiệm, mà hình như ông Blatt có trí tưởng tượng rất lãng mạn.”
“Chỉ vì ông ta chưa được giáo dục đến nơi đến chốn. Hay là vợ tôi thường nói như thế. Hãy xem ông ta đọc cái gì đi! Chẳng có gì ngoài những truyện kinh dị hay chuyện Miền Tây Hoang Dã.”
“Ông muốn nói ông ấy vẫn còn tâm tính của một cậu bé hay sao?”
“À, ông không nghĩ thế sao, thưa ông?”
“Tôi thì chưa hiểu được nhiều về ông ấy.”
“Tôi cũng chưa. Từng lái thuyền buồm ra biển với ông ta chừng một hai lần - nhưng thật ra ông ta chẳng thích có bất cứ ai đi cùng. Ông ta thích đi một mình hơn.”
“Chuyện đó quả là kỳ lạ. Thật đặc biệt, chẳng giống thói quen của ông ấy khi lên bờ.”
Redfern cười lớn. “Tôi biết. Tất cả chúng ta có chút khó khăn khi cố tránh xa ông ta. Ông ta muốn biến chỗ này thành một nơi pha tạp giữa quán rượu Margate và sòng bạc Le Touquet.”
Poirot không nói gì một lúc lâu. Ông đang nghiên cứu nét mặt tươi cười của anh bạn trẻ rất chăm chứ. Đột nhiên ông nói thật bất ngờ:
“Chắc ông Redfern đây thích hưởng thụ cuộc sống.”
Patrick ngạc nhiên ngó ông lom lom. “Quả đúng như thế. Sao lại không chứ?”
“Quả thật sao lại không,” Poirot đồng ý. “Tôi xin chúc mừng ông về điều đó.”
Khẽ mim cười, Patrick Redfern nói: “Cảm ơn ông.”
“Chính vì vậy, là một người lớn tuổi, lớn hơn ông rất nhiều, tôi mạo muội khuyên ông một điều.”
“Gì thế, thưa ông?”
“Một ông bạn rất khôn ngoan trong lực lượng cảnh sát cách đây nhiều năm từng nói với tôi: Này anh bạn Hercule, nếu muốn được yên thân thì tránh xa đàn bà đi nhé! ”
“Tôi e là hơi muộn mất rồi, thưa ông. Tôi đã có vợ, ông biết rồi mà.”
“Tôi biết chứ. Vợ ông là một phụ nữ rất duyên dáng, rất hoàn hảo. Tôi nghĩ cô ấy yêu ông lắm đó.”
Patrick Redfern gắt: “Tôi rất yêu cô ấy.”
“A, tôi rất vui khi nghe anh nói như vậy.”
Patrick cau mày, giọng anh ta chợt như sấm nổ. “Này ông Poirot, ông đang nói đến cái gì thế?”
“ Les Femmes. Phụ nữ. ” Poirot nghiêng người tới trước, đôi mắt lim dim. “Tôi biết được đôi điều về phụ nữ. Họ có khả năng làm cho cuộc sống thành ra rắc rối, phức tạp chẳng chịu nổi. Còn người Anh thì xử lý chuyện của mình thật lạ lùng. Nếu nhất thiết phải tới đây, ông Redfern à, nhân danh Chúa, ông có mang vợ theo làm gì?”
Redfern giận dữ đáp lại: “Tôi chẳng hiểu ông muốn nói cái gì nữa.”
Poirot nói thật điềm tĩnh:
“Ông hoàn toàn hiểu dược mà. Tôi đâu ngờ nghệch tới nỗi đi tranh cãi với một người đàn ông đang mê đắm. Chỉ nhắc ông cẩn thậnthôi.”
“Ông lại nghe lời gièm pha phỉ báng chết tiệt. Bà Gardener, cái bà Brewster ấy - chỉ đưa chuyện suốt ngày là giỏi. Chỉ vì một phụ nữ xinh đẹp - bọn họ cứ đả kích, như đổ ập xuống cô ta một bao than đá.”
Poirot đứng lên, khẽ lẩm bẩm:
“Có thật ông còn non trẻ như tất cả những gì ông nói hay không?”
Vừa lắc đầu ông vừa rời khỏi quầy rượu. Patrick Redfern giận dữ nhìn theo.
Từ trong phòng ăn đi ra, Hercule Poirot tạm dừng lại trong sảnh. Cửa đang mở - một làn hơi dịu mát ban đêm lùa vào. Mưa đã tạnh, sương mù đã tan. Lại là một đêm thật tuyệt.
Ông gặp Christine Redfern đang ngồi ở chỗ cô thích nhất trên gành đá. Dừng lại bên cạnh, ông nói:
“Chỗ ngồi này thật ẩm ướt. Cô không nên ngồi đây. Sẽ bị cảm lạnh đó.”
“Không đâu ạ. Không sao đâu ạ.”
“Ái chà chà, cô đâu phải là trẻ con. Là một phụ nữ có học thức, cô phải xem xét mọi việc có lý lẽ chứ.”
Cô lạnh lùng đáp lại:
“Tôi có thể bảo đảm với ông tôi không bao giờ bị nhiễm lạnh đâu.”
“Cả một ngày rất ẩm ướt. Mưa gió, sương mù khắp nơi, tới nỗi chẳng thể nào nhìn xuyên qua. Eh bien , bây giờ thi ra sao rồi? Sương mù đã tan, trời quang mây tạnh, và trên cao sao trời lấp lánh. Thật sinh động như cuộc sống, thưa bà.”
Christine hạ giọng nói thật hung hàng:
“Ông có biết tôi chán điều gì nhất ở nơi này không?”
“Điều gì vậy, thưa bà?”
“Lòng thương hại.”
Thốt ra lời lẽ đó như một tiếng roi quất nhẹ, cô nói tiếp:
“Ông tưởng tôi không biết hay sao? Không thấy được hay sao? Lúc nào người ta cũng nói mãi: Tội nghiệp bà Redfern - người phụ nữ nhỏ bé đáng thương. Mà tôi cũng đâu có nhỏ bé, tôi cao lớn mà. Họ nói nhỏ bé vì thương hại tôi thôi. Và tôi chẳng chịu nổi!”
Hercule Poirot thận trọng trải khăn tay làm tấm lót rồi mới ngồi xuống. Có vẻ đăm chiêu suy nghĩ, ông nói: “Có chuyện gì đó thì phải.”
“Người đàn bà ấy…” Christine nói rồi ngừng lại.
Poirot nghiêm giọng hỏi:
“Cô có cho phép tôi được nói một điều hay không, thưa cô? Một điều cũng có thật như sao trời trên đầu chúng ta, được không? Cái cô Arlena Stuart - hay là Arlena Marshall đó - trên đời này — không đáng quan tâm đâu.”
“Vớ vẩn.”
“Xin cam đoan với cô là đúng như vậy đó. Quyền năng tuyệt đối của họ chỉ có giá trị nhất thời thôi. Để đáng được quan tâm - thật sự đáng quan tâm - phụ nữ phải có lòng tốt hoặc trí tuệ.”
Christine tỏ vẻ khinh miệt.
“Ông nghĩ đàn ông quan tâm đến lòng tốt hay trí tuệ à?”
Poirot nghiêm giọng đáp: “Về căn bản thì đúng như vậy đó.”
Christine cười khẩy. “Tôi không đồng ý với ông.”
“Chồng cô yêu cô đấy. Tôi biết điều đó.”
“Ông không thể nào biết được đâu.”
“Được, được chứ. Tôi biết điều đó. Từng thấy ông ấy nhìn cô mà.”
Bất đồ Christine sụp đổ. Tựa vào bờ vai nâng đỡ của Poirot, nước mắt tuôn trào.
“Tôi không chịu nổi… Không chịu nổi…”
Vỗ vỗ lên cánh tay cô, Poirot dỗ dành:
“Kiên nhẫn - chỉ cần kiên nhẫn.”
Christine ngồi thẳng dậy, lấy khăn tay lau nước mắt rồi nói với giọng nghèn nghẹt:
“Không sao cả. Bây giờ tôi đỡ rồi. Cứ đi đi! Tôi thích - thích ở một mình hơn.”
Ông nghe theo, để cô ngồi lại đó rồi theo lối mòn quanh co đi xuống khách sạn.
Khi gần tới nơi, bỗng nghe có tiếng thì thầm. Ông rẽ sang một bên lối mòn một quãng rất ngắn. Có một khoảng trống trong những lùm cây.
Ông thấy Arlena Marshall và Patrick Redfern đang ở bên cạnh cô ta. Giọng người đàn ông rộn ràng cảm xúc:
“Anh mất trí vì em rồi - mất trí - em đã khiến anh phát điên lên… Em quả có để ý một chút - có để ý chứ?”
Trông thấy khuôn mặt của Arlena Marshall - ông nghĩ giống như một con mèo mượt mà sung sướng -đó là một con thú chứ không phải con người.
Cô ta đáp thật dịu dàng:
“Dĩ nhiên rồi, Patrick anh yêu, em yêu quý anh lắm. Anh biết mà…”
Lần này Hercule Poirot ngắt cuộc nghe trộm của mình. Ông trở ra lối mòn rồi tiếp tục đi xuống khách sạn. Chợt một bóng người đến gần ông. Đó là đại úy Marshall. Anh ta nói: “Một đêm thật là đặc biệt phải không? Sau một ngày tồi tệ.” Anh ngước nhìn lên bầu trời. “Có lẽ ngày mai thời tiết sẽ rất tuyệt.”