Chương 8
Họ đang đứng ở nơi trước đây là phòng ngủ của Ariena Marshall.
Hai cửa sổ lớn trổ ra một ban công nhìn xuống bãi tắm và biển. Ánh nắng tràn vào căn phòng, chiếu lấp lánh trên dãy chai lọ sắp xếp lộn xộn trên bàn phấn của Arlena.
Ở đây có đủ thứ mỹ phẩm và thuốc mỡ làm liền da vẫn quen dùng ở các thẩm mỹ viện. Giữa đám đồ lề phụ nữ này, ba người đàn ông di chuyển có chủ định. Thanh tra Colgate đi loanh quanh, đóng mở mấy cái ngăn kéo.
Rồi ông ta làu bàu một tiếng khi thấy một gói nhỏ toàn các lá thư đã gập lại. Ông và Weston cùng soát qua qua.
Hercule Poirot đi tới cái tủ quần áo. Ông mở cánh cửa tủ bên có treo đồ, nhìn ngắm vô số những váy áo và đồ thể thao treo trong đó. Ông mở phía bên kia. Quần áo lót đàn bà xốp như bọt biển nằm chất đống. Trên một ngăn rộng là những cái mũ. Còn hai cái nón bằng giấy bìa cứng màu đỏ son và vàng nhạt nữa - một cái mũ rơm Hawaii to lớn - một cái mũ khác bằng vải lanh xanh sẫm có vành rũ xuống và ba hay bốn cái mũ nhỏ lố lăng chắc hẳn mỗi cái phải đạt rất nhiều kỷ lục Guinness - một kiểu mũ bêrê màu xanh sẫm - một cái mũ nhưng đen trông như một mớ lông không hơn không kém - một cái mũ không vành của đàn bà màu xám nhạt.
Poirot đứng nhìn chằm chằm từng món một - một nụ cười độ lượng hơi hé nở trên môi ông.
“ Les femmes! Phụ nữ! ” ông lẩm bẩm.
Đại tá Weston đang gấp lại những lá thư.
“Ba bức của anh chàng Redfern,” ông nói. “Chú lừa non tơ đáng thương! Vài năm nữa anh ta sẽ hiểu là không nên viết thư cho phụ nữ. Phụ nữ vẫn luôn giữ lại các bức thư dù thề thốt là đã đốt đi cả rồi. Có một bức thư khác đây này, dòng ghi tên nước cũng như thế.”
Ông chìa nó ra và Poirot cầm lấy.
Arlena yêu quý,
Chúa ơi, anh thấy buồn chán quá! Sẽ ra đi đến Trung Qụốc - và có lẽ không gập lại em nhiều năm, nhiều năm nữa. Anh không biết có gã đàn ông nào có thể say mẻ một người đàn bà đắm đuối như anh say mê em. Cảm ơn đã cho tấm séc. Bây giờ họ sẽ không thưa kiện nữa. Thế nhưng suýt chút nữa là tiêu đời rồi, và tất cả chỉ vì anh muốn kiếm nhiều tiền cho em. Em có tha thứ cho anh được không? Anh muốn gắn những viên kim cương vào vành tai em - đôi tai đáng yêu của em - và khoác chuỗi ngọc trai trắng như sữa quanh cổ em, có điều người ta bảo thời nay ngọc trai chẳng tốt. Thế thì một viên ngọc lục bảo đẹp tuyệt trần nhé? Phải, đúng là cái món ấy. Một viên ngọc cực to màu xanh lục thật mát mắt, đầy ánh lửa ẩn chứa bên trong.
Đừng quên anh nhé - nhưng em sẽ không quên, anh biết mà. Em là của anh - mãi mãi.
Tạm biệt - tạm biệt - tạm biệt.
J.N.
Thanh tra Colgate nói: “Có lẽ cần tìm hiểm xem liệu J.N. có thật sự đi Trung Quốc hay chưa. Nếu chưa - à, thì có thể hắn là kẻ ta đang tìm kiếm. Say mê người đàn bà ấy, lý tưởng hóa cô ta, đột nhiên phát hiện ra mình bị đùa bỡn. Đối với tôi có vẻ như đây là anh chàng cô Brewster từng đề cập đến. Đúng, tôi nghĩ điếu này có thể hữu ích đấy.”
Hercule Poirot gật đầu. “Phải, lá thư đó thật quan trọng. Tôi thấy nó rất quan trọng đó.”
Ông xoay người lại, đăm đăm nhìn quanh gian phòng - nhìn những cái chai trên bàn phấn - cái tủ quần áo đang mở cửa và một con búp bê Pierrot to tướng nằm lăn trên giường một cách xấc xược.
Họ đi vào phòng đại úy Marshall liền kề với phòng cô vợ nhưng không có cửa nối thông và không có ban-công. Cùng quay về một hướng và cũng có hai cửa sổ nhưng nhỏ hơn rất nhiều. Giữa hai cửa sổ có một cái gương khung mạ vàng treo trên tường. Trong góc ngoài cửa sổ bên tay phải là bàn trang điểm. Trên đó có hai bàn chải bằng ngà voi, một bàn chải quần áo và một chai dầu bôi. Trong góc phòng gần cửa sổ bên tay trái là cái bàn viết, trên đó để một máy đánh chữ đang mở ra và một xấp giấy ở bên cạnh.
Colgate lướt qua thật nhanh rồi nói:
“Tất cả đều có vẻ khá rõ ràng. A, đây là bức thư anh ta nhắc đến sáng nay. Đề ngày 24 - tức là hôm qua. Còn đây là bì thư có đóng dấu bưu điện Vịnh Leathercombe sáng hôm nay. Có vẻ hoàn toàn trung thực. Bây giờ ta thử nghĩ xem liệu có thể là anh ta đã chuẩn bị sẵn mớ thư từ này hay không.”
Colgate ngồi xuống. Đại tá Weston bảo:
“Chúng tôi sẽ để ông ở lại xem xét, tạm thế đã. Chúng tôi sẽ đi xem qua một lượt những gian phòng còn lại. Bây giờ mọi người đang không được vào hành lang này nên chắc cũng hơi bực mình, khó chịu một chút rồi.”
Kế tiếp họ vào trong phòng Linda Marshall. Phòng này quay về hướng đông, nhìn ra những tảng đá dưới biển.
Liếc nhìn xung quanh một lượt, Weston khẽ nói: “Chắc ở đây chẳng có gì để xem. Nhưng có khả năng Kenneth Marshall đã để gì đấy trong phòng con gái vì không muốn ta tìm thấy. Tuy thế không thể có chuyện ấy. Dường như chẳng có vũ khí hay bất cứ thứ gì cần phải giấu đi cả.”
Weston trở ra ngoài.
Hercule Poirot nán lại ở đó. Ông thấy có gì đó khiến ông chú ý ở trong lò sưởi. Cái gì đó vừa mới bị đốt gần đây. Ông quỳ xuống xem xét thật kỹ, đặt những thứ vừa tìm thấy lên một tờ giấy. Nến nóng chảy đông lại thành một cục to tướng méo mó - mấy mảnh giấy hay bìa cứng màu xanh lá cây, có thể là một tờ lịch bị xé rời ra vì đó là một mảnh giấy chưa bị cháy mang một con số 5 to tướng và một dòng chữ in còn sót lại… điều cao cả… Còn có một cái đinh ghim và thứ gì đó của thú vật bị cháy, có lẽ là lông.
Poirot sắp xếp chúng thành một hàng gọn ghẽ rồi nhìn đăm đăm. Ông lẩm bẩm:
“ Hãy thực hiện những điều cao cả, chớ có ngày mơ tưởng cả ngày! Có thể là câu đó. Nhưng sưu tầm mấy thứ này để làm gì? C’est fantastique! Thật khó tin! ” Rồi ông cầm cái đinh ghim lên và mắt ông mở to, sáng rực. Ông thì thầm:
“ Pour l’amour de Dieu! Vì chúa lòng lành! Có lẽ nào lại như vậy?”
Đang quỳ bên lò sưởi, Hercule Poirot từ từ đứng dậy, nhìn quanh gian phòng. Lần này xuất hiện một biểu hiện hoàn toàn mới mẻ trên khuôn mặt ông. Nghiêm trang và gần như nghiêm khắc.
Bên trái bệ lò sưởi có mấy ngăn kệ với một hàng những quyển sách. Poirot đăm chiêu xem qua một lượt các tựa sách.
Một quyển Kinh Thánh, một bản kịch của Shakespeare đã rách tơi tả, Cuộc hôn nhân của William Ashe do bà Humphry Ward sáng tác. Mẹ kế trẻ của Charlotte Yonge. Chàng trai ở hạt Shropshire . Án mạng trong nhà thờ của Eliot . Thánh Joan của Bernard Shaw. Cuốn theo chiều gió của Margaret Mitchell. Tòa án bốc cháy của Dickson Carr.
Poirot lấy ra hai quyển sách. Mẹ kế trẻ và William Ashe , liếc nhìn vào bên trong xem con dấu đã mờ nhạt đóng lên trang có tựa sách. Khi chuẩn bị xếp lại chúng vào chỗ cũ thì ông chợt thấy một quyển sách đã được nhét vào đằng sau những quyển kia. Đó là một quyển sách nhỏ, nhàu nhò bẩn thỉu đóng bìa da màu nâu.
Ông lấy nó rồi mở ra xem, gật đầu chậm rãi.
“ Vậy là mình đoán đúng rồi… ! ông lẩm bẩm. “Phải, mình đúng rồi. Nhưng chuyện kia - có lẽ nào cũng như vậy sao? Không, không thể nào, trừ phi…”
Ông đứng đó im lìm bất động, vân vê hàng ria mép trong lúc tâm trí bận rộn xem xét lại toàn bộ vấn đề. Ông lại nói thật nhẹ nhàng:
“ Trừ phi… ”
Đại tá Weston nhìn vào cửa phòng:
“Này này Poirot, còn ở đấy không?”
“Tôi tới ngay. Tới ngay đây,” Poirot kêu lên.
Ông vội vàng đi ra hành lang.
Kế bên phòng Linda là phòng của vợ chồng Redfern.
Poirot ngó vào bên trong quan sát thật kỹ, chú ý một cách tự động đến những dấu vết của hai cá tính khác nhau - tính kỹ lưỡng và gọn gàng ngăn nắp khiến ông liên tưởng tới Christine, và sự bừa bộn là đặc tính của Patrick. Ngoài những đặc điểm trái ngược này thì gian phòng không có gì khiến ông chú ý cả.
Kế đó nữa là phòng Rosamund Darnley, và ông nán lại ở đây trong chốc lát, vì ông lại thấy là vui vì bản sắc của người thuê phòng. Ông chú ý đến vài quyển sách nằm trên chiếc bàn kế bên giường ngủ, đồ trang điểm đơn giản dắt tiền trên bàn phấn. Và nhẹ nhàng bay vào mũi ông - mùi nước hoa cô dùng lan tỏa thoang thoảng.
Kế bên phòng Rosamund ở đầu phía bắc của hành lang là một cửa sổ mở rộng, dẫn tới một ban-công, từ đó có một cầu thang bên ngoài khách sạn, dẫn xuống những tảng đá ở bên dưới.
Đại tá Weston nói: “Đấy là lối đi người ta thường xuống tắm trước bữa điểm tâm - tức là nếu họ tắm ngay bên ngoài các tảng đá, hầu hết bọn họ vẩn thường làm như thể.”
Vẻ quan tâm hiện lên trong ánh mắt Poirot, ông bước ra bên ngoài ngó xuống.
Bên dưới có một lối mòn dẫn tới các nấc thang đục ngoằn ngoèo dẫn xuống các tảng đá gần sát biển. Còn có một lối đi vòng qua khách sạn về phía bên trái.
Ông nói: “Có thể xuống cầu thang này, đi về bên trái, vòng qua khách sạn và ra tới lối đi chính từ con đường đắp.”
Weston gật đầu thêm vào cho đầy đủ câu nói của thám tử:
“Có thể đi cắt qua hòn đảo mà không cần xuyên qua khách sạn.” Ông nói thêm, “Nhưng vẫn có thể bị trông thấy từ cửa sổ.”
“Cửa sổ nào vậy?”
“Hai cửa sổ nhà vệ sinh dùng chung nhìn ra lối đi ấy - hướng bắc - nhà vệ sinh nhân viên và phòng thay đồ dưới tầng trệt. Còn phòng đánh bi-da nữa.”
Poirot gặt đầu. “Tất cả mấy phòng vệ sinh đó đều lắp kính mờ. Người ta cũng không chơi bi-da vào một buổi sáng đẹp trời bao giờ.”
“Chính xác.” Đại tá tạm dừng rồi nói tiếp. “Nếu là anh ta thì chắc chắn anh ta đi theo lối đó.”
“Ông muốn nói đại úy Marshall hả?”
“Phải. Tống tiền hay không tống tiền cũng thế, tôi vẫn cảm thấy cần chú ý tới anh ta. Và dáng vẻ của anh ta - à, anh ta có dáng vẻ thật bất hạnh.”
Poirot nói thật lạnh nhạt:
“Có lẽ vậy. Nhưng dáng vẻ không làm nên một kẻ giết người.”
“Thế ông nghĩ anh ta vô can hay sao?”
Poirot lắc đầu đáp: “Không, tôi không nói như vậy.”
“Ta sẽ xem liệu Colgate có thể tìm ra manh mối nào về chứng cứ ngoại phạm từ máy đánh chữ hay không đã. Trong lúc chờ, tôi phải gặp cô hầu phòng tầng này đang đợi thẩm vấn. Có lẽ phần lớn tùy thuộc vào lời khai của cô ta.”
Cô hầu phòng là một phụ nữ tầm ba mươi tuổi, khoẻ mạnh, lanh lợi, và thông minh. Câu trả lời của cô đến thật dễ dàng.
Đại úy Marshall lên phòng không lâu sau mười giờ ba mươi. Lúc đó cô đang hoàn tất việc dọn phòng. Anh ta yêu cầu cô làm càng nhanh càng tốt.
Cô không trông thấy anh ta về phòng nhưng có nghe tiếng máy đánh chữ một chút xíu sau đó. Cô cho là khoảng chừng mười một giờ kém năm. Lúc dó đang ở trong phòng vợ chồng Redfern. Sau khi dọn xong phòng đó, cô tiếp tục sang phòng cô Darnley ở cuối hành lang. Từ chỗ đó không thể nghe tiếng đánh máy. Cô vào phòng đó có thể nói là ngay sau mười một giờ. Cô nhớ có nghe tiếng chuông nhà thờ Leathercombe điểm giờ khi đi vào. Lúc mười một giờ mười lăm cô xuống lầu để uống trà và ăn vặt như thường vẫn dùng vào giờ đó. Sau đó cô đi dọn các phòng ở dãy bên kia của khách sạn. Trả lời câu hỏi của cảnh sát trưởng, cô giải thích đã dọn các phòng trong hành lang này theo thứ tự như sau:
Phòng Linda, hai nhà vệ sinh dùng chung, phòng và nhà vệ sinh riêng của Arlena Marshall, phòng đại úy Marshall. Phòng và buồng vệ sinh riêng của vợ chồng Redfern, phòng và buồng vệ sinh riêng của cô Darnley. Phòng đại úy và phòng cô con gái không có nhà vệ sinh riêng kế bên.
Suốt thời gian làm phòng và buồng vệ sinh của Rosamund Darnley, cô không nghe tiếng ai đi ngang qua cửa hay ra ngoài bằng cầu thang xuống chỗ các tảng đá, nhưng hoàn toàn có thể cô sẽ không nghe thấy nếu ai đó đi rón rén.
Đại tá hướng các câu hỏi sang đề tài Arlena Marshall.
Không, cô Arlena Marshall không phải là người có thói quen dậy sớm. Cô hầu phòng Gladys Narracott này đã ngạc nhiên khi thấy cửa phòng mở toang và cô ta đã đi xuống ngay sau mười giờ. Một điều hết sức bất thường. Thật vậy.
“Có phải Arlena Marshall vẫn luôn dùng điểm tâm trên giường?”
“Dạ phải, thưa ông, vẫn luôn như vậy. Cũng không nhiều nhặn gì cho lắm. Chỉ có trà, nước cam vắt và một miếng bánh mì nướng thôi. Kiêng cữ để giữ gìn vóc dáng, như rất nhiều quý bà ạ.”
Không, cô không thấy sáng hôm nay cô ta có vẻ gì bất thường cả. Cô ta có vẻ vẫn hoàn toàn bình thường.
“Cô từng nghĩ gì về Arlena Marshall?” Hercule Poirot hỏi lầm bầm.
Nhìn ông chằm chặp, Gladys nói: “Dạ, thật khó cho tôi nói ra, có phải không thưa ông?”
“Phải, nhưng cô phải nói ra thôi. Chúng tôi nóng lòng - rất nóng lòng - nghe cô phát biểu cảm tưởng.”
Cô hầu phòng liếc nhìn cảnh sát trưởng một cái có vẻ hơi khó chịu một chút. Ông này cố làm cho bộ mặt mình có vẻ thông cảm và đồng tình, mặc dù trong lòng ông thấy có phần xấu hổ vì phương pháp tiếp cận của ông bạn đồng nghiệp ngoại quốc.
“Ơ - phải rồi, nói đi!” ông bảo.
Lần đầu tiên Gladys không còn cứng cỏi nữa. Những ngón tay lần mò trên cái váy áo bằng vải in hoa.
Cô trả lời: “Dạ, Arlena Marshall - cô ấy không giống một quý phu nhân, có thể nói như vậy. Tôi muốn nói cô ấy giống diễn viên hơn.”
“Thì cô ấy là diễn viên mà,” đại tá nói.
“Dạ phải, thưa ông, tôi đang nói về chuyện đó. Cô ấy cứ cư xử theo cảm nhận. Cô ấy không - à, không mất công tỏ ra lịch sự nếu không cảm thấy mình cần phải lịch sự. Cô ấy có mỉm cười trong phút chốc, rồi sau đó nếu không tìm được cái gì đó, bấm chuông gọi người hầu không được trả lời ngay lập tức hay đồ giặt ủi chưa trả lại, à, thì cô ấy vô cùng khiếm nhã và thô tục. Có thể nói chúng tôi chẳng ai thích cô ấy cả. Nhưng trang phục của cô ấy lại rất đẹp, và tất nhiên bản thân cô ấy cũng xinh đẹp, thế nên được người ta ái mộ là lẽ đương nhiên.”
Đại tá Weston nói: “Xin lỗi vì phải hỏi cô những điều tôi sắp hỏi cô sau đây, nhưng đó là vì vấn đề sống còn. Cô có thể cho tôi biết quan hệ giữa vợ chồng Marshall như thế nào được không?”
Cô hầu phòng ngần ngừ một lát rồi hỏi lại:
“Ông không - không phải là - ông không nghĩ là ông đại uý đã làm việc đó chứ?”
Hercule Poirot hỏi thật nhanh: “Cô nghĩ vậy sao?”
“Ôi! Tôi không muốn nghĩ vây đâu. Ông ấy là người tốt lắm, đại úy Marshall ấy. Không thể nào làm một việc như vậy - chắc chắn không thể nào.”
“Nhưng cô không chắc chắn lắm - tôi nghe thấy điều ấy trong giọng nói của cô.”
Gladys miễn cưỡng nói: “Ta thường đọc những chuyện như vậy trên báo chí. Khi có ghen tuông! Nếu như cứ tiếp tục - và tất nhiên mọi người đã bàn tán mãi về chuyện đó - tôi muốn nói về chuyện giữa cô ấy và ông Redfern. Còn cô Christine Redfern lại là cũng là người trầm lặng, tử tế quá chừng! Một chuyện nhục nhã! Và ông Patrick Redfern cũng tử tế, nhưng hình như đàn ông luôn chịu bó tay khi gặp người như cô Arlena Marshall - một người đã quen làm theo cách của mình. Chắc chắn các bà vợ phải kiên nhẫn chịu đựng rất nhiều.” Cô thở dài rồi dừng lại một lát. “Nhưng nếu như đại úy Marshall mà phát hiện ra…”
Đại tá hỏi gắt: “Thì sao?”
Cô hầu phòng chậm rãi đáp:
“Đôi lúc tôi từng nghĩ cô Arlena Marshall rất sợ chồng biết chuyện.”
“Điều gì khiến cô nghĩ thế?”
“Chẳng phải là điều gì rõ ràng, thưa ông. Chỉ là tôi cảm thấy - đôi khi cô ấy sợ chồng. Đó là quý ông rất trầm tĩnh, nhưng ông ấy không - ông ấy không dễ dãi đâu ạ.”
“Nhưng cô không thể nói điều gì rõ ràng, cụ thể hay sao? Điều gì hai người ấy từng nói với nhau chẳng hạn?”
Gladys lắc đầu. Đại tá thở dài rồi nói tiếp:
“Bây giờ hãy nói về những bức thư cô Arlena Marshall nhận sáng nay. Cô có thể cho chúng tôi biết điều gì về những bức thư ấy không?”
“Có chừng sáu, bảy lá thư, thưa ông. Tôi không nhớ chính xác.”
“Cô đem chúng lên cho cô ấy à?”
“Dạ, thưa ông. Tôi lấy từ văn phòng như thường lệ, rồi đặt lên khay điểm tâm của cô ấy.”
“Cô còn nhớ điều gì về bề ngoài mấy bức thư không?”
Cô gái lắc đầu.
“Chỉ là những lá thư bình thường thôi. Một số là hóa đơn và thông báo gửi cho khách hàng, tôi nghĩ vậy vì chúng bị xé nát trên cái khay.”
“Rồi sau đó chúng được xử lý thế nào?”
“Đã bỏ vào thùng rác, thưa ông. Một ông cảnh sát bây giờ đang xem xét đấy ạ.”
Weston gật đầu rồi hỏi:
“Còn những thứ giấy vụn khác đâu rồi?”
“Cũng trong thừng rác.”
“Hừm - à, tôi nghĩ hiện giờ thế là đủ rồi.”
Ông nhìn Poirot dò hỏi. Nghiêng người tới trước, thám từ hỏi:
“Sáng nay khi dọn phòng cô Linda Marshall, cô có dọn lò sưởi không?”
“Chẳng có gì để dọn cả, thưa ông. Không có đốt lửa ạ.”
“Trong lò sưởi không có bất cứ thứ gì hay sao?”
“Không có, thưa ông. Hoàn toàn ổn cả.”
“Cô dọn phòng cho Linda lúc mấy giờ?”
“Khoảng chừng chín giờ mười lăm, thưa ông, khi cô bé đã xuống dưới nhà ăn sáng.”
“Linda có trở lên phòng sau bữa điểm tâm không, cô biết chứ?”
“Dạ có, thưa ông. Cô bé lên phòng khoảng chừng mười giờ kém mười lăm.”
“Linda có ở lại trong phòng không?”
“Tôi nghĩ là có, thưa ông. Cô ấy đi ra khá vội ngay trước mười giờ rưỡi.”
“Cô không vào phòng cô ấy lần nữa à?”
“Dạ không, thưa ông. Tôi đã làm xong rồi ạ.”
Poirot gật đầu. “Còn một chuyện nữa tôi muốn biết. Sáng nay những người nào đã tắm biển trước khi ăn sáng?”
“Tôi không thể nói về dãy phòng phía bên kia và tầng trên. Chỉ nói về dãy phòng này thôi ạ.”
“Tôi chỉ muốn biết vậy thôi.”
“Dạ thưa ông, tôi nghĩ sáng nay chỉ có đại úy Marshall và cô Christine Redfern thôi ạ. Họ thường xuống ngâm mình lúc sáng sớm.”
“Cô có nhìn thấy họ không?”
“Dạ không, thưa ông, nhưng đồ tắm bị ướt của họ vẫn phơi trên lan can ban-công như thường lệ.”
“Sáng nay Linda Marshall không tắm à?”
“Dạ không, thưa ông. Tất cả áo tắm của cô ấy đều khô ráo.”
“A,” Poirot nói. “Đó là điều tôi muốn biết.”
Cô hầu phòng Gladys Narracott tự nói thêm:
“Gần như sáng nào cô ấy cũng tắm, thưa ông.”
“Còn ba người kia, cô Darnley, Christine Redfern và Arlena Marshall thì sao?”
“Cô Marshall thì không bao giờ, thưa ông. Cô Darnley có lẽ chừng một hai lần. Cô Redfern thường không tắm trước bữa sáng - chỉ khi nào trời rất nóng bức, nhưng sáng nay cô ấy không tắm biển.”
Poirot lại gật đầu rồi hỏi:
“Tôi thắc mắc không rõ cô có để ý thấy mất một cái chai trong mấy phòng cô phụ trách ở dãy phòng này hay không?”
“Một cái chai sao, thưa ông? Loại chai nào ạ?”
“Thật không may là tôi không biết. Nhưng cô có để ý thấy hay hình như để ý thấy mất đi một cái chai?”
Gladys thành thật trả lời:
“Phòng cô Arlena Marshall thì tôi không để ý, thưa ông, là vì cô ấy có quá nhiều chai lọ.”
“Còn các phòng khác thì sao?”
“Dạ, tôi không chắc chắn về cô Darnley. Cô ấy có khá nhiều kem và dầu bôi. Nhưng các phòng khác thì có, tôi có để ý, thưa ông. Tôi muốn nói giá như tôi chú tâm để ý thì tôi sẽ thấy, xin thưa như vậy.”
“Nhưng thật ra cô đã không để ý à?”
“Dạ không, vì tôi đã không chú tâm tới chuyện đó, như vừa mới nói.”
“Vậy có lẽ bây giờ cô nên đi xem thử đi.”
“Tất nhiên rồi, thưa ông.”
Cô rời khỏi phòng, cái váy áo in hoa kêu sột soạt.
Đưa mắt nhìn Poirot, đại tá Weston hỏi: “Tất cả chuyện này là sao?”
Poirot khẽ đáp:
“Đầu óc sắp xếp ngăn nắp của tôi nó thường bị những chuyện vặt làm cho bực bội đó mà! Cô Brewster nói sáng nay đang tắm bên ngoài các tảng đá sau bữa ăn sáng thì suýt bị một cái chai từ trên cao ném trúng. Eh bien , tôi muốn biết ai đã ném cái chai và tại sao lại ném đi?”
“Ông bạn ơi, bất cứ người nào cũng có thể vứt bỏ một cái chai đó mà.”
“Hoàn toàn không phải vậy. Trước hết nó chỉ có thể bị ném đi từ một cửa sổ nào đó ở phía đông của khách sạn - tức là một cửa sổ trong số các phòng ta vừa vào xem. Bây giờ tôi hỏi ông nếu có một cái chai không trên bàn trang điểm hay trong phòng tắm, ông sẽ làm gì với nó? Xin thưa ông thường bỏ nó vào sọt rác. Ông không mất công đi ra ban-công và ném nó xuống biển. Vì thứ nhất là nhỡ trúng ai đó, thư hai là tốn công. Không, ông chỉ làm vậy khi ông không muốn ai nhìn thấy cái chai đặc biệt đó.”
Weston ngó ông lom lom:
“Tôi biết là chánh thanh tra Japp mà tôi từng gặp khi điều tra một vụ án cách đây không lâu, vẫn luôn nói ông có đầu óc cực kỳ rắc rối, khó hiểu. Bây giờ ông sẽ không bảo tôi là Arlena Marshall không phải bị siết cổ đâu mà là bị đầu độc bằng một thứ thuốc bí ẩn từ một cái chai bí ẩn đấy chứ?”
“Không, không, tôi không nghĩ có thuốc độc trong cái chai đó đầu.”
“Thế thì có cái gì?”
“Tôi hoàn toàn không biết. Thế nên tôi mới quan tâm.”
Cô hầu phòng quay trở lại, hơi thở có chút gáp gáp.
“Xin lỗi ông, nhưng tôi không tìm được bất cứ thứ gì bị thiếu. Chắc chắn không có gì mất đi trong phòng đại úy Marshall hay trong phòng cô Linda, cả trong phòng ông bà Redfern cũng vậy, và tôi chắc chắn trong phòng cô Darnley cũng không mất đi cái gì cả. Nhưng tôi không thể nói về phòng của cô Arlena Marshall. Như tôi nói đó, cô ấy có quá nhiều chai lọ.”
Poirot nhún vai. “Không sao. Để chuyện đồ chúng tôi sẽ tính.”
“Còn gì nữa không, thưa ông?” Gladys Narracott hỏi, lần lượt nhìn hai người.
Đại tá Weston nói: “Không, cảm ơn cô.”
Poirot nói: “Tôi chưa cám ơn cô đâu. Cô chắc chắn không có gì - hoàn toàn không có điều gì cô quên chưa nói cho chúng tôi biết chứ?”
“Về cô Arlena Marshall, phải không thưa ông?”
“Về bất cứ điều gì. Bất cứ điều gì bất thường, không đúng, không giải thích được, hơi khác thường, khá kỳ lạ - bất cứ điều gì - enfin , có cái gì đó khiến cô phải tự nhủ hay nói với một đồng nghiệp là ‘Thật lạ quá!’ hay không?”
Gladys đáp có vẻ không chắc chắn:
“Dạ không phải thứ chuyện ông muốn nói đâu, thưa ông.”
“Đừng để ý tôi muốn nói gì! Cô không biết tôi muốn nói gì đâu. Vậy phải chăng đúng là hôm nay cô từng tự nhủ hay nói với một đồng nghiệp, ‘thật lạ quá!’?”
Poirot nói ra ba từ đó với vẻ châm biếm.
Gladys nói: “Thật ra chẳng có gì đâu. Chỉ là chuyện một bồn tắm tháo nước. Tôi đã nhận xét với Elsie ở dưới lầu, rằng thật là lại có người tắm bồn vào khoảng mười một giờ trưa.”
“Bồn tắm của ai? Ai tắm trong bồn?”
“Tôi không biết của ai, thưa ông. Chúng tôi nghe tiếng nước chảy xuống ống thoát từ dãy phòng này, chỉ có vậy thôi, và đó là lúc tôi nói điều mình nghe thấy với Elsie.”
“Cô chắc chắn là bồn tắm à? Không phải bồn rửa tay?”
“Ôi, hoàn toàn chắc chắn, thưa ông. Không thể nhầm lẫn tiếng thoát nước bồn tắm đâu ạ.”
Poirot tỏ ý không muốn giữ cô lại lâu hơn nữa. Cô hầu phòng được phép ra về.
Weston hỏi: “Ông không nghĩ vấn đề cái bồn tắm này quan trọng đó chứ, ông Poirot? Tôi thấy chuyện đó chẳng có giá trị gì cả. Đâu có vết máu hay bất cứ cái gì phải rửa sạch. Đấy là…” ông ngần ngừ.
Poirot ngắt ngang: “Ông định nói đó là lợi thế của việc siết cổ! Không có vết máu, không có vũ khí - không có gì phải tống khứ đi hay che giấu cả! Không cần gì hết ngoài sức mạnh cơ bắp - và tâm hồn của một kẻ sát nhân .”
Giọng Poirot hết sức mãnh liệt, đầy cảm xúc khiến Weston hơi giật lùi lại.
Poirot mỉm cười vẻ xin lỗi:
“Không có gì cả,” ông nói, “có lẽ chuyện cái bồn tắm chẳng quan trọng gì cả. Bất cứ ai cũng có thể tắm trong bồn. Christine Redfern tắm trước khi đi đánh quần vợt, đại úy Marshall, cô Darnley cũng vậy. Như tôi nói đó, bất cứ ai. Chẳng có gì trong chuyện ấy.”
Một viên cảnh sát gõ cửa rồi thò đầu vào.
“Là cô Darnley, thưa sếp. Cô ấy bảo muốn gặp lại sếp một lát. Có chuyện cô ấy quên chưa cho sếp biết ạ.”
“Chúng tôi xuống ngay đây,” Weston nói.
Người đầu tiên họ trông thấy là Colgate. Mặt ông ta thật rầu rĩ:
“Xin chờ một chút, thưa sếp!”
Weston cùng Poirot theo sau ông ta đi vào văn phòng của bà Castle.
Thanh tra Colgate nói: “Tôi đã kiểm tra cùng với Heald về việc cái máy máy đánh chữ này. Không có gì đáng nghi ngờ, việc ấy chẳng thể nào làm xong dưới một giờ đồng hồ. Lâu hơn thế nếu ta phải dừng lại suy nghĩ ở chỗ này chỗ nọ. Theo tôi, nếu sắp xếp việc ấy thì cũng khá tài tình. Và hãy xem bức thư này!”
Ông ta chìa nó ra.
“Marshall thân,
Xin lỗi quấy rầy khi ông đang nghỉ hè, nhưng một tình huống hoàn toàn không biết trước đã nảy sinh về hợp đồng Burley và Tender ấy…”
“Vân vân và vân vân,” Colgate nói. “Đề ngày 24 - tức là hôm qua. Dấu bưu điện trên bì thư tối hôm qua E.C.1. và Vịnh Leathercombe sáng hôm nay. Dùng cùng một máy đánh chữ ngoài bì thư và trong bức thư. Và theo nội dung ấy rõ ràng Marshall không thể nào chuẩn bị trước bức thư phúc đáp. Các số liệu phát sinh từ số liệu trong bức thư - toàn bộ nội dung không hề đơn giản.”
“Hừm,” Weston rầu rĩ nói. “Thế là chắc phải loại Marshall ra ngoài vòng điều tra rồi. Phải xem xét chỗ khác thôi.” Ông nói thêm, “Tôi phải gặp lại cô Darnley. Bây giờ cô ấy đang chờ.”
Rosamund nhanh nhẹn đi vào, mỉm cười ra chiều hối lỗi. Cô nói:
“Tôi vô cùng xin lỗi. Có lẽ không đáng để làm phiền về việc này. Nhưng ta thường quên điều này điều kia như thế.”
“Chuyện gì thế, cô Darnley?” Cảnh sát trưởng chỉ cho cô một cái ghế.
Cô lắc cái đầu cân dối có mái tóc đen xinh đẹp:
“Ôi, chuyện không đáng phải ngồi xuống đâu ạ. Đơn giản là thế này. Tôi đã nói với ông suốt buổi sáng là nằm trên Gành Nắng. Điều ấy không hoàn toàn chính xác. Tôi quên có một lần vào buổi sáng đã trở về khách sạn rồi lại ra ngoài.”
“Lúc ấy là mấy giờ, cô Darnley?”
“Chắc hẳn là mười một giờ mười lăm ạ.”
“Cô nói đã trở về khách sạn à?”
“Vâng, tôi đã quên chiếc kính râm, lúc đầu tôi định kệ, nhưng sau thấy mỏi mắt nên quyết định về lấy.”
“Cô đi thẳng vào phòng rồi ra luôn ư?”
“Vâng. À, thực ra tôi có ghé qua chỗ Ken - đại úy Marshall. Tôi nghe tiếng máy đánh chữ của anh ấy và nghĩ cứ ở trong phòng đánh máy vào một ngày đẹp trời như thế thì ngốc quá. Tôi định bảo anh ấy ra ngoài.”
“Thế đại úy Marshall đã nói gì?”
Rosamund mỉm cười hơi bẽn lẽn.
“À, khi tôi mở cửa phòng, anh ấy đang mải đánh máy, cau mày có vẻ quá tập trung nên tôi lại lẳng lặng bỏ đi luôn. Có lẽ thậm chí anh ấy cũng chẳng biết tôi đi vào.”
“Và lúc ấy là - lúc mấy giờ, cô Darnley?”
“Chỉ chừng mười một giờ hai mươi thôi. Tôi có nhìn đồng hồ trong sảnh khi trở ra ngoài.”
“Và điều ấy cuối cùng đã khép lại chuyện này,” thanh tra nói. “Cô hầu phòng nghe ông ta đánh máy mãi đến mười một giờ kém năm. Cô Darnley thấy ông ta lúc mười một giờ hai mươi, trong khi nạn nhân chết lúc mười hai giờ kém mười lăm. Chính anh ta nói trong lúc ấy đang đánh máy trong phòng mình và có vẻ đúng là anh ta lúc đó đang đánh máy trong phòng. Vậy là phải loại hẳn đại úy Marshall ra ngoài vòng điều tra.”
Ông dừng lại, rồi nhìn Poirpt với đôi chút hiếu kỳ, ông hỏi:
“Ông Poirot đang xem xét điều gì đấy nghiêm trọng, hử?”
Thám tử đáp với vẻ đăm chiêu:
“Tôi đang thắc mắc tại sao cô Darnley bất thình lình lại tự nguyện khai thêm chứng cứ này.”
Thanh tra Colgate ngảnh đầu nhìn, có ý cảnh giác:
“Nghĩ chuyện này có gì ám muội à? Không phải chỉ là quên mất hay sao?”
Ông ta ngẫm nghĩ chừng vài phút rồi hói tiếp thật chậm rãi:
“Thế này, thưa ông, ta hãy xem xét theo hướng này! Giả sử sáng nay cô Darnley không ở trên Gành Nắng như cô ấy nói. Câu chuyện ấy là nói dối. Giả sử sau khi kể cho ta nghe câu chuyện đó, cô ấy phát hiện có người đã trông thấy mình ở chỗ khác, hay đổi lại là có người lên Gành Nắng mà không trông ấy. Do đó, cô ấy mau chóng dựng câu chuyện này rồi đến kể cho ta nghe để giải thích việc cô ấy vắng mặt. Ông có để ý thấy cô ấy cẩn thận nói là đại úy Marshall không thấy cô ấy ghé vào phòng đấy không?”
Poirot lẩm bẩm: “Phải, tôi có để ý điều đó.”
Weston tỏ vẻ không tin. “Có phải ông đang đặt giả thiết là cô Darnley có liên can tới vụ này? Vớ vẩn, phi lý. Sao cô ấy lại liên can được?”
Thanh tra Colgate ho húng hắng.
“Sếp sẽ nhớ ra điều bà Gardener người Mỹ đã nói. Bà ấy gần như ám chỉ cô Darnley đã phải lòng đại úy Marshall. Có động cơ, thưa sếp.”
Weston sốt ruột nói: “Arlena Marshall không bị phụ nữ giết chết. Ta phải tìm kiếm một gã đàn ông. Phải bám sát những người đàn ông trong vụ án này.”
Thanh tra Colgate thở dài.
“Vâng, đúng thế, thưa sếp. Ta vẫn luôn quay trở lại vấn đề ấy, phải không ạ?”
Weston nói tiếp: “Tốt hơn hết nên phái một cảnh sát tiếp tục xác định thời gian về một vài việc. Từ khách sạn đi ngang qua đảo, đến đỉnh cái thang. Cho cậu ta đo thời gian khi chạy và khi đi bộ. Cũng làm như thể với cái thang. Và cho cậu nào đấy kiểm tra xem mất bao lâu để chèo bè từ bãi tắm đến cái vịnh nhỏ.”
Thanh tra gật đầu.
“Tôi sẽ lo liệu chu đáo tất cả việc ấy, thưa sếp,” ông ta nói có vẻ tự tin.
Cảnh sát trưởng nói: “Có lẽ bây giờ tôi sẽ đi tiếp đến cái vịnh nhỏ. Xem thử Phillips có phát hiện ra điều gì hay không. Còn cả cái Động Tiên ta vừa nghe nhắc đến ấy. Phải xem thử liệu có dấu vết nào của một gã đàn ông chờ đợi trong ấy không. Này Poirot, ông nghĩ sao?”
“Đương nhiên rồi. Đó là một khả năng.”
“Nếu kẻ nào từ bên ngoài lẹ làng lẻn sang hồn đảo thì đấy sẽ là một nơi lẩn trốn rất tốt - nếu như hắn đã biết về cái động ấy. Tôi cho rằng dân địa phương biết chứ?”
Colgate đáp: “Tôi không tin lớp người trẻ tuổi biết được. Sếp biết đấy, kể từ khi khai trương khách sạn này cái vịnh nhỏ ấy trở thành tài sản cá nhân. Dân chài không đến đấy, cả các bữa tiệc dã ngoại cũng được tổ chức ở đấy. Người của khách sạn lại không phải dân địa phương. Bà Castle là người London.”
“Ta có thể dẫn theo Redfern. Anh ta đã cho biết về nó. Còn ông thì sao, ông Poirot?”
Hercule Poirot do dự. Phát âm với ngữ điệu ngoại quốc, ông nói: “Tôi thì cũng như cô Brewster và cô Redfern, không thích leo xuống cái thang thẳng đứng đó đâu.”
Weston nói: “Ông có thể đi vòng bằng thuyền.”
Poirot lại thở dài: “Cái bao tử của tôi nó không được vui trên mặt biển đâu.”
“Không sao đâu, hôm nay đẹp trời, sóng yên biển lặng kia mà. Ông không thể bỏ rơi chúng tôi đâu đấy.”
Hercule Poirot không có vẻ gì là đáp lại lời khẩn cầu này của ông người Anh. Nhưng ngay lúc đó bà Castle thò khuôn mặt mệnh phụ với kiểu tóc chải chuốt cầu kỳ qua cánh cửa.
“Tôi hy vọng đã không đường đột,” bà ta nói, “nhưng cha Lane vừa mới trở về đó ạ. Chắc là các ông muốn biết.”
“À phải đấy, cảm ơn bà Castle. Chúng tôi sẽ gặp ông ấy ngay lập tức.”
Bước tới một chút vào phòng, bà Castle nói: “Tôi không biết có đáng để nói tới hay không, nhưng tôi từng nghe bảo là sự cố nhỏ nhặt nhất cũng không nên phớt lờ đi…”
“Phải đấy, gì thế ạ?” Weston có vẻ sốt ruột.
“Có một quý bà với một quý ông tới đây khoảng chừng một giờ. Từ đất liền qua. Để dùng bữa trưa. Họ được thông báo đã có một tai nạn và trong hoàn cảnh ấy không thể phục vụ bữa trưa.”
“Bà có biết bọ là ai bay không?”
“Tôi hoàn toàn không biết. Tất nhiên họ không nói tên. Họ tỏ ra thất vọng và có đôi chút hiếu kỳ về tính chất của tai nạn. Tất nhiên tôi không thể cho họ biết điều gì hết. Có thể nói đó là khách thuộc tầng lớp khá giả đi du lịch mùa hè.”
Weston nói cộc cằn:
“Thôi, được rồi, cảm ơn bà đã cho chúng tôi biết. Có lẽ không quan trọng, nhưng hoàn toàn đúng - ơ - là ghi nhớ mọi việc.”
“Tất nhiên tôi mong dược làm tròn phận sự của mình.”
“Đúng, đúng thế. Xin bà mời cha Lane đến đây cho!”
Cha Stephen Lane rảo bước vào phòng thật mạnh mẽ như thường lệ.
Weston tự giới thiệu:
“Tôi là cảnh sát trưởng hạt này, cha Lane ạ. Chắc cha đã dược nghe nói chuyện gì xảy ra ở đây rồi chứ?”
“Rồi - biết rồi - ta đã nghe nói khi vừa mới về đến dây. Kinh khủng… Kinh khủng…” Thân hình mảnh dẻ run run, ông hạ giọng nói: “Ngay từ đầu - kể từ lúc mới đến đây ta đã thấy rõ - thấy rất rỗ quyền lực của cái ác. Ở sát bên.”
Đôi mắt của ông, những con mắt bừng cháy lửa nhiệt tình hướng về Hercule Poirot, ông hỏi:
“Còn nhớ không, ông Poirot? Cuộc trò chuyện của chúng ta cách đây mấy ngày ấy? Về hiện diện của cái ác, có nhớ không?”
Weston đang chăm chú quan sát cái hình dáng cao ráo gầy gò ấy với đôi chút bối rối. Ông thấy thật khó hiểu con người này. Ánh mắt vị cha xứ quay trở lại với ông.
Vị cha xứ nói với một nụ cười nhè nhẹ:
“Ta thấy chuyện ấy dường như kỳ quái với ông. Dạo này chúng ta đã rời bỏ niềm tin về cái ác. Đã hủy bỏ lửa địa ngục rồi! Chúng ta không còn tin có quỷ sứ nữa! Nhưng quỷ Satan và lũ tay sai của hắn chưa bao giờ có quyền lực lớn lao hơn ngày nay!”
“Ờ - ở - phải, có lẽ thế. Đấy là địa hạt của cha, cha Lane ạ. Địa hạt của tôi tầm thường, tẻ nhạt hơn - làm sáng tỏ một án mạng.”
“Một từ thật đáng sợ. Án mạng! Một trong những tội được biết đến sớm nhất trên trần thế - nhẫn tâm làm đổ máu một người anh em vô tội…” Ông tạm dừng lại, lỉm dim đôi mắt rồi hỏi với giọng bình thường hơn: “Ta có thể giúp ông bằng cách nào đây?”
“Trước tiên, cha Lane ạ, xin cho chúng tới biết hôm nay ông đã làm gì và ở đâu?”
“Rất sẵn lòng. Ta khởi hành sớm để đi lang thang. Ta thích đi bộ. Ta đã tới khá nhiều nơi ở vùng quê quanh đây. Hôm nay đã đến làng St. Petrock trong thung Lũng Hẹp. Cách đây chừng bảy dặm - một chuyến đi bộ thật thú vị trên vùng đất trung du ở hạt Devon. Có mang theo mấy món để ăn trưa trong một lùm cây. Ta đã viếng thăm nhà thờ - có một số vết nứt - may mà chỉ là nứt mấy tấm kính từ thời trước - còn có một bức bình phong có vẽ hình trang trí rất thú vị nữa.”
“Càm ơn cha Lane. Cha có gặp ai trong khi đi bộ không?”
“Không kể xiết. Một chiếc ô tô chạy ngang qua một lần, hai thằng bé cưỡi xe đạp và mấy con bò cái nữa. Tuy nhiên,” ông nùm cười, “nếu ông muốn có bằng chứng vè lời khai của ta, thì ta đã ghi tên mình trong quyển sổ ở nhà thờ. Ông có thể tìm thấy nó ở đấy.”
“Cha đã không gặp bất cứ ai ở nhà thờ ấy - cha xứ y hay người quản lý nhà thờ à?”
Cha Lane lắc đầu đáp:
“Không, chẳng có ai ở quanh đấy và ta là khách đến viếng thăm duy nhất. Nhà thà Thánh Petrock là địa điểm hẻo lánh. Chính ngôi làng cũng cách nhà thờ tới nửa dặm.”
Đại tá vui vẻ nói:
“Xin cha đừng nghĩ chúng tôi đang - ơ - nghi ngờ lời cha. Mà đây là vấn đề kiểm tra mọi người. Là thủ tục thường lệ, cha biết đấy, thủ tục thường lệ. Phải bám sát thủ tục thường lệ trong các vụ án kiểu này.”
Đức cha Lane nói dịu dàng:
“À phải, ta hiểu chứ.”
Weston nói tiếp:
“Bây giờ là điểm kế tiếp. Cha có biết bất cứ điều gì có thể hỗ trợ cho chúng tôi hay không. Bất cứ điều gì về nạn nhân? Bất cứ điều gì có thể cho chúng tôi một chỉ dấu về kẻ đã giết cô ấy? Bất cứ điều gì cha từng nghe hay từng thấy ấy?”
Cha Lane đáp:
“Ta chẳng nghe gì cả. Chỉ có thể nói với ông điều này: ta đã biết theo bản năng ngay lúc vừa mới gặp mặt, rằng Arlena Marshall là nơi cái ác tập trung vào. Cô ả chính là cái ác! Hiện thân của cái ác! Đàn bà cỏ thể giúp ích và là nguồn cảm hứng của đàn ông trong cuộc sống - nhưng cũng có thể làm cho họ suy sụp. Có thể lôi hắn xuống mức một con vật. Người đã chết đó là một ả đàn bà như thế đấy. Cô ả khêu gợi mọi điều đồi bại trong bản tính đàn ông. Cô ả là Jezebel và Aholibah. Giờ đây cô ả đã bị chính sự xấu xa đó đánh gục.”
Hercule Poirot cựa quậy.
“Không phải đánh gục gục - mà là siết cổ. Bị siết cổ, cha Lane à, bằng đôi bàn tay của một con người.”
Hai bàn tay của ông thầy tu run lên. Những ngón tay quằn quại và co quắp. Ông hạ giọng nói nghe nghèn nghẹn:
Thật kinh tởm - kinh tởm - phải nói là như thể hử?”
Poirot nói: “Sự thật đơn giản là như vậy đó. Ông co nhận định gì không, cha Lane, đó là hai bàn tay của ai?”
Ông thầy tu lắc đầu đáp:
“Ta chẳng biết gì cả - chẳng gì cả…”
Weston đứng lên. Ông nói sau khi liếc nhìn Colgate, và ông này đáp lại với một cái gật đầu hầu như không thể nào nhận thấy. “À, ta phải đi tiếp đến cái vịnh nhỏ ấy.”
Cha Lane hỏi:
“Có phải đấy là nơi - xảy ra vụ ấy không?”
Đại tá gật đầu. Cha xứ lại hỏi:
“Có thể - có thể cho tôi cùng đi được không?”
Vừa định trả lời cụt ngủn là không được, Weston bị Poirot chặn lại.
“Được thôi,” Poirot đáp. “Cứ lên thuyền đi theo tôi tới đó, cha Lane à! Ta sẽ khởi hành ngay lập tức.”