← Quay lại trang sách

Chương 7

Khi cánh cửa đã đóng lại sau lưng Christine Redfern, thanh tra Colgate nói:

“Giờ thì ta có một chút kết quả rồi.”

“Ông nghĩ thế ư?” Weston hỏi.

“À, chuyện đó gợi cho ta một hướng điều tra, thưa sếp, ta không thể bỏ qua. Ai đấy trong khách sạn này vừa tống tiền quý bà ấy.”

Poirot khẽ nói: “Nhưng không phải kẻ tống tiền gian ác bị giết mà là người bị tống tiền.”

“Có vấn đề ở chỗ đó một chút, tôi đồng ý,” thanh tra nói. “Bọn tống tiền thường không có thói quen trừ khử nạn nhân. Nhưng chuyện ấy cho ta biết điều này, nó gợi ra cái lý do khiến bà Marshall có hành vi kỳ lạ sáng hôm nay. Bà ấy có rendezvous cuộc hẹn với thằng cha tống tiền này, không muốn cho cả chồng lẫn Redfern biết.”

Thanh tra Colgate nói tiếp:

“Cứ đến địa điểm hẹn mà xem. Rất thích hợp với mục đích đó. Arlena Marshall chèo bè đi. Rất tự nhiên thôi. Là việc cô ta vẫn thường làm hằng ngày. Đi vòng qua Vũng Tiên nơi chẳng mấy khi có ai đến vào buổi sáng, là một nơi yên tĩnh, hết sức thích hợp cho một cuộc thảo luận nào đó.”

Poirot nói: “Phải, tôi cũng nghĩ ngay đến điều đó. Đúng như ông nói, đó là một điểm hẹn lý tưởng. Chỗ đó hoang vắng, đi bộ thì chỉ có thể tới được bằng cách xuống trèo một cái thang thép dựng đứng mà mọi người đều không thích, bien entendu tất nhiên . Hơn nữa phần lớn bãi biển đó bị vách đá nhô ra che, từ phía trên khó nhìn thấy gì. Còn có một điểm thuận lợi nữa. Có lần Redfern cho tôi biết chỗ vách đá ấy có một cái hang mà lối vào không dễ phát hiện, ai đứng chờ đợi trong đó thì người ngoài không phát hiện ra.”

“Dĩ nhiên rồi, là Động Tiên - đúng là từng nghe nhắc đến,” đại tá nói.

“Tuy thế nhiều năm rồi chẳng mấy ai nói về nó nữa,” thanh tra nói. “Ta nên vào trong ấy xem xét. Biết đâu chừng có thể tìm thấy dấu vết nào đấy.”

Weston nói: “Phải, ông nói đúng, Colgate ạ, ta đã có đáp án cho phần một của bài toán này. Vì sao Arlena Marshall lại đến Vũng Tiên? Tuy thế ta cần có đáp án cho phần còn lại. Cô ta đến đấy để gặp ai? Có thể cho là ai đấy lưu trú trong khách sạn này. Chẳng ai hợp vai tình nhân - vai kẻ tống tiền lại là một chuyện khác.”

Ông kéo quyển sổ đăng ký phòng về phía mình.

“Ngoại trừ các đám nhân viên, người làm mà tôi nghĩ không có khả năng làm việc ấy, ta có những người sau đây. Ông người Mỹ - Gardener, thiếu tá Barry, ông Horace Blatt và cha Stephen Lane.”

Thanh tra nói: “Có thể thu hẹp lại một chút, thưa sếp. Tôi nghĩ hầu như có thể loại ông người Mỹ. Ông ấy ở ngoài bãi biển suốt cả buổi sáng. Đúng như thế, phải không ông Poirot?”

“Ông ta có vắng mặt một lát khi đi lấy cuộn len cho bà vợ,” Poirot đáp.

“Ôi, không cần tính đến chuyện ấy đâu.”

“Còn ba người kia thì sao?” đại tá hỏi.

“Thiếu tá Barry ra ngoài lúc mười giờ sáng nay. Trở về lúc một giờ ba mươi. Cha Lane đi còn sớm hơn. Điểm tâm lúc tám giờ. Nghe nói đi lang thang. Ông Blatt cũng đánh thuyền buồm ra khơi lúc chín giờ ba mươi, hầu như ngày nào cũng thế. Cả hai đều chưa về đến.”

“Thuyền buồm hử?” đại tá Weston có vẻ trầm ngâm.

Thanh tra nhanh nhảu đáp lại: “Có lẽ khá phù hợp, thưa sếp.”

“À, sẽ phải có đôi lời với tay thiếu tá này - và để tôi xem còn ai khác hay không? Rosamund Darnley. Còn có cái cô Brewster cùng phát hiện cái xác với Redfern. Cô này là người như thế nào, Colgate?”

“Một người biết lý lẽ, thưa sếp. Không có vấn đề gì cả.”

“Cô ta không có ý kiến gì về nạn nhân sao?”

Thanh tra lắc đầu.

“Chắc cô ta chẳng còn gì để nói với tá nữa, thưa sếp, nhưng phải hỏi lại cho chắc. Còn cả ông người Mỹ nữa.”

Đại tá Weston gật đầu. “Cứ bảo họ vào cả và làm xong việc càng sớm càng tốt! Đâu chừng có thể biết được điều gì đấy về vụ tống tiền nếu không có chuyện gì khác.”

Ông bà Gardener cùng đi vào gặp giới chức. Bà vợ giải thích ngay tức khắc:

“Hy vọng ông hiểu cho, đại tá Weston - là tên ông, phải không ạ?” Được bảo đảm về điểm ấy lần nữa, bà nói tiếp: “Nhưng chuyện này là một cú sốc lớn với tôi, ông nhà tôi thi lúc nào cũng rất, rất cẩn thận về sức khỏe của tôi…”

Tới đây ông chồng tự ý chêm vào: “Bà nhà tôi rất nhạy cảm.”

“…và ông ấy nói với tôi, “Này Carrie, lẽ tất nhiên anh sẽ đến cùng với em.’ Chẳng phải là chúng tôi không khâm phục phương pháp của cảnh sát Anh, khâm phục chứ. Chúng tôi đã biết quy trình của cảnh sát Anh tinh tế, tôi chưa bao giờ nghi ngờ điều ấy. Có lần tôi để mất một chiếc vòng tay ở Khách sạn Savoy. Chẳng có gì có thể dễ thương và đầy tình cảm hơn cậu thanh niên đến gặp tôi giải quyết chuyện ấy. Và tất nhiên rồi, thật ra tôi không mất chiếc vòng tay mà chỉ để quên đâu thôi. Cứ hay vội vàng nên lại không nhớ đặt cái này cái kia ở đâu.”

Bà ta tạm dừng, hít vào nhè nhẹ rồi lại bắt đầu nói tiếp: “Tôi xin thưa, và tôi biết ông nhà tôi cũng nhất trí, là chúng tôi sẵn lòng làm bất cứ việc gì để hỗ trợ cảnh sát Anh về mọi mặt. Vì thế xin tiến hành ngay, hỏi chúng tôi tất cả những gì các ông muốn biết ạ!”

Đại tá Weston mở miệng, chực làm theo lời mời gọi, nhưng đành phải nín lặng trong lúc bà Gardener nói tiếp:

“Đúng em đã nói thế không, Odell à, có phải không? Đúng là như thể, phải vậy không?”

“Phải, em yêu à,” ông chồng đáp.

Đại tá vội vàng lên tiếng: “Tôi hiểu, bà Gardener ạ, bà với chồng đã ở ngoài bãi biển suốt buổi sáng à?”

Lần này ông chồng xen vào trước:

“Đúng như thể.”

“À, tất nhiên chúng tôi đã ở đó,” bà vợ đáp. “Một buổi sáng yên bình thật đẹp trời, y hệt như bất cứ buổi sáng nào khác, nếu ông hỏi tôi, có lẽ còn hơn thế nữa và chẳng hề biết được chuyện đang xảy ra cách đấy có một quãng, trên cái bãi biển quạnh hiu ấy.”

“Hôm nay ông bà có khi nào trông thấy Arlena Marshall hay không?”

“Chúng tôi không thấy. Tôi đã nói với Odell nhà tôi là, sáng hôm nay cô vợ Marshall đi đâu mất nhỉ, để trước là chồng đi tìm, rồi sau là anh chàngRedfern bảnh trai ấy. Anh ta sốt ruột quá thể, cứ ngồi đó cau có nhìn mọi người và mọi vật. Tôi tự nhủ đã có cô vợ nhỏ bé xinh đẹp thế rồi, mà sao anh ta lại phải chạy theo ả đàn bà ghê gớm ấy chứ? Tôi đã cảm thấy cô ả ấy như thế đó. Tôi vẫn luôn cảm thấy như thể về cổ ả, phải vậy không Odell?”

“Phải, em yêu à.”

“Thật không tưởng tượng nổi đại úy Marshall tử tế ấy lại đi kết hôn với một cô ả như thế, mà có một cô con gái nhỏ dễ thương đang tuổi lớn chứ. Mấy cô gái tuổi này cần được ảnh hưởng đúng đắn. Cô vợ Marshall thì hoàn toàn không thích hợp - hoàn toàn vô giáo dục - chỉ theo bản năng. Bây giờ, nếu như đại úy Marshall còn đôi chút khôn ngoan, hẳn anh ta sẽ kết hôn với cô Darnley, là một phụ nữ rất rất quyến rũ lại rất giỏi. Phải nói tôi rất khâm phục cái cách cô ấy tiến thẳng lên phía trước và xây dựng nên doanh nghiệp thành đạt, cần phải có trí tuệ mới làm được một việc như thế. Và cứ nhìn Rosamund Darnley là thấy ngay cô ấy là người có đầu óc. Có thể vạch kế hoạch và thực hiện bất cứ việc nào cô ấy thích. Đúng là tôi khâm phục người phụ nữ ấy không lời nào tả xiết. Hôm nọ tôi đã nói với ông nhà tôi là bất cứ ai cũng có thể hiểu cô ấy phải lòng đại úy Marshall rất nhiều - em đã nói là say mê anh ta, phải vậy không Odell?”

“Phải, em yêu à.”

“Hình như họ quen nhau lúc còn bé, và bây giờ ai mà biết được, rốt cuộc thì tất cả cũng ổn khi ả đàn bà ấy đã không còn cản đường nữa. Tôi chẳng phải là phụ nữ đầu óc hẹp hòi thiển cận, Đại tá Weston à, và chẳng phải tôi chê bai sân khấu là tồi tệ đâu - à, tôi có nhiều bạn cũng làm diễn viên - nhưng ngay từ đầu tôi đã nói với ông nhà tôi là ả đàn bà ấy có gì đó xấu xa. Vả ông thấy đó, điều tôi nói đã được chứng tỏ là đúng.”

Bà ta dừng lại với vẻ đắc thắng.

Đôi môi Hercule Poirot rung rung một nụ cười nhẹ. Trong phút chốc mắt ông bắt gặp cặp mắt xám nhanh nhẹn của ông Gardener.

Đại tá Weston nói khá tuyệt vọng:

“À, cảm ơn bà Gardener. Có lẽ ông bà từ lúc đến đây chẳng hề để ý thấy bất cứ điều gì có thể liên quan đến vụ án, phải không?”

“À không, tôi không nghĩ thế,” ông chồng đáp chậm rãi với giọng lè nhè. “Hầu như lúc nào cô vợ Marshall cũng đi loanh quanh với anh Redfern trẻ tuổi - nhưng mọi người ai mà chẳng biết chuyện ấy.”

“Còn người chồng thì sao? Ông nghĩ anh ta phiền lòng không?”

Ông Gardener thận trọng đáp:

“Đại úỵ Marshall là một người rất kín đáo.”

Bà Gardener nói để xác nhận:

“À đúng thế, anh ta là người Anh chính cống.”

Trên sắc mặt hơi ửng đỏ một chút vì ứ máu của thiếu tá Barry, những cảm xúc khác nhau dường như đang tranh giành ưu thế. Ông ta cố làm ra vẻ kinh khiếp cho phải phép nhưng lại không kìm nén nổi một kiểu khoái trá ngầm.

Ông ta nói với giọng khàn khàn hơi khò khè:

“Rất vui khi giúp cho các ông bất cứ cách nào có thể được. Dĩ nhiên tôi không biết gì về chuyện ấy - hoàn toàn không biết gì cả. Không quen đám ấy. Nhưng thời gian qua tôi đã sống qua lại nhiều nơi. Sống rất nhiều ở phương Đông, ông biết đó. Và tôi có thể cho ông biết sau khi ở trong một đồn lính trên đồi tại Ấn Độ, ngoài bản chất con người thì chẳng có gì đáng tìm hiểu cả.”

Ông ta tạm dừng, hít một hơi rồi lại bắt đầu nói:

“Vụ việc này nhắc tôi nhớ tới một vụ án ở Simla. Thằng cha tên là Robinson – hay là Falconer nhỉ? – dù tên là gì đi nữa thì hắn cũng ở Đông Wilts – hay là Bắc Surreys nhỉ? – Bây giờ không nhở ra nói, và dù là gì đi nữa cũng không quan trọng. Thằng cha lầm lì ít nói, đọc sách rất nhiều - phải nói là nhũn như con chi chi ấy. Thế mà có một hôm dám xử lý vợ ở nhà. Nắm lấy cổ cô ta. Cô ta đã bí mật dan díu với thằng cha nào đó và hắn biết được chuyện ấy. Chút nữa là hắn giết cô vợ rồi. Thật bất ngờ. Khiến tất cả chúng tôi ngạc nhiên. Cứ tưởng hắn không dám chứ.”

Hercule Poirot hỏi nhỏ:

“Và ông thấy chuyện đó tương tự như cái chết của cô Arlena Marshall sao?”

“Ý tôi muốn nói là - siết cổ, ông biết rồi đó, Cùng một ý tưởng. Thằng cha dột nhiên nổi xung!”

“Ông nghĩ đại úy Marshall cũng cảm thấy như vậy à?”

“Ôi, này ông, tôi chưa hề nói như thể.” Gương mặt thiếu tá trở nên dỏ bừng. “Chưa bao giờ nói bất cứ diều gì về Marshall. Anh chàng hết sức tuyệt. Sẽ không nói lời nào trên dời chống lại anh ta đâu.”

Poirot khẽ nói: “A, pardon xin lỗi , nhưng ông đã quy cho phản ứng tự nhiên của một ông chồng.”

“À, ý tôi muốn nói tôi nghĩ cô ta cũng nóng bỏng đấy, hử? Giật dây cậu Redfern trẻ tuổi ngon lành. Có lẽ trước cậu ta còn có những kẻ khác nữa. Nhưng thật lạ lùng là mấy ông chồng ấy lại luôn đần độn. Đáng kinh ngạc đấy. Tôi đã ngạc nhiên vì chuyện ấy không biết bao nhiêu lần rồi. Họ có thể thấy một thằng cha mê mẩn vợ mình nhưng lại không thấy vợ mình ta mê mẩn hắn. Còn nhớ một trường hợp như thể ở Poona. Một phụ nữ rất xinh đẹp là Jove cứ làm tình làm tội ông chồng…”

Đại tá cựa quậy có vẻ hơi sốt ruột:

“Phải, phải, thiếu tá Barry ạ. Lúc này ta cần phải xác lập các sự kiện. Cá nhân ông không biết bất cứ điều gì từng thấy hay để ý thấy có thể giúp chúng tôi trong vụ án này hay sao?”

“À, thế đó ông Weston, tôi không thể nói là có. Từng thấy cô ả và cậu Redfern trẻ tuổi một buổi chiều trên Vịnh Hải Âu,” - ông ta nháy mắt ra vẻ thông thạo lắm và cười một tiếng khục khặc khàn khàn thật thâm thúy - “còn rất đẹp nữa. Nhưng chẳng phải thứ chứng cứ ông đang muốn có. Hà hà!”

“Sáng nay ông không trông thấy Arlena Marshall à?”

“Sáng nay chẳng thấy bất cứ ai. Đi sang St. Loo. Sao mà tôi may thế chứ. Nơi đây có khi cả tháng chẳng có sự vụ gì, thế mà khi có chuyện thì mình lại bỏ lỡ chứ.” Giọng thiếu tá hàm chứa một nỗi tiếc nuối thật quái đản.

Đại tá thúc giục: “Ông bảo đã đến St. Loo à?”

“Phải, muốn gọi vài cuộc điện thoại. Ở đây không có điện thoại và trạm bưu điện ở Vịnh Leathercombe ấy không được riêng tư, kín đáo cho lắm.”

“Các cuộc gọi của ông có tính chất rất riêng tư à?” Thiếu tá lại vui vẻ nháy mắt.

“À, vừa riêng tư vừa không. Muốn gọi cho một ông bạn, và nhờ ông ấy đặt cược một con ngựa đua Không liên lạc được, thật xúi quẩy hết sức.”

“Ông đã gọi điện từ đâu?”

“Phòng điện thoại trong bưu điện trung tâm ở St. Loo. Rồi trên đường về tôi bị lạc đường - những con đường nhỏ chết tiệt này - ngoằn ngoèo, lối rẽ khắp nơi. Đã phải lãng phí ít nhất một giờ đồng hồ. Vùng đất rối rắm chết tiệt. Tôi vừa về đến cách đây nửa giờ đồng hồ mà thôi.”

“Có nói chuyện với ai hay gặp ai ở St. Loo không?”

Thiếu tá cười khúc khích:

“Muốn tôi chứng minh ngoại phạm đây. Chẳng thể nào nghĩ ra bất cứ điều gì có ích cả. Đã gặp chừng năm chục ngàn người ở St. Loo - nhưng không có nghĩa họ còn nhớ đã gặp tôi.”

Cảnh sát trưởng nói: “Chúng tôi phải hỏi những điều này, ông biết đấy.”

“Đúng thế. Cứ yêu cầu tôi bất cứ lúc nào. Rất vui được giúp ông. Ả đàn bà rất quyến rũ, người đã chết đó. Muốn giúp ông bắt thằng cha đã làm việc ấy. Án mạng trên bải biển đìu hiu - xin cá với ông báo sẽ đăng như vậy đó. Nhắc tôi nhớ đến cái thời…”

Chính thanh tra Colgate là người kiên quyết dập tắt hồi tưởng hết sức muộn màng này từ trong trứng nước rồi dùng mưu mẹo tống ông thiếu tá ba hoa ra khỏi cửa.

Quay trở vào ông nói: “Thật khó xác minh bất cứ điều gì ở St. Loo. Đang giữa mùa nghỉ hè mà.”

Cảnh sát trưởng nói: “Phải, không thể đưa ông ta ra khỏi danh sách. Không phải tôi thật sự tin ông ta có liên can. Cả tá những lão già hay nói vớ vẩn như ông ta đang đi nơi này chỗ nọ. Còn nhớ một vài người trong bọn họ hồi tôi còn trong quân đội. Tuy thế - ông ta là người có khả năng liên can. Tôi để lại tất cả việc ấy cho ông đấy, Colgate. Kiểm tra xem ông ta lái xe ra ngoài lúc mấy giờ - xăng dầu - tất cả. Xét về khả năng thì cũng có thể ông ta đỗ xe đâu đấy ở một điểm vắng vẻ, cuốc bộ trở về đây rồi đi đến cái vịnh nhỏ. Nhưng đối với tôi việc ấy dường như không thể nào làm được. Vì như vậy ông ta sẽ dễ bị bắt gặp.”

Thanh tra gật đầu. “Dĩ nhiên hôm nay ở đây có khá nhiều xe buýt chở khách tham quan. Một ngày đẹp trời. Họ bắt đầu đến đây khoảng chừng mười một giờ rưỡi. Thủy triều dâng cao lúc bảy giờ. Xuống thấp nhất lúc một giờ. Người ta thường tủa ra các bãi cát và con đường đắp.”

“Đúng, nhưng hẳn ông ta phải đi lên từ con đường đắp, ngang qua khách sạn.”

“Không đi thẳng qua đấy. Ông ta có thể rẽ qua lối mòn dẫn lên đỉnh cao của hòn đảo.”

Weston nói có vẻ hoài nghi:

“Tôi không nói ông ta vẫn có thể làm việc ấy mà không bị ai phát hiện. Trên thực tế tất cả khách trọ của khách sạn đều ở ngoài bãi tắm, ngoại trừ cô vợ Redfern và cô bé Linda Marshall đã xuống Vũng Hải Âu, và chỉ có vài phòng nhìn xuống đoạn đầu của lối mòn. Có rất nhiều khả năng từ các cửa sổ nhìn ra ngoài ngay lúc ấy cũng không phát hiện được. Vì thế tôi dám nói có khả năng một người đàn ông đi bộ lên khách sạn, qua sảnh, rồi lại đi ra mà chẳng ai tình cờ trông thấy. Nhưng điều tôi nói là ông ta không thể nào chắc chắn là không ai trông thấy mình.”

“Ông ta có thể chèo thuyền đến cái vịnh nhỏ ấy.”

Đại tá gật đầu. “Như thế hợp lý hơn rất nhiều. Nếu có sẵn một chiếc thuyển ở một trong các vịnh nhỏ gần đấy, hẳn ông ta có thể bỏ lại chiếc ô tô, chèo thuyền hay lái thuyền buồm đến Vũng Tiên, gây án mạng, lên thuyền quay trở lại, lấy ô tô lái về đến nơi với câu chuyện đã đến St. Loo và bị lạc đường - một câu chuyện hẳn ông ta biết sẽ khá khó bác bỏ.”

“Sếp nói đúng đấy ạ.”

Cảnh sát trưởng bảo: “À, tôi giao việc ấy lại cho ông, Colgate. Hãy sục sạo khắp vùng lân cận thật kỹ! Ông biết phải làm gì rồi. Bây giờ tốt hơn hết ta nên gặp cô Brewster.”

Emily Brewster không thể nói bất cứ điều gì thực sự có giá trị thêm vào những chuyện họ đã biết rồi.

Weston hỏi khi cô đã lặp lại câu chuyện của mình:

“Và chẳng có điều gì cô biết về chuyện ấy có thể giúp cho chúng tôi theo bất cứ phương diện nào hay sao?”

Emily Brewster đáp ngắn gọn:

“E rằng không có. Thật là một chuyện đau lòng. Tuy nhiên tôi mong các ông sẽ sớm hiểu được ngọn nguồn.”

“Tôi hy vọng thế, chắc chắn rồi,” đại tá nói.

Emily Brewster tỉnh bơ:

“Chắc không khó đâu.”

“Cô nói thế là nghĩa lý gì, cô Brewster?”

“Xin lỗi. Chẳng phải tôi cố dạy các ông làm công việc của mình đâu ạ. Tất cả những gì tôi muốn nói là với hạng đàn bà ấy chắc cũng khá dễ dàng thôi.”

Hercule Poirot hỏi: “Đó là ý kiến của cô à?”

Emily Brewster gắt lại:

“Dĩ nhiên. De mortôis nil nisi bonum Chỉ nói tốt về người chết , tôi biết, nhưng các ông không thể rời xa thực tế. Người đàn bà ấy là đồ tồi bại từ đầu đến cuối. Các ông chỉ cần săn tìm một chút trong quá khứ ghê tởm của cô ta.”

Poirot hỏi thật nhẹ nhàng: “Cô không thích cô ta à?”

“Tôi biết hơi quá nhiều một chút về cô ta.” Để đáp lại cái nhìn dò hỏi cô nói tiếp, “Anh họ của tôi kết hôn với một người trong dòng họ Erskine. Có lẽ ông từng nghe nhắc đến chuyện người đàn bà đó xúi giục ngài Robert già nua khi ông ấy đang trong tình trạng lú lẫn vì tuổi già để ông để lại hầu hết gia sản cho cô ta mà không cho gia đình.”

Đại tá hỏi: “Và gia đình đó - ờ - đã phật ý vì chuyện ấy à?”

“Lẽ dĩ nhiên. Dẫu sao quan hệ của ông già với cô ta từng là một xì-căng-đan, và tột cùng của chuyện ấy là để lại cho cô ta số tiền năm mươi ngàn bảng, cho thấy rõ ả là hạng đàn bà nào. Tôi tin chắc mình nói nghe có vẻ khó tính, nhưng theo ý tôi những ả đàn bà như Arlena Stuart trên đời này chẳng đáng được cảm thông chút nào. Tôi còn biết một chuyện khác nữa - một gã trẻ tuổi đã hoàn toàn mất trí vì ả - gã vẫn luôn hơi man dại một chút - lẽ dĩ nhiên quan hệ của gã với cô ta đã đẩy gã xuống vực thẳm. Gã đã làm gì đấy khá ám muội với một số cổ phần - chỉ để có tiền cung phụng cho cô ả - và cố xoay xở để thoát khỏi bị truy tố. Người đàn bà ấy đã làm hỏng mọi người cô ta gặp. Cứ nhìn cái cách cô ả vừa hủy hoại anh chàng Redfern đi! Không, tôi e mình không thể thương tiếc gì vì cái chết của cô ta - mặc dù dĩ nhiên lẽ ra sẽ tốt hơn nếu như cô ta bị chết chìm hoặc ngã xuống từ vách đá. Siết cổ thật chẳng hay chút nào.”

“Cô nghĩ hung thủ là một người từ trong quá khứ của cô ấy sao?”

“Vâng, tôi nghĩ thế.”

“Kẻ nào đấy đến từ đất liền mà không ai trông thấy à?”

“Sao mà có ai trông thấy chứ? Tất cả chúng tôi đều ở bãi biển. Tôi được biết cô bé Marshall và Christine đi xuống Vịnh Hải Ảu ở cách xa rồi. Đại úy Marshall thì ở trong phòng mình trong khách sạn. Thế thì còn có ai ở đây để mà trông thấy hắn, ngoại trừ có thể là cô Darnley chứ?”

“Cô Darnley lúc ấy đang ở đâu?”

“Đang ngồi ở cái rãnh sâu trên đỉnh vách đá. Gọi là Gành Nắng. Chúng tôi thấy cô ấy ở đấy, anh Redfern và tôi, khi chúng tôi chèo thuyền quanh đảo.”

“Có lẽ cô nói đúng đấy, cô Brewster ạ.”

Emily Brewster quả quyết:

“Chắc chắn tôi nói đúng. Khi một người đàn bà là cái đồ bẩn thỉu ghê tởm không hơn không kém, thì chính ả ta là manh mối tốt nhất có thể có được. Ông không đồng ý với tôi hay sao, ông Poirot?”

Hercule Poirot ngước nhìn lên, bắt gặp đôi mắt xám tự tin của cô ta:

“À có chứ, tôi đồng ý với điều cô vừa mới nói đó. Chính Arlena Marshall là manh mối tốt nhất và duy nhất đối với cái chết của cô ta.”

Cô Brewster nói thật gay gắt: “À, cứ thế nhé!”

Cô đứng đó, một dáng hình mạnh mẽ thẳng đứng, cái liếc nhìn tự tin lạnh nhạt chuyển từ người này sang người khác.

Đại tá Weston nói: “Cô có thể chắc chắn, cô Brewster ạ, bất cứ manh mối nào có thể có được trong cuộc sống quá khứ của cô Marshall sẽ không bị bỏ qua đâu.”

Emily Brewster đi ra.

Dời chỗ ngồi ở bàn, thanh tra Colgate nói với vẻ đăm chiêu:

“Cô ta là người cương quyết thế đấy. Và đã đâm lưỡi dao vào quý bà đã chết thế đấy.”

Dừng lại một lát ông nói tiếp với vẻ trầm ngâm:

“Dẫu sao thật đáng tiếc vì cô ta có chứng cứ ngoại phạm vững chắc như gang thép suốt cả buổi sáng. Sếp có để ý hai bàn tay cô ta không? To lớn như tay đàn ông. Và cô ta là một phụ nữ vạm vỡ, rất khỏe mạnh, còn khỏe hơn khối đàn ông nữa, phải nói như thế…”

Lại tạm dừng, ông liếc nhìn Poirot gần như cẩu khẩn:

“Ông bảo sáng nay cô ấy chưa hề rời khỏi bãi biển à, ông Poirot?”

Lắc đầu chầm chậm, Poirot đáp:

“Ông thanh tra à, cô ta đã xuống bãi biển trước khi Arlena Marshall tới được Vũng Tiên và cô ấy vẫn trong tầm mắt của tôi cho tới khi lên thuyền đi với anh chàng Redfern.”

Thanh tra rầu rĩ nói: “Như thế là kết thúc điều tra cô ta rồi.”

Ông có vẻ không vui về điều đó.

Vẫn như thường lệ, Hercule Poirot vui khi nhìn thấy Rosamund Darnley.

Ngay cả với một cuộc điều tra của cảnh sát liên quan đến một vụ giết người đáng sợ, cô vẫn mang đến một nét đặc biệt ưu tú của riêng mình.

Cô ngồi xuống đối diện với đại tá Weston và quay khuôn mặt thông minh nghiêm trang nhìn ông:

“Ông muốn biết tên và địa chỉ của tôi phải không? Rosamund Anne Darnley. Tôi điều hành một doanh nghiệp y phục phụ nữ mang tên Rose Mond ở 622 Phố Brook.”

“Cảm ơn cô Darnley. Bây giờ cô có thể cho chúng tôi biết bất cứ điều gì có thể giúp chúng tôi chứ?”

“Thật tình tôi không nghĩ có thể giúp được ạ.”

“Cô đã làm gì và ở đâu?”

“Tôi ăn sáng khoảng chừng chín giờ ba mươi, sau đó lên phòng lấy mấy quyển sách và cái ô che nắng, rồi đi đến Gành Nắng. Chắc hẳn lúc ấy chừng mười giờ hai mươi lăm. Tôi trở về khách sạn khoảng chừng mười hai giờ kém mười, đi lên lấy vợt rồi ra sân quần vợt, tôi chơi quần vợt ở đó mãi đến giờ ăn trưa.”

“Cô đã ở trong cái hốc trên vách đá mà khách sạn này gọi là Gành Nắng từ mười giờ rưỡi đến mười hai giờ kém mười à?”

“Vâng.”

“Sáng nay có khi nào cô trông thấy Arlena Marshall không?”

“Không thấy ạ.”

“Cô có thấy cô ấy từ trên vách đá khi cô ấy chèo bè đến Vũng Tiên không?”

“Không. Chắc hẳn cô ta đã đi qua trước khi tôi đến đó.”

“Sáng nay cô có để ý thấy bất cứ ai trên bè hay thuyền không?”

“Không, tôi không nghĩ là mình trông thấy. Ông biết tôi đang đọc sách mà. Dĩ nhiên thỉnh thoảng tôi ngước nhìn lên nhưng biển hoàn toàn trống vắng mỗi khi tôi làm thế.”

“Cô không để ý thấy ngay cả khi ông Redfern và cô Brewster chèo thuyền qua hay sao.”

“Không ạ.”

“Tôi nghĩ cô từng quen biết ông Marshall phải không?”

“Đại úy Marshall là bạn cũ của gia đình tôi. Nhà chúng tôi ở sát vách nhau. Tuy nhiên, tôi không gặp anh ấy đã khá nhiều năm rồi - chắc khoảng chừng mười hai năm.”

“Còn Arlena Marshall thì sao?”

“Tôi không trao đổi gì mấy với cô ta trước khi gặp ở đây.”

“Theo như cô được biết thì vợ chồng đại úy Marshall có hòa thuận với nhau hay không?”

“Hoàn toàn hòa thuận, phải nói như thế.”

“Có phải đại úy Marshall tận tình chăm lo cho vợ?”

Rosamund đáp:

“Có lẽ như thế. Thật tình tôi không thể nói gì về chuyện ấy. Đại úy Marshall khá cổ hủ - anh ấy không có cái lề thói tân thời là la lối vì buồn phiền trong cuộc sống vợ chồng để mọi người đều biết.”

“Cô có quý Arlena Marshall không, cô Darnley?”

“Không.”

Âm đơn ấy thốt ra bình thản đều đều. Nghe đúng như vậy - chỉ đơn giản nêu lên một thực tế.

“Sao lại thế?”

Một nụ cười nửa miệng hiện lên trên đôi môi Rosamund, cô nói: “Chắc chắn ông đã phát hiện ra Arlena Marshall không được phụ nữ ưa thích chứ? Cô ta chán ghét phụ nữ và tỏ rõ điều ấy. Tuy thế, tôi muốn may y phục cho cô ta. Cô ta rất có khiếu ăn mặc. Trang phục của cô ta vẫn luôn rất đúng mực và mặc vào rất hợp. Tôi rất muốn cô ta làm khách hàng của mình.”

“Cô ấy chi tiêu rất nhiều vào mua sắm y phục à?”

“Chắc hẳn thế. Nhưng cô ta có tiền riêng và dĩ nhiên đại úy Marshall cũng khá giả.”

“Cô có bao giờ nghe nói hay nghĩ đến chuyện bà Marshall đang bị tống tiền không, cô Darnley?”

Một nét kinh ngạc hiện lên trên khuôn mặt đầy xúc cảm của Rosamund.

“Tống tiền à? Arlena sao?” cô hỏi.

“Ý tưởng ấy dường như khiến cô ngạc nhiên?”

“Thưa vâng, dĩ nhiên thế. Chuyện ấy có vẻ không phù hợp lắm.”

“Nhưng chắc chắn vẫn có thể xảy ra chứ?”

“Mọi chuyện đều có thể xảy ra, phải không? Đời đã sớm dạy cho ta điều ấy. Nhưng tôi không hiểu kẻ nào đó tống tiền Arlena vì cái gì cơ chứ?”

“Tôi cho rằng có một số chuyện gì đấy mà bà Marshall có lẽ đã không muốn đến tai chồng, đúng không?”

“À - à, đúng thế.”

Cô diễn tả sự ngờ vực trong giọng nói của mình với một nụ cười nửa miệng:

“Tôi nói nghe có vẻ nghi ngờ đúng không, nhưng mà Arlena khá tai tiêng về cách cư xử, cô ta chưa bao giờ cố ra vẻ mình là người đáng tôn kính cả.”

“Cô nghĩ chồng cô ấy biết rõ quan hệ thân mật của cô ấy với những kẻ khác hay sao?”

Có một khoảnh khắc tạm dừng. Rosamund dang cau mày. Cuối cùng cô miễn cưỡng đáp thật chậm rãi:

“Thật tình tôi chẳng biết phải nghĩ gì nữa. Tồi vẫn luôn cho rằng Kenneth Marshall hết sức thẳng thắn, chấp nhận vợ mình là người như thế. Anh ấy không hề có ảo tưởng về cô ta. Nhưng cũng có thể không phải vậy.”

“Có lẽ ông ấy tuyệt đối tin tưởng vợ à?”

Rosamund có vẻ hơi bực mình.

“Đàn ông ngốc nghếch như thể đó. Còn Kenneth vốn thiếu kinh nghiệm trên trường đời dưới cái dáng vẻ tự tin hiểu biết của anh ấy. Có lẽ đã tin tưởng vợ một cách mù quáng. Có lẽ cứ tưởng chỉ là cô ta - được ái mộ mà thôi.”

“Cô không biết bất cứ ai - tức là nghe nói bất cứ ai có thể có ác cảm với Arlena Marshall à?”

Rosamund Darnley mỉm cười đáp:

“Chỉ toàn những bà vợ oán giận. Cô ta lại bị siết cổ nên tôi cho rằng người đã giết chết cô ta là đàn ông.”

“Phải.”

Rosamund nói với vẻ đăm chiêu:

“Không, tôi không nghĩ ra bất cứ người nào. Nhưng tôi làm sao mà biết được, ông phải hỏi ai đó trong đám người thân mật với cô ta chứ.”

“Cảm ơn cô Darnley.”

Hơi xoay người một chút trên ghế, cô hỏi:

“Ông Poirot có câu nào cần hỏi không ạ?”

Nụ cười thoáng mỉa mai của cô hướng về ông thám tử như một ánh chớp.

Hercule Poirot mỉm cười, lắc đầu đáp:

“Tôi không nghĩ ra câu nào cả.”

Rosamund Darnley đứng lên rồi đi ra.