Chương 10
Đám người ùa ra khỏi quán Bò Mộng Đỏ. Buổi thẩm tra đã kết thúc - sau nửa tháng sẽ tiếp tục.
Rosamund Darnley tới gặp đại úy Marshall. Cô hạ giọng nói: “Không đến nỗi quá tệ, phải không Ken?”
Anh không trả lời ngay tức khắc. Có lẽ anh thấy rõ những cặp mắt nhìn chòng chọc của dân làng, những ngón tay gần như chỉ trỏ vào anh và không chỉ có vậy.
“Là ông ta đó, mình à!”
“Thấy không, chồng bà ta đó!”
“Đó là ông chồng.”
“Kìa, ông đi kìa kìa…”
Những lời nói lầm rầm đó không đủ lớn để tới tai đại úy, dù vậy anh vẫn nhạy cảm với chúng. Đó là gông cùm thời hiện đại. Báo chí thì anh đã gặp phải rồi - những thanh niên trẻ trung tự tin, có sức thuyết phục, có tài phá đổ bức tường im lặng không có gì để nói mà anh đã cố dựng lên. Ngay cả một từ đơn âm cụt ngủn anh thốt ra, cứ tưởng ít nhất cũng không dẫn tới chuyện hiểu lầm, lại xuất hiện trên tờ nhật báo buổi sáng dưới một hình thức dối trá hoàn toàn khác hẳn. “Được hỏi phải chăng ông đồng ý rằng điều bí ẩn về cái chết của vợ mình chỉ có thể giải thích bằng cách cho rằng một kẻ cố ý giết người đã tìm cách lên được hòn đảo ấy, đại úy Marshall tuyên bố rằng…” vân vân và vân vân.
Máy ảnh thì lách cách không ngừng. Giờ đây, chính giây phút này, cái âm thanh quen thuộc đó lại lọt vào tai anh. Anh hơi quay người lại - một thanh niên tươi cười đang gật gù phấn khởi, mục đích của cậu ta đã đạt được rồi.
Rosamund lẩm bẩm:
“ Đại úy Marshall cùng một người bạn rời khỏi quán Bò Mộng Đỏ sau buổi thẩm tra. ”
Marshall nhăn nhó khó chịu. Rosamund nói: “Vô ích thôi, Ken! Anh phải đối mặt với chuyện ấy! Ý của em không phải chỉ là chuyện Arlena đã mất - em muốn nói tất cả những chuyện bẩn thỉu đê tiện kèm theo đó. Những đôi mắt nhìn chòng chọc, miệng lưỡi bàn ra tán vào, những bài phỏng vấn ngớ ngẩn trên mặt báo - và cách tốt nhất để đương đầu với chúng là thấy chúng thật buồn cười! Cứ công khai phản bác tất cả những lời sáo rỗng cũ rích vô nghĩa và cong môi nhạo báng chúng đi!”
“Đấy là cách của em à?”
“Vâng.” Cô tạm dừng. “Đó không phải cách của anh, em biết mà. Đổi màu để phòng vệ là sở trường của anh. Vẫn cứ thụ động một cách cứng nhấc và biến mất dần ra đằng sau hậu trường. Nhưng ở đây anh không thể làm vậy - không có hậu trường nào để anh dần dần lui vào đâu. Anh nổi bật lên thật rõ ràng, tất cả đều trông thấy - như một con hổ vằn nổi trên phông nền màu trắng. Chồng của một người đàn bà bị sát hại! ”
“Chúa ơi, Rosamund…”
Cô nói thật dịu dàng: “Anh ơi, em đang cố làm điều tốt cho anh mà.”
Hai người đi vài bước trong im lặng, rồi Marshall nói với một giọng khác hẳn:
“Anh biết em như thể. Thật ra anh không phải là kẻ vô ơn, Rosamund.”
Họ đã ra bên ngoài ranh giới của ngôi làng. Những cặp mắt dõi theo họ, nhưng không có ai ở gần lắm. Giọng Rosamund hạ thấp xuống khi cô lặp lại nhận xét lúc ban đầu có khác đi một chút:
“Sự việc đã xảy ra thật sự không quá tồi tệ, phải không anh?”
Marshall im lặng một lúc rồi đáp: “Anh không biết nữa.”
“Cảnh sát nghĩ gì thế?”
“Họ không bộc lộ gì cả.”
Một lát sau Rosamund nói: “Cái ông nhỏ thó ấy - Poirot - ông ta tích cực quá!”
“Dường như hôm nọ chỉ ngồi đấy, hoàn toàn bị cảnh sát trưởng giật dây thôi.”
“Em biết - nhưng có phải ông ta đang làm gì đó hay không?”
“Làm thế quái nào anh biết được chứ, Rosamund?”
Cô nói với vẻ đăm chiêu:
“Ông ta khá già rồi. Có lẽ ít nhiều cũng lú lẫn rồi.”
“Có lẽ thế.”
Hai người đi tới con đường đắp. Đối diện với họ hòn đảo nằm thanh thản dưới ánh mặt trời.
Bất chợt Rosamund nói: “Đôi lúc - mọi thứ dường như không có thật. Giây phút này em không thể nào tin chuyện ấy đã từng xảy ra…”
Marshall nói chậm rãi:
“Có lẽ anh hiểu em muốn nói gì. Tạo hóa thật quá vô tâm! Chỉ bớt là bớt đi một con kiến - với thiên nhiên thì chỉ thế thôi!”
“Vâng - và thật sự đó là cách thích hợp để nhìn nhận chuyện ấy.”
Anh liếc nhìn cô một cái rất nhanh rồi hạ giọng bảo:
“Đừng lo lắng, em ơi! Không sao, không sao đâu.”
Linda đi xuống con đường đắp để gặp hai ngươi. Cô gái bước giật cục như một con ngựa non hoảng sợ. Khuôn mặt non trẻ xấu hẳn đi vì quầng thâm đen dưới hai con mắt. Đôi môi khô ran và thô ráp.
Linda nói gần muốn hụt hơi:
“Thế nào rồi… thế… họ kết luận thế nào?”
Marshall vội đáp: “Buổi thẩm tra lùi nửa tháng.”
“Như thế nghĩa là họ - họ chưa quyết định sao?”
“Ừ. Cần có thêm chứng cứ.”
“Nhưng - nhưng họ nghĩ gì ạ?”
Marshall bất giác khẽ mỉm cười:
“Ôi, con ơi - ai biết được chứ? Con nói họ là muốn nói đến ai? Điều tra viên, thẩm tra viên, phóng viên, cảnh sát, hay là dân chài ở vịnh?”
“Con… ý con muốn nói đến - cảnh sát ạ.”
Marshall nói thật lạnh nhạt:
“Thế nào đi nữa thì cảnh sát cũng không để lộ lúc này đâu.”
Môi anh mím chặt sau khi nói câu đó. Anh đi yào khách sạn.
Rosamund Darnley dợm bước theo sau, Linda cất tiếng gọi:
“Cô Rosamund!”
Cô quay lại. Lời khẩn cầu câm lặng trên khuôn mặt bất hạnh của Linda khiến cô cảm động. Cô khoác tay cô bé cùng rời xa khách sạn theo lối mòn dẫn tối đầu kia của đảo.
Rosamund dịu dàng bảo:
“Cháu cố đừng bận tâm quá nhiều, Linda nhé. Cô biết mọi chuyện hết sức khủng khiếp, là một cú sốc, nhưng cứ ấp ủ trong lòng những điều này cũng chẳng ích lợi gì đâu. Cháu lo lắng vì việc này quả là ghê gớm thôi. Dù sao thì cháu cũng đâu có quý Arlena.”
Cô cảm thấy người cô bé run lên trong khi nói: “Không, châu chẳng ưa bà ta.”
Rosamund nói tiếp:
“Thương tiếc một người thì khác - không thể bỏ lại điều ấy đằng sau. Nhưng có thể vượt qua cú sốc và nỗi kinh hoàng, chỉ cần đừng đế chuyện ấy lúc nào cũng lởn vởn trong tâm trí mình.”
Linda nói thật gay gắt: “Cô không hiểu đâu.”
“Cô nghĩ mình hiểu mà cháu.”
Cô bé lắc đầu. “Không đâu. Cô không hiểu một chút nào - và cô Christine cũng không hiểu. Cả hai người đều tử tế với cháu, nhưng không hiểu được cháu đang cảm thấy thế nào đâu. Cứ nghĩ điều ấy chỉ là kinh khủng - rằng cháu cứ chăm chăm bám vào khi không cần phải thế.”
Cô bé tạm dừng lại. “Nhưng hoàn toàn không phải thế đâu. Giá như cô biết điều cháu biết…”
Rosamund đứng khựng lại. Thân mình cô không run lên - ngược lại nó cúng đờ. Cô đứng đó chừng một hai phút rồi rút cánh tay ra khỏi cánh tay Linda.
“Điều cháu biết là gì thế?” cô hôi.
Cô bé nhìn cô chằm chằm rồi lắc đầu khẽ đáp:
“Không gì cả.”
Rosamund nắm lấy cánh tay cô bé. Cô bấu chặt khiến Linda thấy đau nên hơi nhăn nhó một chút.
“Cẩn thận đó, Linda! Phải hết sức cẩn thận,” Rosamund bảo.
Trở nên trắng bệch như xác chết, cô bé nói: “Cháu rất cẩn thận - lúc nào cũng thế ạ.”
Rosamund khẩn khoản: “Nghe này, Linda, điều cô vừa nói cách đây một vài phút cũng vẫn thích hợp đấy - còn thích hợp hơn cả trăm lần. Hãy gạt toàn bộ việc ấy ra khỏi tâm trí! Đừng bao giờ nghĩ đến nữa! Quên đi - quên đi… Nếu cố gắng thì cháu có thể quên! Arlena chết rồi, chẳng thể nào mà sống lại được… Hãy quên hết mọi chuyện và tiếp tục sống! Và trên hết, hãy giữ mồm giữ miệng !”
Hơi co rúm lại, Linda nói: “Dường như - dường như cô biết?”
Rosamund trả lời thật dứt khoát:
“Cô không biết gì cả. Theo ý kiến của cô, một thằng điên lang thang đã lên được hòn đảo và giết Arlena. Đó là đáp án có nhiều khả năng xảy ra nhất. Cô khá chắc chắn cuối cùng cảnh sát sẽ phải chấp nhận thế. Đó là chuyện chắc hẳn đã xảy ra! Đó là chuyện thực tế đã xảy ra!”
“Nếu là bố…” cô bé nói.
Rosamund ngắt lời: “Không nói về chuyện đó!”
“Cháu phải nói một điều. Mẹ cháu…”
“À, mẹ cháu thì sao?”
“Mẹ - mẹ từng bị xét xử vì tội giết người, phải không cô?”
“Phải.”
Linda nói thật chậm rãi:
“Rồi sau đấy bố vẫn cưới mẹ. Có vẻ như bố thật sự không nghĩ giết người là chuyện sai trái - không phải lúc nào cũng thế, phải không cô?”
Rosamund gắt:
“Đừng nói những chuyện như thể - ngay cả với cô! Cảnh sát đã không tìm được bất cứ điều gì kết tội bố cháu. Bố cháu có chứng cứ ngoại phạm - một chứng cứ mà họ không thể nào bác bỏ. Bố cháu bình an vô sự.”
Cô bé thì thầm:
“Có phải ban đầu họ đã nghĩ là bố…?”
Rosamund kêu lên:
“Cô chẳng biết họ đã nghĩ gì đâu! Nhưng bây giờ họ biết bố cháu không thể nào làm chuyện đó . Cháu hiểu không? Bố cháu không thể nào làm chuyện đó đâu.”
Giọng cô đầy uy quyền, ánh mắt cô ép Linda phải phục tùng. Cô bé buông ra một tiếng thỏ dài thườn thượt.
“Cháu sẽ sớm rời khỏi đây,” Rosamund nói. “Sẽ quên đi mọi chuyện - mọi chuyện.”
Thật bất ngờ, Linda đột nhiên nói thật hung hàng:
“ Cháu sẽ không bao giờ quên đâu. ”
Linda quay ngoắt đi rồi chạy về khách sạn. Rosamund đăm đăm nhìn theo.
“Có một điều tôi muốn biết, thưa cô.”
Christine Redfern liếc nhìn lên Poirot có vẻ hợi ngơ ngác. “Sao ạ?” cô hỏi.
Hercule Poirot có hơi để ý một chút đến sự lơ đãng của cô. Ông đã lưu ý cách cô dõi mắt nhìn theo bóng dáng chồng đang đếm bước lui lui tới tới trên trảng đất bên ngoài quầy rượu, nhưng lúc này ông không qụan tâm đến những vấn đề thuần túy trong quan hệ vợ chồng, mà chỉ muốn biết các thông tin.
“Phải, thưa cô. Đó là một câu - một câu ngẫu nhiên cô nói hôm nọ khiến tôi chú ý.”
Vẫn dán mắt vào Patrick, Christine hỏi:
“Gì thế? Tôi đã nói gì ạ?”
“Đó là khi trả lời một câu hỏi của cảnh sát trưởng. Cô kể lại vào buổi sáng xảy ra án mạng, cô đã vào phòng Linda và không thấy con bé trong phòng, sau đó Linda đã trở lại, và chính lúc đó cảnh sát trưởng hỏi cô là con bé đã đi đâu.”
Christine có vẻ hơi sốt ruột.
“Và tôi nói là nó đã đi tắm biển à? Phải thế không?”
“A, nhưng cô không hoàn toàn nói như vậy. Cô không nói nó đã đi tắm biển . Lời cô nói là, con bé bảo đã đi tắm biển .”
“Cũng y như nhau, khác gì đâu.”
“Không, không phải như nhau đâu! Hình thức của câu trả lời gợi lên một cách nhìn nào đó của riêng cô. Linda Marshall vào trong phòng - đang mặc đồ tắm, mà tuy vậy - vì một lý do nào đó - cô không lập tức cho rằng con bé đã đi tắm biển. Điều đó chứng tỏ qua lời cô nói, con bé bảo đã đi tắm biển . Vẻ bề ngoài của cô bé đã có điều gì – có phải là điệu bộ, bộ đồ trên người hay lời nói – khiến cô thấy ngạc nhiên khi cô bé bảo đã đi tắm biển?”
Christine không chăm chú nhìn chồng nữa mà hoàn toàn tập trung vào Poirot, cảm thấy thật thích thú.
“Ông thông minh thật đấy. Hoàn toàn đúng như thế, bây giờ tôi nhớ rồi… Tôi có hơi ngạc nhiên khi Linda bảo đã đi tắm biển.”
“Nhưng tại sao, thưa cô, tại sao vậy?”
“À, vì sao nhỉ? Đúng là điều tôi đang cố nhớ lại. À phải rồi, có lẽ là một cái gói trên tay cô bé.”
“Cô bé cầm một cái gói à?”
“Vâng.”
“Cô không biết trong đó có cái gì à?”
“Biết chứ. Sợi dây bị đứt. Lỏng lẻo theo cách buộc dây ở trong làng. Là nến - rơi vãi trên sàn tôi đã giúp nó nhặt lên.”
“A,” thám tử nói. “Những cây nến.”
Christine ngó ông lom lom:
“Ông có vẻ kích động, ông Poirot ạ.”
Thám tử hỏi: “Linda có nói mua nến để làm gì hay không?”
Christine ngẫm nghĩ kỹ rồi đáp:
“Không, không thấy nó nói. Tôi cho là để đọc sách ban đêm - có lẽ đèn điện không đủ sáng.”
“Ngược lại, thưa bà, có một đèn điện bên cạnh giường, rất hoàn hảo kia mà.”
“Thế thì tôi chẳng biết nó cần đến chúng để làm gì.”
Poirot hỏi: “Thái độ Linda ra sao khi sợi dây bị đứt và nến từ trong cái gói rớt ra?”
Christine trả lời chậm rãi: “Nó — lo lắng — bối rối.”
Poirot gật đầu rồi hỏi:
“Cô có để ý thấy một cuốn lịch trong phòng Linda hay không?”
“Lịch à? Loại lịch nào thế?”
Poirot đáp: “Có thể là một cuốn lịch màu xanh lá cây – lịch rờ rời.”
Christine nheo mắt cố nhớ lại:
“Một quyển lịch màu xanh lá - đúng ra là xanh tươi. Vâng, tôi từng thấy một quyển lịch như thế – nhưng không nhớ được ở đâu. Có thể trong phòng Linda, nhưng tôi không thể chắc chắn.”
“Nhưng rõ ràng bà đã thấy một vật như vậy.”
“Vâng.”
Poirot lại gật đầu. Christine hỏi khá gay gắt:
“Ông đang ám chỉ điều gì, thưa ông Poirot? Tất cả chuyện này là nghĩa lý gì cơ chứ?”
Để trả lời, Poirot đưa ra một quyển sách nhỏ đóng bìa da nâu đã phai màu rồi hỏi:
“Trước đây bà có bao giờ nhìn thấy cuốn sách này hay chưa?”
“Ờ - tôi nghĩ - tôi không chắc - vâng, hôm nọ, Linda đọc cuốn này lúc ở trong thư viện của làng, nhưng thấy tôi đến, nó liênd gấp lại rồi đút trả. Thế nên tôi vẫn tự hỏi đấy là sách gì.”
Thám tử lặng lẽ trưng ra tựa sách.
Lịch sử phép phù thủy, ma thuật và cách hào chế thuốc độc không thể phát hiện.
“Tôi không hiểu,” Christine nói. “Tất cả cái này nghĩa là gì?”
Poirot đáp giọng nghiêm trọng: “Có thể có rất nhiều ý nghĩa đó, thưa cô.”
Cô nhìn ông dò hỏi nhưng ông không nói tiếp.
Thay vào đó ông lại hỏi:
“Một câu hỏi nữa, thưa cô, sáng hôm đó cô có tắm trong bồn trước khi ra sân quần vợt hay không?”
Christine lại nhìn chòng chọc:
“Tắm bồn à? Không. Tôi không có thời gian và dù sao tôi cũng không muốn tắm trong bồn - trước khi chơi quần vợt. Có thể tắm bồn sau đấy.”
“Cô có sử dụng nhà vệ sinh khi về phòng không?”
“Tôi có lau mặt và tay bằng bọt biển, chỉ thế thôi.”
“Cô không hề mở vòi nước ở bồn tắm?”
“Không, chắc chắn tôi không mở.”
Poirot gật đầu nói: “Chuyện đó chẳng quan trọng gì đâu.”
Hercule Poirot đứng cạnh cái bàn nơi bà Gardener đang vật lộn với trò chơi ghép hình. Bà ta ngước nhìn lên rồi nhảy nhổm.
“Thế nào hở ông Poirot, ông đến khẽ quá! Chẳng hề nghe tiếng ông. Vừa trở về từ buổi thẩm tra hay sao? Ông biết đó, chỉ cần nghĩ đến buổi thẩm tra ấy là tôi đã bị căng thẳng thần kinh quá thể, chẳng biết phải làm gì nữa. Bởi thế cho nên tôi mới chơi cái trò này. Chỉ là cảm thấy không thể nào ra ngồi ngoài bãi biển như thường lệ. Như ông nhà tôi biết đó, khi thần kinh tôi rối tung lên cả, chẳng gì bằng trò chơi này để làm tôi bình tĩnh lại cả. Bây giờ thì cái mảnh màu trắng này ráp vào đâu nhỉ? Chắc là một phần của bộ lông, nhưng hình như tôi không thấy…”
Nhẹ nhàng cầm lấy mảnh ghép từ trên tay bà ta, Poirot nói: “Ráp vào đây vừa khít này, Madame . Đó là một phần của con mèo.”
“Không thể nào. Là con mèo mun cơ mà.”
“Một con mèo mun, phải, nhưng bà thấy chót đuôi của mẻo mun thường ngẫu nhiên có màu trắng đó.”
“Ừ nhỉ, thế thì đúng rồi! Ông thông minh quá! Nhưng tôi vẫn nghĩ những người làm thứ trò ghép hình này thật lành nghề. Họ trổ hết tài lừa ta mà thôi.”
Bà ta lắp một mảnh nữa rồi trở lại với cuộc chuyện trò:
“Ông biết đó, ông Poirot à, tôi cứ mải quan sát ông một hay hai hôm vừa qua. Chỉ muốn quan sát ông làm thám tử, không rõ ông có hiểu ý tôi không - chằng phải vì như thế nghe có vẻ khá vô tâm, như thể tất cả chỉ là một trò chơi - và một sinh vật đáng thương đã bị giết chết, ối giời ôi, mỗi lần nghĩ đến chuyện ấy tôi lại rùng mình một cái đó! Sáng hôm nay tôi đã bảo ông nhà tôi là phải bỏ nơi đây mà đi thôi, và bây giờ buổi thẩm tra đã kết thúc ông ấy nghĩ ngày mai chúng tôi có thể rời khỏi đây và chắc chắn đó là Chúa đã ban phúc lành. Nhưng còn chuyện làm thám tử thì tôi rất muốn được biết phương pháp của ông - ông biết dó, tôi sẽ cảm thấy được ban cho một đặc ân – chỉ cần ông giải thích cho tôi hiểu.”
“Hơi giống như trò chơi của bà đó, thưa bà,” Hercule Poirot nói. “Ta cứ tập hợp lại các mảnh rời. Giống như một bức tranh - nhiều màu sắc và hoa văn - và mỗi mảnh ghép nhỏ có hình dâng kỳ lạ phải được lắp vào đúng chỗ của nó.”
“Thế chẳng phải thú vị lắm hay sao? Ừ nhỉ, tôi chắc ông giải thích công việc đó quá là hay.”
Poirot nói tiếp:
“Và đôi khi giống như mảnh ghép của bà vừa rồi đó. Ta thường xếp đặt các mành ghép rất đúng phương pháp - ta chọn lựa màu sắc - rồi sau đó có lẽ một mảnh ghép có một màu sắc ráp vào sẽ thích hợp với - tức là với bộ lông - thay vì thích hợp với cái đuôi của một con mèo mun.”
“Ừ nhỉ, thế thì chẳng phải có vẻ hấp dẫn quá hay sao! Và phải chăng có rất rất nhiều mảnh ghép, hở ông Poirot?”
“Phải, thưa bà. Hầu hết mọi người ở đây trong khách sạn này đều cho tôi một mảnh ghép để tôi chơi trò ghép hình. Bà cũng trong số đó.”
“Tôi sao?” bà Gardener hỏi với giọng the thé.
“Phải, một nhận xét của bà đã cực kỳ hữu ích, thưa bà. Có thể nói nó đã làm sáng tỏ nhiều điều.”
“À, thế thì chẳng phải quá tuyệt với sao! Ông có thể cho tôi biết thêm đôi điều nữa, được không ông Poirot?”
“A! Thưa bà, tôi xin chừa lại lời giải thích đó cho tới chương cuối cùng.”
Bà Gardener lầm bầm: “Thế thì chẳng phải quá tệ sao!”
Thám tử gõ nhẹ cửa phòng đại úy Marshall. Bên trong có tiếng máy đánh chữ.
Một lời “Mời vào!” cụt ngủn từ trong phòng vọng ra, và Poirot bước vô.
Đại úy Marshall quay lưng về phía ông. Anh ta đang ngồi đánh máy ở cái bàn giữa hai cửa sổ. Không quay đẩu lại nhưng ánh mắt anh ta nhìn thám tử trong cái gương treo trên vách tường ở ngay trước mặt. Anh bực dọc hỏi:
“Này ông Poirot, cái gì thế?”
Thám tử đáp thật nhanh:
“Ngàn lần xin thú lỗi vì đã đường đột vào đây. Ông đang bận à?”
Marshall đáp cộc lốc: “Dĩ nhiên tôi bận.”
“Có một câu hỏi nhỏ tôi muốn hỏi ông.”
“Chúa ôi, tôi đã chán trả lời các câu hỏi. Đã trả lời các câu hỏi của cảnh sát rồi. Tôi cảm thấy không có nghĩa vụ phải trả lời câu hỏi của ông đâu.”
“Câu hỏi của tôi rất đơn giản. Chỉ là thế này. Buổi sáng cô nhà mất, ông có tắm trong bồn sau khi đánh máy xong và trước khi ra sân quần vợt hay không?”
“Tấm bồn à? Không, dĩ nhiên là không rồi! Tôi mới tắm biển một giờ trước đấy mà.”
“Cám ơn ông. Chỉ có vậy thôi.”
“Nhưng này ông. Ôi…” Marshall có vẻ do dự.
Poirot rút lui, nhẹ nhàng khép cửa lại.
“Thằng cha này mất trí rồi!” Kenneth Marshall nói.
Ngay bên ngoài quầy rượu Poirot gặp ông Gardener. Ông ta đang cầm theo hai ly rượu cocktail, rõ ràng trên đường tới chỗ bà vợ đang thoải mái ngồi chơi trò ghép hình.
Ông ta vui vẻ mỉm cười với thám tử:
“Cần gặp chúng tôi à, ông Poirot?”
Thám tử nhún vai rồi hỏi lại:
“Ông nghĩ gì về buổi thẩm tra, ông Gardener?”
Ông Gardener hạ giọng đáp: “Đối với tôi hình như có phần nào mơ hồ. Tôi được biết cảnh sát các ông đã nắm được rồi nhưng còn giữ kín.”
“Có thể như vậy,” Poirot nói.
Ông Gardener hạ giọng xuống thấp hơn nữa:
“Tôi sẽ rất vui nếu đưa được bà nhà tôi đi nơi khác. Bà ấy là người rất rất nhạy cảm và vụ này đã ảnh hưởng đến thần kinh bà ấy. Bà ấy bị căng thẳng cao độ đó.”
“Cho phép tôi hỏi ông một câu, được không ông Gardener?”
“Ồ, tát nhiên rồi, ông Poirot à. Rất vui thích được hỗ trợ cho ông về bất cứ phương diện nào tôi có thể làm được.”
“Ông là người từng trải - tôi nghĩ là người rất nhạy bén. Nói thẳng ra ông có ý kiến gì về cô Marshall quá cố?”
Hàng lông mày của ông Gardener nhướn lên vì kinh ngạc, ông thận trọng liếc nhìn quanh rồi hạ giọng
“Ông Poirot này, tôi có nghe vài chuyện mà mọi người, đám phụ nữ ấy, hay nói qua nói lại – chắc ông hiểu rồi.” Poirot gật đầu. “Nhưng nếu ông muốn hỏi thì tôi xin cho ông biết ý kiến thẳng thắn của tôi, và đó là: cái cô đó xinh thì có xinh, nhưng thật là ngu ngốc!”
Hercule Poirot nói với vẻ trầm tư: “Bây giờ thì thật là thú vị.”
Rosamund hỏi: “Thế là đến lượt tôi rồi nhỉ?”
“Xin lỗi cô nói gì vậy?”
Cô bật cười: “Hôm kia cảnh sát trưởng đã tiến hành cuộc diều tra của ông ta. Ông ngồi gần bên. Hôm nay chắc ông đang thực hiện cuộc thẩm tra không chính thức của riêng mình. Tôi đã để ý ông. Trước tiên là chị nhà Redfern, sau đó tôi thoáng thấy ông qua cửa ở sảnh, nơi bà Gardener đang chơi cái trò ghép hình đáng ghét. Bây giờ thì đến lượt tôi.”
Hercule Poirot ngồi xuống bên cạnh cô. Họ đang ở trên Gành Nắng. Bên dưới mặt biển rực lên một màu xanh lục sẫm. Xa xa ngoài kia chói lọi một màu xanh lam nhạt.
Poirot nói: “Cô rất thông minh, Mademoiselle . Tôi đã nghĩ như vậy kể từ khi tới đây. Bàn việc này với cô thật thích thú.”
Rosamund Darnley hỏi thật dịu dàng:
“Ông muốn biết tôi nghĩ gì về toàn bộ chuyện này hay sao?”
“Sẽ rất thú vị đó.”
Rosamund nói: “Tôi nghĩ thật ra rất đơn giản. Manh mối ở trong quá khứ của người đàn bà ấy.”
“Quá khứ à? Không phải hiện tại sao?”
“Ôi, không nhất thiết phải là quá khứ rất xa xăm đâu. Tôi nhìn nhận chuyện ấy như thể này. Arlena rất quyến rũ đối với đàn ông, quyến rũ đến chết đi được. Chắc cô ta cũng cả thèm chóng chán thôi. Trong đám người - theo đuổi cô ta, gọi thế nhé - có một gã đã phẫn uất vì chuyện ấy. Ôi, xin chớ hiểu nhầm tôi, không phải là một kẻ nổi bật nào đó. Có lẽ là một gã nhỏ nhen, ti tiện lạnh lùng nào đó, phù phiếm và nhạy cảm - hạng đàn ông ấp ủ trong lòng những ý đồ xấu. Có lẽ hắn đi theo cô ta xuống đây, chờ đợi thời cơ rồi giết cô ta.”
“Ý cô muốn nói là người ngoài, đến từ đất liền à?”
“Vâng. Có lẽ hắn đã nấp trong cái động ấy, chờ đến khi có cơ hội thuận tiện.”
Poirot nhún vai. “Cô Marshall chịu tới đó để gặp một gã như cô miêu tả hay sao? Không, cô ta sẽ cười nhạo và không đi dâu.”
“Có thể cô ta không biết sẽ gặp hắn. Có thể hắn đã gửi cho cô ta một lời nhắn giả danh một kẻ khác.”
“Cũng có thể như vậy,” Poirot lẩm bẩm. “Nhưng cô quên một điều, thưa cô. Một kẻ có ý đồ giết người không thể liều lĩnh giữa ban ngày ban mặt băng qua con đường đắp, rồi đi ngang qua khách sạn. Ai đó nhìn thấy hắn ta thì sao.”
“Người ta có thể trông thấy, nhưng không chắc chắn được. Tôi nghĩ rất có khả năng hắn đã đến mà không có ai để ý cả.”
“Có khả năng như vậy, phải. Tôi công nhận với cô. Nhưng vấn dề là hắn không thể tính tới khả năng đó.”
Rosamund hỏi: “Ông không quên điều gì chứ? Thời tiết.”
“Thời tiết à?”
“Vâng. Cái ngày xảy ra án mạng rất đẹp trời, nhưng ngày hôm trước, ông nhớ không, đã có mưa và sương mù dày đặc. Bất cứ ai cũng có thể lên đảo lúc ấy mà chẳng ai trông thấy cả. Hắn chỉ cẩn đi xuống bãi, rồi qua đêm trong cái động. Sương mù ấy thật quan trọng, ông Poirot ạ.”
Thám tử đăm chiêu nhìn cô chừng một hai phút rồi nói:
“Cô biết đó, có rất nhiều điều trong lời cô vừa nói.”
Rosamund đỏ mặt: “Đó là giả thuyết của tôi, cũng có thể không đúng. Bây giờ xin cho tôi biết giả thuyết của ông!”
“A!” Poirot đăm đăm nhìn xuống biển. “ Eh bien, Mademoiselle. Tôi là một người rất đơn giàn. Lúc nào cũng có chiều hướng tin kẻ có khả năng nhiều nhất đã phạm tội giết người. Ngay từ đầu hình như với tôi có một kẻ đã được chỉ ra rất rõ ràng.”
Giọng Rosamund gay gắt hơn một chút: “Tiếp tục đi!”
“Và cô thấy đó, có một chuyện gọi là trở ngại bất ngờ ở dọc đường. Hình như không thể nào kẻ đó lại phạm tội được.”
Ông nghe tiếng cô thở hắt ra thật nhanh. Cô hỏi, gần như hụt hơi:
“Sao ạ?”
Hercule Poirot nhún vai.
“À, chúng tôi làm gì bây giờ ư? Đó là chuyện của tôi.” Ông tạm dừng rồi nói tiếp. “Xin hỏi cô một câu, được không?”
“Hẳn nhiên rồi.”
Cô đối mặt với ông, đề phòng, cảnh giác và thận trọng. Nhưng câu hỏi đến thật bất ngờ:
“Sáng hôm đó, khi vào thay đồ để chơi quẩn vợt, cô có tắm trong bồn hay không?”
Rosamund ngó ống lom lom:
“Tắm bồn à? Ông muốn nói gì thể?”
“Đó là ý của tôi. Một bồn tấm! Vật chứa bằng sứ, cứ mở vòi cho nước vào đầy bồn, leo vào leo ra và ọc - ọc - ọc, nước ào xuống ống thoát.”
“Ông Poirot, có phải ông đã hoàn toàn điên khùng rồi không?”
“Không, tôi vô cùng tỉnh trí.”
“À, dẫu sao tôi cũng không tắm trong bồn.”
“Hà! Vậy là chẳng ai tắm trong bồn cả. Thật vô cùng thú vị.”
“Nhưng sao ai đó lại phải tắm trong bồn chứ?”
Hercule Poirot nói: “Đúng vây, tại sao chứ?”
Rosamund nói với chút bực tức:
“Tôi cho đây là thủ pháp của Sherlock Holmes!”
Poirot mỉm cười rồi nhè nhẹ hít ngửi không khí:
“Cô cho phép tôi nói lạc đề được không, Mademoiselle ?”
“Tôi chắc chấn ông không thể lạc đề, ông Poirot ạ.”
“Cô thật tử tế. Vậy tôi xin mạo muội thưa rằng nước hoa cô dùng thật thơm - có một sắc thái - một hương thơm thanh nhã quyến rũ độc đáo.” Ông huơ tay rồi sau đó nói thêm với giọng thực tế. “Có lẽ là Gabrielle, Số 8?”
“Ông thông thạo quá! Vâng, tôi vẫn luôn dùng thứ nước hoa ấy.”
“Cô Marshall quá cố cũng vậy. Thật sang trọng hả? Và rất đắt tiền phải không?”
Rosamund nhún vai, thoáng mỉm cười.
Poirot nói: “Cô đã ngôi ở đây nơi chúng ta đang ngồi, thưa cô, vào buổi sáng xảy ra án mạng. Người ta thấy cô ở đây, hay ít ra cô Brewster và ông Redfern đã thấy cái ô che nắng của cô khi đi ngang qua trên biển. Suốt cả buổi sáng, thưa cô, cô có chắc mình không tình cờ đi xuống Vũng Tiên rồi vào trong cái động ở đó - cái Động Tiên nổi tiếng đó - hay không?”
Quay đầu lại ngó ông trân trân, Rosamund hỏi với giọng đều đều bình thản:
“Ông đang hỏi có phải tôi đã giết Arlena Marshall?”
“Không, tôi đang hỏi cô có vào Động Tiên hay không?”
“Ngay cả nó ở đâu tôi còn không biết nữa là. Sao tôi lại vào trong ấy? Vì lý do gì chứ?”
“Vào ngày xảy ra án mạng, Mademoiselle , có người dùng nước hoa Gabrielle Số 8 đã ở trong cái động đó.”
Rosamund gắt: “Thì chính ông vừa mới nói Arlena vẫn dùng Gabrielle Số 8 đó thôi. Hôm ấy cô ta đã ở trển bãi biển ở đó. Có thể đoán cô ta đã vào trong động.”
“Sao cô ta lại phải vào trong động? Trong đó tối tăm, chật hẹp và không thoải mái.”
Rosamund sốt ruột bảo:
“Đừng hỏi tôi lý do! Vì quả thật cô ta đã đến cái vịnh nhỏ ấy nên là người có khả năng hơn cả. Tôi đã nói với ông tôi không hề rời khỏi nơi này suốt cả buổi sáng kia mà.”
“Ngoại trừ khoảng thời gian cô về khách sạn và tới phòng đại úy Marshall,” Poirot nhắc.
“Vâng, dĩ nhiên. Tôi đã quên điều ấy.”
“Và cô đã lầm, Mademoiselle , vì cứ tưởng đại úy Marshall không nhìn thấy cô.”
Rosamund có vẻ ngờ vực:
“Kenneth quả có trông thấy tôi ư? Anh ấy đã - đã nói thế sao?”
Poirot gật đầu. “Ông ta đã trông thấy cô trong cái gương treo phía trên cái bàn.”
Rosamund hít vào rồi nói: “Ôi, tôi hiểu rồi.”
Poirot không nhìn ra biển nữa mà ngó hai bàn tay cô xếp lại trên đùi. Đó là hai bàn tay hình dáng thật đẹp với những ngón tay thon dài.
Liếc nhìn ông thật nhanh, Rosamund dõi theo ánh mắt của ông rồi hỏi gay gắt:
“Ông nhìn hai bàn tay tôi để làm gì? Ông nghĩ - ông nghĩ là…”
Poirot hỏi lại: “Tôi nghĩ - cái gì vậy, thưa cô?”
Rosamund Darnley đáp: “Không gì cả.”
Có lẽ một tiếng đồng hồ sau Poirot đến đầu lối mòn dẫn xuống Vũng Hải Âu. Có ai đó đang ngồi trên bãi biển. Một dáng hình mảnh mai mặc áo sơ mi màu đỏ và quần short màu xanh đậm.
Poirot đi xuống lối mòn, cẩn thận bước đi trong đôi giày bó chặt sang trọng.
Linda Marshall quay ngoắt đầu lại. Ông nghĩ cô bé hơi co rúm.
Khi ông tới và thận trọng hạ mình ngồi xuống bãi đá bên cạnh cô bé, đôi mắt cô lom lom nhìn ông, nghi ngờ và đề phòng cảnh giác y như một con thú bị mắc bẫy. Ray rứt trong lòng, ông nhận thấy cô bé còn qua non nớt và dễ bị tổn thương biết chừng nào.
“Cái gì thế? Ông muốn gì?” Linda hỏi.
Một lúc lâu Poirot không trả lời. Sau đó ông nói: “Bữa nọ cháu đã nói với cảnh sát trưởng là cháu quý mẹ kế và cô ta rất tử tế với cháu.”
“Sao ạ?”
“Điều đó không đúng, phải không?”
“Đúng, đúng thế mà.”
“Có thể không tệ bạc ra mặt, đúng như vậy. Nhưng cháu không hề yêu quý Arlena - ồ không đâu, tôi nghĩ cháu rất ghét mẹ kế ấy. Có thể thấy rất rõ điều đó.”
“Có lẽ cháu không thích bà ấy lắm. Nhưng không thể nói như thế về người đã khuất. Thế là không phải phép.”
Poirot thở dài hỏi: “Người ta dạy cháu như vậy trong trường à?”
“Đại loại thế.”
Poirot nói: “Khi liên quan tới việc một người bị sát hại thì nói thật quan trọng hơn là nói cho phải phép.”
“ Cháu nghĩ ông thể nào cũng nói như thế.”
“Tôi sẽ nói như vậy và luôn luôn nói như vậy. Công việc của tôi là tìm ra ai là kẻ đã giết chết Arlena Marshall.”
Linda thều thào: “Cháu muốn quên đi tất cả. Thật khủng khiếp!”
Poirot hỏi thật dịu dàng:
“Nhưng cháu không quên được, phải không?”
“Cháu cho rằng một tên điên bẩn thỉu đê tiện nào đấy đã giết bà ấy.”
Poirot khẽ nói: “Không, tôi nghĩ không phải vậy.”
Linda hít vào một hơi rồi hỏi:
“Ông nói nghe như thể đã biết rồi à?”
Poirot đáp: “Có lẽ tôi biết.” Ông tạm dừng rồi nói tiếp. “Cháu có tin tôi sẽ làm hết sức có thể để giúp cháu thoát nỗi phiền muộn đắng cay trong lòng không?”
Linda giãy nảy: “Cháu có phiền muộn gì đâu. Chẳng có gì ông có thể làm để giúp cả. Cháu chẳng hiểu ông đang nói gì.”
Chăm chú theo dõi cô bé, Poirot nói: “Tôi đang nói về những cây nến đó…”
Ông thấy nỗi kinh hoàng chợt bật ra trong mất Linda.
Cô bé kêu lên:
“Cháu không nghe ông đâu. Không nghe đâu.”
Cô bé chạy băng qua bải biển nhanh nhẹn như một con linh dương non, rồi đi như bay lên lối đi ngoằn ngoèo.
Poirot lắc đầu, vẻ mặt nghiêm trang và băn khoăn.