Chương 11
Thanh tra Colgate đang báo cáo với cảnh sát trưởng:
“Tôi đã tiếp tục điều tra một chuyện, thưa sếp, là một chuyện khá giật gân. Đấy là chuyện tiền nong của cô Marshall. Tôi đã bàn chuyện ấy với các luật sư của cô ta. Phải nói chuyện ấy khiến họ hơi bị sốc một chút. Tôi đã có được bằng chứng về chuyện tống tiền. Sếp còn nhớ cô ta đã được ông lão Erskine để lại cho năm mươi nghìn bảng chứ? À, tất cả chỉ còn lại chừng mười lăm nghìn thôi.”
Cảnh sát trưởng huýt sáo:
“Úi chà, phần còn lại đi đâu rồi?”
“Đấy là một vấn đề thú vị, thưa sếp. Thình thoảng cô ta lại bán một hai món, và mỗi lần như thế cô ta lại chỉ nhận tiền mặt hoặc chứng khoán có thể chuyển nhượng thành tiền. Nghĩa là cô ta đã giao tiền cho ai đấy mà không muốn bị lần ra dấu vết. Đúng là tống tiền rồi.”
Cảnh sát trưởng gật đầu.
“Chắc chắn là thế. Và kẻ tống tiền đang ở đây, trong khách sạn này. Nghĩa là chắc hắn là một trong ba người đàn ông ấy. Có điều gì mới về bọn họ hay không?”
“Tôi không tìm được bất cứ điều gì rõ ràng, thưa sếp. Thiếu tá Barry là quân nhân về hưu như ông ta nói. Sống trong một căn hộ nhỏ, có lương hưu và một khoản lợi tức nhỏ từ chứng khoán. Nhưng năm vừa rồi được trả một số tiền khá lớn vào tài khoản.”
“Nghe có vẻ đầy hứa hẹn. Ông ta giải thích thế nào?”
“Bảo đó là tiền thắng cá cược. Ông ta vẫn đến tất cả các cuộc đua ngựa lớn, đặt luôn trong lúc đang đua, không ghi cụ thể sổ sách.”
Cảnh sát trưởng gật đầu:
‘Thật khó bác bỏ chứng cứ ấy. Nhưng nó cũng gợi ý cho ta vài điều.”
Colgate nói tiếp:
“Kế tiếp là cha Lane. Ông ta cũng thành thật đấy. Sống ở nhà thờ Thánh Helen tại Whiteridge, hạt Surrey, chỉ mới thôi cách đây hơn một năm do sức khỏe kém. Rốt cuộc vì sức khỏe yếu kém đến nỗi phải vào một nhà nuôi dưỡng những người mắc bệnh tâm thần. Ông ta ở đó hơn một năm.”
“Đáng quan tâm,” Weston nói.
“Phải, thưa sếp. Tôi cố tìm hiểu càng nhiều càng tốt từ bác sĩ phụ trách nhưng sếp biết mấy ông thầy thuốc này như thế nào rồi - khó lòng cạy răng họ nói cho biết đủ điều ta cần. Nhưng theo như tôi hiểu được thì vấn đề của ông cha cố này là ám ảnh về ác quỷ - đặc biệt là quỷ đội lốt đàn bà - phụ nữ tóc đỏ - con điếm Babylon.”
“Hừm,” Weston nói. “Đã có các tiền lệ giết người thế đấy.”
“Phải, thưa sếp. Tôi thấy là chí ít cha Lane cũng có khả năng là hung thủ. Cô Marshall quá cố là hình mẫu khá điển hình của cái mà ông ta gọi là gái điếm - tóc tai, tư cách và nhiều thứ khác. Tôi thấy là có khả năng ông ta đã cảm thấy trừ khử bà ta là một nhiệm vụ được giao phó. Đấy là nếu ông ta thực sự rồ dại.”
“Chẳng có gì ăn khớp với giả thuyết tống tiền hay sao?”
“Không, thưa sếp, tôi nghĩ ta có thể gạt ông ta khỏi khía cạnh đó. Có một số tài sản riêng nhưng không nhiều lắm và gần đây không đột nhiên tảng thêm.”
“Còn chuyện ông ta đi đâu và làm gì vào ngày xảy ra án mạng thì sao?”
“Không thể có được bất cứ chứng thực nào về chuyện ấy. Chẳng ai nhớ đã gặp một cha xứ trên lối mòn. Về chuyện quyển sổ ở nhà thờ, đề mục sau cùng được ghi vào đấy đã ba hôm trước và chẳng ai ngó ngàng đến nó chừng nửa tháng nay rồi. Ông tá có thể dễ dàng tới đó một hay hai ngày trước rồi đề ngày 25.”
Weston gật đầu hỏi: “Còn người thứ ba thì sao?”
“Horace Blatt à? Theo ý tôi, thưa sếp, rõ là có điều ám muội. Thường trả thuế lợi tức cho một khoản tiền vượt xa những gì ông ta kiếm được từ kinh doanh hàng kim khí. Và xin sếp lưu ý cho, ông tà là một thằng cha láu cá. Có thể ông ta sẽ bịa ra một lời khai hợp lý - ông ta có đầu tư chút ít trên thị trường chứng khoán và đang dính vào một vài phi vụ mờ ám. A phải rồi, những lời giải thích nghe có vẻ hợp lý, nhưng không tránh khỏi chuyện ông ta kiếm được một khoản tiền khá lớn từ những nguồn không minh bạch trong mấy năm gần đây.”
“Nghĩa theo ý của ông, Horace Blatt là một gã tống tiền chuyên nghiệp à?”
“Hoặc là như thể, hoặc là ma túy, thưa sếp. Tôi đã gặp chánh thanh tra Ridgeway phụ trách các vụ án ma túy, vô cùng sắc sảo. Dường như dạo này đã có khá nhiều heroin được tuồn vào. Họ tóm được bọn phần phối nhỏ lẻ và ít nhiều biết được kẻ điều khiển đầu mối bên kia là ai, nhưng cách thức đưa ma túy vào trong nước đến nay vẫn gây trở ngại cho họ.”
“Nếu cái chết của cô Marshall là hậu quả của việc cô ta dính líu vào đường dây buôn ma túy thì ta nên giao toàn bộ vụ này lại cho Scotland Yard. Đấy là sở trường của họ. Hử? Ông nói sao?”
Thanh tra Colgate có vẻ khá nuối tiếc:
“Tôi e là sếp nói đúng đấy. Nếu đúng là ma túy thì đấy là vụ án dành cho Yard rồi.”
Suy nghĩ một lúc khá lâu rồi Weston mới nói: “Có vẻ đấy thật sự là cách giải thích hợp lý nhất.”
Colgate gật đầu rầu rĩ:
“Phải, là thế ạ. Đúng là Kenneth Marshall đã ở ngoài vòng điều tra - mặc dù tôi quả có thu thập được một số thông tin lẽ ra có thể hữu ích, nếu như chứng cứ ngoại phạm của anh ta không quá xác thực. Dường như công ty của anh ta đang đi tới chỗ phá sản. Chẳng phải lỗi của anh ta hay của những người cộng sự, mà là hậu quả chung của khủng hoảng kinh tế hồi năm ngoái và tình trạng chung về thương mại và tài chính hiện nay. Và anh ta có biết là nếu vợ chết đi thì năm mươi nghìn bảng sẽ vào tay mình. Năm mươi nghìn bảng hẳn sẽ là một khoản tiền rất hữu ích.”
Colgate thở dài. “Thật đáng tiếc khi một kẻ có đến động cơ giết người hoàn chỉnh lại có thể được chứng minh là không thể liên can gì đến việc ấy.”
Đại tá mỉm cười. “Phấn chấn lên đi, Colgate! Vẫn còn có một cơ hội cho ta ghi điểm. Vẫn còn khía cạnh tống tiền và còn có ông cha xứ rồ dại kia mà. Nhưng cá nhân tôi nghĩ đáp án ma túy có khả năng xảy ra cao hơn cả.” Ông nói thêm, “Và nếu như chính một băng đảng ma túy đã khử cô ta thì điều đó vẫn là yếu tố giúp Scotland Yard phá vụ án ma túy đó. Thực tế mà nói thì chúng ta cũng đã làm khá tốt.”
Một nụ cười gượng gạo hiện lên trên môi, Colgate nói: “À, đấy là số phận, thưa sếp. Nhân tiện tôi đã kiểm tra về kẻ đã viết bức thư tìm thấy trong phòng cô ta. Kẻ ký tên là J.N. Chẳng làm gì cả. Hắn đang ở Trung Quốc khá an toàn, cũng là anh chàng mà cô Brewster kể cho ta nghe. Một tên vô lại còn khá trẻ. Tôi đã kiểm tra những bạn bè còn lại của Arlena Marshall. Chẳng có dấu vết nào. Mọi điều cần biết ta đều nắm được cả, thưa sếp.”
“Bây giờ tùy thuộc vào ta.” Weston tạm dừng lại rồi nói thêm, “Có thấy gì về ông bạn đồng nghiệp người Bỉ hay không? Ông ấy có biết tất cả những gì ông vừa nói với tôi chứ?”
Thanh tra Colgate cười toe toét.
“Ông ta là một thằng cha thấp bé kỳ quặc, phải không? Sếp có biết hôm kia ông ta đã hỏi tôi gì không? Ông ta muốn có các bản tường thuật chi tiết về bất cứ vụ siết cổ nào trong ba năm gần đây.”
Đại tá Weston ngồi thẳng dậy.
“Ông ấy yêu cầu như thể, đúng không? Bây giờ thì tôi tự hỏi…” ông dừng lại một lát. “Ông bảo cha Lane vào viện tâm thần ấy khi nào?”
“Cách đây một năm vào dịp lễ Phục sinh vừa rồi, thưa sếp.”
Vẫn đang trầm ngâm suy nghĩ, đại tá nói: “Có một vụ án - xác một thiếu phụ được tìm thấy ở đâu đấy gần Bagshot. Đi gặp chồng ở đâu đấy và không bao giờ xuất hiện. Còn có một vụ mà báo chí gọi là Bí ẩn về bãi cây vắng vẻ . Cả hai vụ đều ở hạt Surrey, nếu tôi nhớ không lầm.”
Ánh mắt hai người gặp nhau. Colgate hỏi:
“Surrey sao ạ? Ôi chúa ơi, thật ăn khớp, phải không sếp? Tôi tự hỏi…”
Hercule Poirot ngồi lên lớp đất cỏ trên đỉnh cao của hòn đảo.
Bên phải ông là đỉnh cái thang bằng thép dẫn xuống Vũng Tiên, ông để ý có rất nhiều tảng đá thô nhám ở gần đỉnh cái thang, che kín bất cứ ai có ý định xuống bãi biển ở bên dưới. Người bên trên cũng không nhìn thấy nhiều ở bãi biển vì vách đá nhô ra.
Hercule Poirot gật gù thật nghiêm trang.
Các mảnh rời trong trò ghép hình của ông đang được lắp vào đúng chỗ. Ông duyệt lại trong đầu các mảnh ghép đó, xem mỗi mảnh ghép như một đề mục tách rời.
Một buổi sáng trên bãi tắm vài ngày trước cái chết của Arlena.
Một, hai, ba, bốn, năm nhận xét vào buổi sáng hôm đó.
Buổi tối đánh bài tây. Ông cùng Patrick Redfern và Rosamund Darnley ngồi ở bàn. Christine ra ngoài đi lang thang sau khi hạ bài và nghe lỏm một cuộc đàm thoại gì đó. Lúc ấy có ai khác ở trong phòng? Ai vắng mặt?
Buổi tối trước án mạng. Cuộc trò chuyện của ông với Christine trên vách đá và cảnh ông đã chứng kiến trên đường về khách sạn.
Nước hoa Gabrielle số 8.
Một cái kéo.
Một cái cán ống điếu bị gãy.
Một cái chai ném từ một cửa sổ.
Một cuốn lịch màu xanh lá cày.
Một gói nến.
Một cái gương và một máy đánh chữ.
Một cuộn len màu đỏ tươi.
Một đồng hồ đeo tay của phụ nữ.
Nước trong một bồn tắm chảy ào xuống ống thoát nước.
Mỗi một sự kiện không liên quan này phải khít với chỗ đã định sẵn của nó. Chắc hẳn không có chỗ nào lỏng lẻo.
Rồi sau đó khi từng sự kiện cụ thể đã được ráp vào đúng chỗ thì tới chỗ dừng kế tiếp: niềm tin của ông về chuyện cái ác hiện diện trên đảo.
Cái ác…
Ông ngó xuống một tờ giấy có chữ đánh máy cầm trên tay:
Nellie Parsons - được tìm thấy bị siết cổ trong một bãi cây nhỏ vắng vẻ gần Chobham. Chưa phát hiện ra manh mối nào về kẻ giết người.
Nellie Parsons?”
Alice Corrigan.
Ông đọc rất kỹ các chi tiết về cái chết của Alice Corrigan.
Thanh tra Colgate đi tới chỗ Hercule Poirot đang ngồi trên bờ đá nhìn xuống biển.
Poirot rất thích Colgate. Ông thích vẻ mặt nghiêm khắc, ánh mắt sắc sảo và dáng vẻ chậm chạp không vội vã của ông ta.
Thanh tra Colgate ngồi xuống. Liếc nhìn tờ giấy có chữ đánh máy trên tay Poirot, ông hỏi:
“Đã làm gì với những vụ án ấy chưa, thưa ông?”
“Tôi đã nghiên cứu chúng - rồi.”
Colgate đứng lên bước đi ven bờ đá, chăm chú nhìn vào hốc đá kế bên. Quay trở lại ông nói:
“Cẩn thận không thừa. Không thể để bị nghe lén.”
“Ông khôn ngoan thật đó.”
“Tôi chẳng ngại khi cho ông biết, ông Poirot ạ, chính tôi cũng quan tâm đến các vụ án ấy - mặc dù có lẽ tôi không hề nghĩ đến chúng nếu ông không hỏi đến.” Ông ta tạm dừng. “Tôi đã đặc biệt quan tâm đến một vụ án.”
“Vụ Alice Corrigan hả?”
“Alice Corrigan.” Ông ta dừng lại một lát. “Tôi đã làm việc với cảnh sát Surrey về vụ án ấy - muốn biết tất cả các chi tiết.”
“Cho tôi biết đi, ông bạn! Tôi quan tâm - rất quan tâm đó.”
“Tôi cũng nghĩ ông quan tâm. Alice Corrigan được tìm thấy bị siết cổ trong khu rừng nhỏ Caesar trên Bãi hoang Blackridge. Cách bãi cây nhỏ Marley là nơi tìm thấy Nellie Parsons chưa đến mười dặm - và cả hai chỗ ấy đều ở trong vòng mười hai dặm từ Whiteridge là nơi ông Lane làm cha xứ.”
“Cho tôi biết thêm về cái chết của Alice Corrigan đi!”
“Ban đầu cảnh sát Surrey không liên kết cái chết của bà ta với vụ án Nellie Parsons. Là vì họ gán tội danh lên người chồng rồi. Không hiểu vì sao, ngoại trừ chuyện hắn hơi giống như báo chí gọi là người đàn ông bí ẩn - chẳng biết được gì nhiều về hắn ta - hắn là ai hay từ đâu đến. Bà ta lấy hắn là trái với mong ước của người nhà, có chút ít tiền của riêng - bà ta đã mua bảo hiểm nhân thọ để cho hắn được thừa hưởng. Tất cả những điều ấy đủ để gợi lên mối hoài nghi, mà tôi nghĩ ông sẽ đồng ý, phải không?”
Poirot gật đầu.
“Nhưng khi đi vào vấn đề cụ thể thì người chồng được loại ngay ra khỏi vòng điều tra. Cái xác được một trong những phụ nữ đi bộ đường dài phát hiện - những phụ nữ mạnh khỏe thích mặc quần short. Cô ta là một nhân chứng tuyệt đối đáng tin cậy - cô giáo dạy thể dục ở một trường học của hạt Lancashire. Cô ta để ý đến thời gian khi tìm thấy cái xác - đúng bốn giờ mười lăm, và có đưa ra nhận xét là nạn nhân chắc vừa mới chết một thời gian ngắn - không lâu hơn mười phút. Điều ấy cũng phù hợp với quan điểm của pháp y khi khám nghiệm tử thi lúc năm giờ bốn mươi lăm. Cô ta để mọi thứ ở nguyên trạng băng đồng đến đồn cảnh sát Bagshot để trình báo. Lúc bấy giờ, từ ba giờ đến bốn giờ mười lăm, Edward Corrigan đang đi tàu hỏa xuống từ London là nơi hắn đã ở cả ngày để lo công việc. Có bốn người khác ở cùng toa với hắn. Từ nhà ga hắn lên xe buýt, có hai người cũng đi xe ấy. Hắn xuống xe ở quán Café Đỉnh Đồi Thông là nơi hắn sắp xếp để gặp vợ cùng uống trà chiều. Lúc ấy là bốn giờ hai mươi lăm. Hắn gọi bữa cho cả hai nhưng bảo đừng dọn ra chờ tới khi bà ta đến. Sau đấy hắn đi loanh quanh bên ngoài đợi vợ. Lúc năm giờ khi bà ta không xuất hiện, hắn đâm hoảng, cứ tưởng bà ta có lẻ đã bị trật chân. Như đã sắp xếp bà ta phải đi bộ qua bãi đất hoang từ ngôi làng nơi họ đang lưu trú đến quán Đỉnh Đồi Thông rồi đi xe buýt về nhà. Khu rừng nhỏ Caesar cách quán ấy không xa và người ta đã nghĩ vì đi sớm trước giờ hẹn nên bà ta ngồi xuống ở đấy để ngắm cảnh một lát rồi mới đi tiếp và một gã lang thang hay điên khùng nào đó chợt bắt gặp bà ta ở đấy và chộp lấy bà ta mà bà ta không hề hay biết. Khi người chồng được chứng thực không có liên can, lẽ dĩ nhiên họ đã liên kết cái chết của bà ta với vụ án Nellie Parsons - cô giúp việc nhà khá gàn dở được tìm thấy bị siết cổ ở Bãi cây Marley. Họ quả quyết cùng một gã đàn ông phải chịu trách nhiệm về cả hai án mạng nhưng chưa bao giờ bắt được hắn ta - và còn hơn thế nữa họ chưa bao giờ tiếp cận được để bắt hắn. Thất bại ở mọi nơi.”
Colgate tạm dừng rồi nói thật chậm rãi:
“Và bây giờ - ở đây là người đàn bà thứ ba bị siết cổ - và một quý ông nào đấy mà ta sẽ không nêu tên ngay tức khắc.”
Ông dừng lại, đôi mắt nhỏ sắc sảo quay sang nhìn Poirot, chờ đợi đầy hy vọng.
Đôi môi Poirot mấp máy. Thanh tra Colgate chổm người tới trước.
Poirot đang lẩm bẩm: “Khó mà biết được những mảnh ghép nào là một phần của bộ lông và cái nào là cái đuôi của con mèo.”
“Xin thứ lỗi, cái gì thế thưa ông?” Thanh tra Colgate chưng hửng.
Poirot nói thật nhanh: “Tôi xin lỗi. Tôi đang theo một dòng suy tưởng riêng tư.”
“Chuyện bộ lông và con mèo này là gì thế ạ?”
“Không có gì - không có gì hết.” Poirot tạm dừng. “Xin cho tôi biết, thanh tra Colgate à, nếu như ông nghi ai đó đã nói dối - nhiều thật là nhiều những điều dối trá nhưng không có bằng chứng nào, ông sẽ làm gì?”
Thanh tra suy nghĩ kỹ rồi đáp:
“Khó thật đấy. Nhưng ý kiến của tôi là nếu ai đấy nói dối đã đủ rồi thì cuối cùng nhất định sẽ bị vấp thôi.”
Poirot gật đầu. “Phải, đúng vậy đó. Chỉ là trong đầu, tôi thấy một số lời khai nào đó là dối trá. Tôi nghĩ đó là những lời nói dối không thể nào biết chắc được. Nhưng có lẽ có thể kiểm tra - kiểm tra một lời nói dối nhỏ nhặt không đáng chú ý lắm. Nếu điều đó được chứng tỏ là dối trá - như vậy sẽ biết tất cả những điều còn lại đều là dối trá.”
Thanh tra Colgate nhìn ông tò mò:
“Đầu óc ông làm việc một cách lạ lùng, phải không thưa ông? Nhưng tôi dám nói cuối cùng sẽ lộ ra cả thôi. Nếu ông tha lỗi cho thì tôi xin hỏi điều gì đã xui khiến ông yêu cầu được biết về các vụ án siết cổ nói chung?”
Poirot đáp chậm rãi:
“Trong ngôn ngữ của ông có một từ là khéo . Án mạng này với tôi hình như là một vụ án rất khéo ! Nó khiến tôi tự hỏi có lẽ nào đây không phải là lần đầu ra tay của hung thủ.”
“Tôi hiểu rồi.”
Poirot nói tiếp: “Tôi đã tự nhủ ta hãy xem xét các án mạng tương tự trong quá khứ và nếu có một án mạng thật gần giống như vụ này - eh bien , ta sẽ có ở đó một manh mối rất đáng giá.”
“Ông muốn nói dùng cùng một phương pháp giết người à, thưa ông?”
“Không, không, tôi còn muốn nói nhiều hơn vậy nữa. Cái chết của Nellie Parsons chẳng hạn không nói lên điều gì cả. Nhưng cái chết của Alice Corrigan - cho tôi biết, thanh tra Colgate à, ông không để ý thấy một nét tương đồng nổi bật trong án mạng này hay sao?”
Thanh tra lật đi lật lại vấn đề ấy trong đầu. Cuối cùng ông trả lời:
“Không, thưa ông, tôi không thể nói mình thật sự phát hiện ra điều gì. Ngoại trừ ở tình tiết người chồng có chứng cứ ngoại phạm vững như gang thép.”
Poirot nói thật nhẹ nhàng:
“A, vậy là ông đã để ý thấy điều đó ư?”
“Hà, Poirot. Rất vui được gặp ông. Mời vào! Đúng là người tôi muốn gặp.”
Hercule Poirot đáp lại lời mời. Cảnh sát trưởng đẩy sang hộp đựng thuốc lá, lấy một điếu rồi đốt lên. Giữa hai lần bập khói thuốc ông nói: “Tôi đã ít nhiều quyết định một tiến trình hành động. Nhưng tôi muốn biết ý kiến của ông về điều ấy trước khi hành động một cách dứt khoát.”
“Hãy cho tôi biết đi, ông bạn!” Poirot nói.
“Tôi đã quyết định mời Scotland Yard đến và giao vụ này cho họ. Theo ý kiến của tôi, mặc dù đã có cơ sở để tình nghi một vài người, nhưng toàn bộ vụ án này xoay quanh việc buôn lậu ma túy. Theo tôi có vẻ chỗ đó, Vũng Tiên, là điểm hẹn để làm việc ấy.”
Poirot gật đầu. “Tôi đồng ý.”
“Ông tốt thật. Và tôi khá chắc chắn kẻ buôn lậu ma túy của ta là ai rồi. Horace Blatt đấy.
Lại gật đầu đồng ý, Poirot nói: “Điều đó cũng được chỉ rõ ra rồi.”
“Tôi thấy đầu óc cả hai chúng ta đều làm việc cùng một kiểu cách. Blatt vẫn thường lái thuyền buồm. Đôi khi hắn mời người khác cùng đi nhưng hầu như lúc nào cũng đi một mình. Trên chiếc thuyền ấy có mấy chiếc buồm màu đỏ khá dễ thấy nhưng chúng tôi còn phát hiện ra mấy chiếc buồm màu trắng được xếp lại gọn gàng giấu vào một chỗ rất kín đáo. Tôi nghĩ hắn thường lái thuyền đi vào một ngày tốt trời đến một điểm hẹn gặp một chiếc thuyền khác - là thuyền buồm hay du thuyền có máy nổ - cái gì đấy đại loại như thể, rồi cái món ấy được giao qua cho hắn. Sau đấy Blatt sẽ chạy vào bờ ở Vũng Tiên vào một thời điểm thích hợp…”
Poirot mỉm cười.
“Phải, phải đó, lúc một giờ rưỡi. Giờ người Anh dùng bữa trưa, khi mà chắc chắn mọi người đều ở trong phông ăn. Đảo này là tài sản tư nhân. Không phải nơi người ngoài thường đến dùng bữa dã ngoại. Đôi khi khách thường mang theo bữa từ khách sạn đến Vũng Tiên vào buổi chiều lúc mặt trời chiếu rọi lên nơi ấy, hay nếu muốn đi dã ngoại họ thường đi đâu đấy xa hơn nhiều dặm.”
Cảnh sát trưởng gật đầu.
“Hoàn toàn đúng. Bởi thế cho nên Blatt mới chạy vào bờ ở đấy và cất món hàng trên cái gờ đá ấy trong động. Kẻ nào khác phải lấy nó ở đấy đúng lúc.”
Thám tử nói nhỏ:
“Có một cập vợ chồng đã tới đảo để dùng bữa trưa vào ngày xảy ra án mạng, ông còn nhớ không? Đó là một cách nhận hàng. Khách du lịch nào đó từ một khách sạn trên Bãi Hoang hay ở St. Loo đi qua Đảo Buôn Lậu. Họ thông báo sẽ dùng bữa trưa. Trước tiên họ đi quanh đảo. Thật dễ dàng biết bao khi xuống bãi biển đó, nhặt lấy cái hộp bánh sandwich, chắc chắn sẽ bỏ nó vào cái túi tắm biển quý bà đó xách theo - rồi trở về khách sạn để ăn trưa - có lẽ hơi trễ một chút, tức là lúc một giờ mười phút, đã đi dạo thật vui thú trong khi hết thảy những người khác đang ở trong phòng ăn.”
“Phải, tất cả nghe có vẻ như có thể thực hiện khá dễ dàng. Bây giờ các tổ chức buôn ma túy này thật nhẫn tâm. Nếu ai đấy tình cờ bắt gặp chúng và hiểu ra mọi chuyện, chúng sẽ không ngần ngại buộc người ấy phải câm nín. Tôi thấy là đấy là lời giải thích đúng đắn về cái chết của Arlena Marshall. Có khả năng buổi sáng hôm ấy Blatt quả thật đang giấu hàng tại cái vịnh nhỏ ấy. Đồng bọn của hắn phải đến nhận hàng đúng vào ngày hôm ấy. Arlena chèo bè đến nơi và thấy hắn đi vào động với cái hộp. Cô ta hỏi hắn chuyện ấy và hắn giết chết cô ta luôn, rồi lên thuyền buồm chuồn đi.”
Poirot hỏi: “Ông nghĩ rõ ràng Blatt là kẻ đã gây ra án mạng à?”
“Dường như đấy là đáp án đúng nhất. Dĩ nhiên có khả năng Arlena đã hiểu được sự thật sớm hơn, đã nói gì đấy với Blatt và một thành viên khác nào đấy của băng đảng đã sắp xếp một cuộc hẹn giả rồi khử cô ta luôn. Như tôi nói đấy, có lẽ cách giải quyết tốt nhất là chuyển vụ này cho Scotland Yard. Họ sẽ có khả năng hơn chứng ta để xác minh liên hệ của Blatt với băng đàng ấy.”
Hercule Poirot gật đầu có vẻ đăm chiêu. Weston hỏi:
“Ông có nghĩ đấy là một việc làm khôn ngoan không hả?”
Poirot trầm ngâm suy nghĩ. Sau cùng ông đáp: “Có lẽ vậy.”
“Thôi bỏ đi, Poirot! Ông đã có sẵn kế hoạch nào đấy hay là chưa có?”
Thám tử nghiêm trang đáp:
“Nếu có, tôi cũng không chắc chắn có thể chứng minh được.”
“Dĩ nhiên tôi biết ông và Colgate còn có ý kiến khấc. Tuy có vé hơi kỳ quái một chút, nhưng tôi buộc phải thừa nhận có thể có gì đấy trong vụ nầy. Nhưng dù ông có đúng đi nữa, thì tôi vẫn nghĩ đây là một vụ án để cho Scotland Yard giải quyết. Ta sẽ cho họ biết các sự kiện và họ có thể làm việc với cảnh sát Surrey. Tôi cảm thảy đây thật sự không phải là một vụ án dành cho chúng ta. Không phải việc của một địa phương.”
Ông tạm dừng lại. “Ông nghĩ gì, Poirot? Ông thấy phải làm gì đây?”
Dường như Poirot đang mải mê suy nghĩ. Sau cùng ông đáp:
“Tôi biết mình muốn làm gì.”
“Gì thế?”
Poirot lẩm bẩm: “Tôi muốn đi dã ngoại.”
Đại tá Weston ngó ông lom lom.