Chương 12
“Đi dã ngoại sao, ông Poirot?”
Emily Brewster nhìn ông chằm chặp như thể ông đã mất trí.
Poirot trả lời thật lôi cuốn:
“Với cô nghe có vẻ quá vô lý, không phải vậy sao? Nhưng thật tình với tôi thì là một ý hết sức tuyệt vời. Chúng ta cần việc gì đó thông thường làm hằng ngày, như thường lệ, để làm cho cuộc sống trở lại bình thường. Tôi hết sức nóng lòng muốn ngắm cảnh trên vùng cao Dartmoor, thời tiết rất tốt. Sẽ làm cho, phải nói sao đây, sẽ làm cho mọi người phấn chấn lên. Vì vậy xin cô giúp tôi việc này! Hãy thuyết phục mọi người!”
Ý kiến đó thành công bất ngờ. Ban đầu mọi người phân vân, do dự rồi sau đó miễn cưỡng thừa nhận dù sao đi nữa có lẽ đó cũng không phải là một ý quá tồi.
Họ gợi ý không nên yêu cầu đại úy Marshall cùng đi. Chính anh ta cũng thông báo ngày hôm đó phải đi Plymouth, ông Blatt tham gia quá đỗi nhiệt tình, quyết tâm trở thành sức sống và linh hồn của cả nhóm. Ngoài ông ta còn có cô Brewster, vợ chồng Redfern, Stephan Lane, Rosamund Darnley và Linda. Họ còn thuyết phục được ông bà Gardener hoãn lại một ngày nữa hẵng đi.
Poirot trổ tài hùng biện với Rosamund và nhấn đi nhấn lại mãi về lợi ích đối với cô con gái đại úy vì sẽ khiến cô bé không còn đắm chìm mệt mỏi nữa.
Rosamund đồng ý chuyện này.
“Ông hoàn toàn đúng. Cú sốc đó quá lớn với một đứa trẻ ở tuổi ấy. Làm cho tính khí con bé hết sức thất thường.”
“Điều đó cũng tự nhiên thôi, thưa cô. Nhưng tuổi nào thì rồi cũng sớm quên. Hãy thuyết phục cô bé cùng đi! Tôi biết cô làm được mà.”
Thiếu tá Barry kiên quyết từ chối, nói không thích đi dã ngoại. “Phải khuân đi rất nhiều đồ lích kích. Còn cực kỳ không thoải mái nữa. Với tôi ngồi vào bàn dùng các thức ăn của mình là tốt rồi.”
Cả nhóm tập họp lúc mười giờ. Đã thuê ba chiếc xe. Ông Blatt thật phấn khởi, cứ nói oang oang, bắt chước hướng dẫn viên du lịch:
“Hướng này, thưa quý ông quý bà - Dartmoor đi hướng này. Có thạch nam và việt quất, có món kem đặc sản của Devonshire và trại tù cho những kẻ đang thụ án ở đấy. Quý ông hãy mang theo vợ hay cô khác cũng được! Xỉn chào mừng mọi người! Phong cảnh bảo đảm tuyệt đẹp. Bước tới đi! Bước tới đi!”
Vào phút chót Rosamund mới đi xuống, có vẻ lo âu: “Linda không đi. Nó bảo bị nhức đầu kinh khủng.”
Poirot kêu lên: “Nhưng đi sẽ tốt cho cồ bé mà. Xin hãy thuyết phục, thưa cô!”
Rosamund nói chắc như đinh đóng cột:
“Cũng vô ích thôi. Con bé rất cương quyết. Tôi đã cho nó uống thuốc aspirin và nó lên giường ngủ rồi.”
Ngần ngừ một lát rồi cô nói: “Chắc tôi cũng không đi đâu.”
“Không được, cô nương ơi, không được đâu!” ông Blatt vừa la lên vừa nắm chặt cánh tay cô một cách hài hước. “ La Haute Mode , phải làm cho dịp này được vẻ vang chứ. Không có chuyện từ chối đâu nhé! Tôi đã bắt được cô rồi, hà hà. Đã tuyên án lưu đày đến Dartmoor.”
Ông kiên quyết dẫn cô tới chiếc xe đi đầu. Rosamund ném lại cho Hercule Poừ một cái nhìn khó chịu.
“Tôi sẽ ở lại với Linda,” Christine Redfern nói. “Không phiền một chút nào đâu.”
Patrick bảo: “Thôi, đi nào, Christine!”
Còn Poirot thì nói: “Không, không, bà phải đi, thưa bà. Bị nhức đầu ở một mình sẽ tốt hơn. Nào, ta lên đường thôi!”
Ba chiếc xe chạy đi. Trước tiên họ tới Động Tiên đích thực trên bãi hoang Sheepstor, hết sức vui thích khi tìm kiếm lối vào động và cuối cùng cũng tìm ra nó nhờ ảnh chụp trên một bưu thiếp.
Đi trên những tảng đá lớn trơn mòn thật nguy hiểm nên Hercule Poirot không cố làm chuyện đó. Ông chăm chú theo dõi một cách khoan dung, trong khi Christine Redfern lẹ làng nhảy từ tảng đá này sang tảng đá nọ, và quan sát thấy anh chồng không bao giờ rời xa cô. Rosamund Darnley tham gia cuộc tìm kiếm cùng với Emily Brewster, mặc dù cô này trượt chân một lần và hơi bị trật mắt cá chân. Cha Lane không biết mỏi mệt là gì, thân hình lêu nghêu gầy còm của ông cứ xoay qua uốn lại giữa bãi đá. Ông Blatt bằng lòng đi hơi cách xa một chút, cứ hò la cổ vũ và còn chụp ảnh những người đang lùng sục.
Ông bà Gardener và Poirot vẫn điềm tĩnh ngồi lại bên vệ đường trong khi giọng bà vợ cất lên lời độc thoại đều đều vui vẻ, thỉnh thoảng lại ngất quãng bởi câu trả lời ‘Phải, em yêu à’ của ông chồng ngoan ngoãn.
“…và tôi vẫn luôn cảm thấy, ông Poirot à, những bức ảnh chụp lấy ngay có thể khiến ta bực mình lắm, ông nhà tôi cũng đồng ý với tôi. Tức là trừ khi chụp ảnh cùng với bạn bè. Cái ông Blatt ấy chẳng hể nhạy bén một chút nào. Ông ta cứ đi thẳng đến mọi người, nói luôn mồm rồi chụp ảnh, và như tôi đã nói với ông nhà tôi, quả đúng là vô giáo dục. Em đã nói như thể, phải vậy không Odell?”
“Phải, em yêu à.”
“Ông ta đã chụp ảnh cả đám chúng ta đang ngồi trên bãi biển. À, thì cũng hay, nhưng lẽ ra trước hết ông ta nên hỏi chứ. Như chuyện cô Brewster vừa dợm đứng lên ở bãi biển đã bị chụp ảnh, và việc ấy khiến cô ta có tư thế trông thật kỳ cục.”
“Và tôi sẽ nói là đúng như thể,” ông chồng nhãn răng cười.
“Ông Blatt đang tặng ảnh cho mọi người kia kìa, ngay cả một lời hỏi trước cũng không có. Ông ta đã tặng ông một tấm ảnh, ông Poirot à, tôi có để ý thấy.”
Poirot gật đầu nói: “Tôi thích ảnh nhóm đó.”
Bà Gardener nói tiếp:
“Và hãy xem cách cư xử của ông ta hôm nay - quá lớn tiếng ồn ào và thô thiển! À, chỉ khiến tôi rùng mình ghê tởm. Lẽ ra ông phải sắp xếp để bỏ người đàn ông ấy ở lại khách sạn chứ, ông Poirot à.”
Hercule Poirot khẽ đáp lại:
“Ôi, thưa bà, hẳn như vậy sẽ khó cho tôi đó.”
“Phải nói là như thể. Chỗ nào người đàn ông ấy cũng chen vào. Ông ta đúng là trơ hết sức.”
Ngay lúc đó từ bên dưới vọng lên tiếng reo thật to báo tin đã phát hiện ra Động Tiên.
Cả nhóm lúc bấy giờ lên xe đi tiếp theo hướng dẫn của Hercule Poirot tới một điểm ở đỗ họ xuống xe đi bộ một quãng ngắn xuống một sườn đồi mọc đầy thạch nam, dẫn tới một điểm thật kỳ thú bên một dòng sông.
Một cây cầu ván nhỏ hẹp bắc ngang quạ sông. Poirot cùng ông Gardener giục bà vợ băng qua cầu tới một bãi thạch nam kỳ thú không còn những bụi kim tước đầy gai nữa, có vẻ là một địa điểm lý tưởng để dùng bữa trưa.
Đang nói liếng thoắng về cảm giác của mình khi lần đầu tiên băng qua một cây cầu ván, bà Gardener chợt quỳ sụp xuống. Bất thình lình có tiếng khẽ kêu lên.
Những người khác đã chạy qua cầu khá nhẹ nhàng, nhưng cô Brewster vẫn đang đứng ngay chính giữa tấm ván, nhắm nghiền mắt lắc qua lắc lại.
Poirot cùng Patrick Redfern vội chạy tới cứu giúp.
Có vẻ xấu hổ, Emily Brewster nói cộc lốc:
“Cảm ơn, cảm ơn. Xin lỗi. Chưa bao giờ giỏi bâng qua dòng nước chảy, chưa bao giờ. Bi chóng mặt. Rõ chán quá!”
Thức ăn, nước uống được bày ra trên mặt đất và bữa trưa bắt đầu.
Tất cả những người có liên quan đến vụ án đều thầm ngạc nhiên khi thấy mình quá đỗi thích thú khoảng thời gian chuyển tiếp này. Có lẽ vì nó cho phép họ thoát khỏi bầu không khí nghi kỵ và sợ hãi. Ở nơi đây có dòng nước trôi lờ lững, mùi than bùn thoang thoảng trong không khí và màu sắc ấm áp của đám dương xỉ đại bàng và thạch nam. Thế giới có án mạng với các buổi thẩm vấn của cảnh sát đầy nghi kỵ dường như đã được xóa sạch như thể chưa từng tồn tại. Ngay cả ông Blatt cũng quên mình là sức sống và linh hồn của cả nhóm. Sau bữa trưa ông ta đi ngủ cách xa một chút làm dịu bớt những tiếng ngáy pho pho biểu lộ sự vô tư sung sướng của ông ta.
Cả nhóm tỏ ra hết sức biết ơn khi dọn dẹp bữa ăn cho vào các sọt và chúc mừng Hercule Poirot vì ý kiến của ông rất hay.
Mặt trời đang lặn khi họ quay về trên con lối đi ngoằn ngoèo nhỏ hẹp. Từ đỉnh đồi phía trên Vịnh Leathercombe, trong một khoảnh khắc ngắn ngủi họ thoáng thấy hòn đảo với khách sạn màu trắng trên đó.
Trông thật yên bình và vô hại trong ánh nắng chiều.
Chỉ mới một lần không nói líu lo, bà Gardener thở dài.
“Quả tình tôi rất cảm ơn ông, ông Poirot à. Tôi cảm thấy rất bình tâm. Tuyệt vời thật đó.”
Thiếu tá Barry ra chào khi họ tới nơi:
“Này này, đã có một ngày tốt lành chứ?”
Ông Gardener đáp:
“Quả đúng như thể. Bất cứ thứ gì trên các bãi hoang đều thú vị hết sức. Quá điển hình của xứ Anh và thế giới xưa. Không khí thoang thoảng hương thơm khiến ta thấy khỏe khoắn. Ông phải hổ thẹn với mình vì đã lười biếng quá nên cứ tụt lại đằng sau.”
Thiếu tá cười khúc khắc. “Tôi già quá rồi không làm nổi cái kiểu ấy đâu - ngồi trên một dải đất bùn lầy và xơi bánh sandwich.”
Một cô hầu phòng vừa đi ra từ khách sạn, hơi bị hụt hơi. Ngần ngừ một lát rồi cô lẹ làng tới gập Christine Redfern.
Hercule Poirot nhận ra cô ta là Gladys Narracott. Giọng cô nói hấp tấp không dược bình thường:
“Xin lỗi, thưa cô, nhưng tôi đang lo lắng vì quý cô trẻ tuổi. Là cô Marshall. Tôi vừa mới mang bữa lên cho cô ấy và không thể nào đánh thức cô ấy được. Trông cô ấy thật quá - không hiểu sao lại quá kỳ quặc.”
Christine nhìn quanh chẳng biết nhờ ai giúp cho. Trong chốc lát Poirot đã ở bên cạnh cô. Hai bàn tay đỡ bên dưới khuỷu tay cô, ông nói thật bình tĩnh:
“Ta sẽ đi lên xem sao.”
Họ vội vàng lên cầu thang rồi đi dọc theo hành lang tới phòng Linda.
Chỉ liếc nhìn sơ qua cũng đủ cho hai người biết có gì đó rất không ổn. sắc mặt cô bé rất lạ và gần như không thể nhận thấy hơi thở.
Poirot đưa tay bắt mạch. Cùng lúc đó ông để ý thấy một bì thư dựng đứng tựa vào cái đèn để trên bàn cạnh giường ngủ. Thư đề gửi cho chính ông.
Đại úy Marshall nhanh chân bước vào phòng và hỏi:
“Chuyện gì xảy đến với Linda thế này? Con bé có vấn đề gì thế?”
Có tiêng thổn thức khe khẽ vì khiếp sợ phát ra từ Christine Redfern.
Từ cải giường đó quay lại, Hercule Poirot bảo Marshall:
“Ông gọi bác sĩ đi - càng nhanh càng tốt! Nhưng tôi e rằng, e rằng - có lẽ đã quá trễ rồi.”
Ông cầm lá thư đề tên mình trên đó và xé bì thư mở ra. Bên trong có vài dòng chữ do Linda viết tay theo kiểu cách của một nữ sinh trung học.
Cháu nghĩ đây là cách giải quyết tốt nhất. Xin bố hãy cố tha thứ cho con. Cháu đã giết Arlena. Cứ tưởng sẽ vui nhưng hoá ra không phải thế. Cháu rất tiếc vì mọi chuyện.
Họ tập họp trong sảnh - Marshall, vợ chồng Redfern, Rosamund Darnley và Hercule Poirot.
Họ ngồi đó im lặng - chờ đợi…
Cửa mở ra và bác sĩ Neasden đi vào. Ông ta nói cộc lốc:
“Tôi đã làm tất cả những gì có thể làm rồi. Cô bé có thể qua khỏi - nhưng tôi buộc lòng phải nói cho các vị biết không có nhiều hy vọng đâu.”
Ông ta dừng lại. Marshall hỏi, nét mặt đanh lại, đôi mắt ưu tư lạnh lùng như băng giá:
“Làm thế nào nó lấy được thứ thuốc ấy chứ?”
Neasden lại mở cửa ra và gật đầu ra hiệu. Cô hầu phòng đi vào, vẫn đang khóc lóc.
“Hây kể lại lần nữa thật chính xác cô đã trông thấy gì đi!” Neasden bảo.
Vừa thút thít cô gái vừa đáp:
“Tôi chưa bao giờ nghĩ - chưa bao giờ nghĩ một phút giây nào là có bất cứ điều gì không ổn - mặc dù quý cô trẻ tuổi quả có vẻ khá kỳ lạ.” Một cái phất tay nhẹ vì sốt ruột của ông bác sĩ khiến cô ta lại bắt đầu nói: “Cô ấy đang ở trong phòng của quý bà kia. Phòng bà Redfern. Phòng của bà đó, thưa bà. Tới chỗ cái giá trên bồn rửa mặt cô ấy cầm lên một cái lọ nhỏ xíu. Cô ấy quả có hơi giật mình khi tôi đi vào, và tôi nghĩ cô ấy lấy đồ trong phòng bà thì thật là kỳ quặc, nhưng sau đó, tất nhiên rồi, có thể là cái gì đó cô ấy đã cho bà mượn? Cô ấy chỉ nói: ‘Đây là cái tôi đang tìm…’ rồi đi ra.”
Christine nói gần như thều thào: “Thuốc ngủ của tôi.”
Bác sĩ hỏi thật cộc cằn:
“Làm sao cô bé biết có thuốc ấy?”
Christine đáp: “Tôi đã cho nó uống một viên. Đêm sau khi chuyện ấy xảy ra. Nó nói với tôi là không ngủ được. Nó - tôi nhớ là nó hỏi: ‘Một viên có đủ không,’ tôi trả lời là đủ, thuốc nặng lắm, không được uống quá hai viên.”
Neasden gật đầu. “Cô bé đã uống sáu viên cho chắc.”
Christine lại sụt sịt.”
“Chúa ơi, tôi cảm thấy là lỗi tại tôi. Lẽ ra tôi nên cất thuốc đi.”
Bác sĩ nhún vai. “Có thể như thế là khôn ngoan, cô Redfern ạ.”
Christine Redern nói trong tuyệt vọng:
“Nó - nó đang hấp hối - đấy là lỗi tại tôi.”
Cựa người trên ghế, Kenneth Marshall nói:
“Cô không phải tự trách mình. Linda biết nó làm gì. Nó đã cố tình uống thuốc. Có lẽ… có lẽ như thế là tốt nhất.”
Marshall ngó xuống lá thư nhàu nhò trên tay - lá thư Poirot vừa lẳng lặng trao cho.
Rosamund Darnley kêu lên:
“Tôi không tin. Tôi không tin Linda giết cô ta. Chắc chắn không thể nào như thể - dựa theo chứng cứ.”
Christine hăm hở nói: “Phải, nó không thể nào làm việc đó mà. Chắc là nó nghĩ quẩn, tưởng tượng ra mọi thứ.”
Cửa mở ra và đại tá Weston đi vào.
“Tất cả những gì tôi đang nghe đây là gì thế?” ông hỏi.
Bác sĩ Neasden lấy lá thư trên tay Marshall trao cho cảnh sát trưởng. Ông này đọc thư rồi kêu lên:
“Cái gì chứ? Nhưng chuyện này thật vớ vẩn - cực kỳ vớ vẩn! Không thể nào như thể.” Ông quả quyết lặp lại, “Không thể nào! Có phải thế không, Poirot?”
Lần đầu tiên Hercule Poirot lên tiếng. Ông chậm rãi đáp với giọng buồn rầu:
“Không, tôi e rằng không phải là không thể.”
Christine Redfern nói: “Nhưng tôi đã ở với nó mà, ông Poirot. Đã ở với nó đến mười hai giờ kém mười lăm cơ mà. Tôi đã khai với cảnh sát như thể.”
“Lời khai của cô đã cho con bé chứng cứ ngoại phạm - phải. Nhưng chứng cứ của cô căn cứ vào cái gì? Căn cứ vào đồng hồ đeo trên tay Linda . Cô không tự mình biết được lúc rời khỏi con bé là mười hai giờ kém mười lăm - chỉ biết là con bé đã nói như vậy. Chính cô đã nói thời gian dường như trôi đi rất nhanh.”
Cô kinh ngạc nhìn ông chòng chọc.
Ông nói tiếp: “Nào, suy nghĩ đi, thưa cô! Khi rời khỏi bãi biển, cô đã đi bộ về khách sạn nhanh hay chậm vậy?”
“Tôi - à, chắc là khá chậm.”
“Cô còn nhớ nhiều về lần đi bộ trở về đó không?”
“Không nhiều lắm, tôi e là như thế. Tôi - tôi đã mải mê suy nghĩ.”
“Rất tiếc phải hỏi cô câu này, nhưng xin cô cho biết đích xác đã nghĩ gì suốt thời gian đi bộ đó?”
Christine đò mặt: “Tôi cho rằng - liệu có cần thiết… Tôi đã cân nhắc việc - rời khỏi nơi đây. Chỉ bỏ đi mà không cho chồng tôi biết. Tôi - tôi đã thấy bất hạnh lúc ấy, ông hiểu rồi mà.”
Patrick Redfern kêu lên:
“Ôi, Christine ơi! Anh biết… anh biết…”
Giọng Poirot ngắt ngang thật đúng lúc:
“Nói chính xác cô đã lo âu về việc tiến hành một bước có tầm quan trọng nào đó. Phải nói là bà điếc và mù đối với những chuyện xảy ra xung quanh mình. Có thể bà đã đi rất chậm và thỉnh thoảng dừng lại vài phút trong lúc suy nghĩ.”
Christine gật đầu.
“Ông giỏi quá! Đúng như thế đấy. Tôi đi cứ như mơ về đến khách sạn, rồi mới vội đi vào, cứ tưởng đã quá muộn rồi, nhưng khi nhìn đông hổ trong sảnh thì thấy còn rất nhiều thời gian.”
Hercule Poirot lại nói: “Chính xác.”
Ông quay sang Marshall:
“Tôi phải tả lại cho ông rõ một số vật tôi đã tìm thấy trong phòng con gái ông sau khi xảy ra án mạng. Trong lò sưởi có một cục sáp nóng chảy thật to, một số tóc bị cháy, những mảnh bìa cứng và giấy, một đinh ghim thường vẫn dùng trong nhà. Giấy và bìa cứng đó có thể không liên quan, nhưng ba món còn lại có gợi ý đó - nhất là khi tôi tìm thấy giấu kỹ trong kệ sách một cuốn mượn từ thư viện ở đây - liên quan tới phép phù thủy và ma thuật. Rất dễ dàng mở ra ở một trang nhất định. Trên trang sách đó mô tả nhiều phương pháp gây ra cái chết khác nhau bằng cách nặn sáp thành một hình người thế thân cho nạn nhân. Cái này sau đó được nung lên từ từ cho tới khi tan chảy hết - hoặc bằng cách khác là đâm đinh ghim vào tim tượng sáp. Cái chết của nạn nhân sẽ xảy ra sau đó. Về sau tôi được nghe cô Redfern kể lại buổi sáng hôm ấy Linda đã ra ngoài sớm, mua một gói nến và hình như bối rối khi món đồ đó bị phát hiện. Tôi biết chắc chắn chuyện gì đã xảy ra sau đó. Linda đã làm một cải tượng thô sơ bằng sáp nến - có khả nâng đã tô điểm nó bằng một mớ tóc đỏ của Arlena cắt ra bằng kéo để làm cho ma thuật có hiệu lực - sau đó đã đâm đinh ghim vào tim nó và cuối cùng làm hình tượng đó tan chảy hết bằng cách đốt những mành bìa cứng bên dưới.”
Ông nói tiếp: “Thật là thô thiển, trẻ con, mê tín nhưng lại tiết lộ một điều: mong ước giết người. Có khả năng nào còn hơn một niềm mong ước hay không? Có thể nào Linda đã thật sự giết mẹ kẹ của mình hay không?
“Mới thoạt nhìn thì hình như con bé có chứng cứ ngoại phạm hoàn hảo - nhưng trên thực tế như tôi vừa chỉ rõ, chứng cứ về thời gian do chính Linda cung cấp. Con bé có thể dễ dàng khai báo thời gian trễ hơn thực tế mười lăm phút. Hoàn toàn có khả năng ngay sau khi cô Redfern rời khỏi bãi biển, con bé liền theo sau bà đi lên rồi sau đó băng qua dải đất hẹp tới chỗ cái thang, vội vàng leo xuống gặp mẹ kế ở đó, siết cổ bà ta rồi leo trở lên cái thang trước khi chiếc thuyền chở cô Brewster và Patrick xuất hiện trong tầm mắt. Lúc đó con bé có thể quay về Vũng Hải Âu tắm biển rồi ung dung trở về khách sạn.
“Nhưng điều đó đưa tới hai vấn đề: Con bé phải biết rõ Arlena Marshall đang ở Vũng Tiên và phải có sức khoẻ để có thể làm việc đó. À, chuyện đầu tiên hoàn toàn có khả năng xảy ra - nếu như Linda Marshall viết một lá thư ngắn cho Arlena mạo danh một người nào khác. Còn về vấn đề thứ hai thì Linda có hai bàn tay rất to lớn mạnh mẽ. To lớn như tay đàn ông vậy. Còn về thể chất thì cô bé đang ở lứa tuổi tâm thán có khuynh hướng bị mất thăng bằng. Bấn loạn tâm thẩn thường kèm theo đó một sức mạnh bất bình thường. Còn có một điểm nhỏ nữa: quả thật mẹ Linda đã từng bị cáo buộc và xét xử vì tội giết người.”
Kenneth Marshall ngẩng đầu lên, nói thật hung hãn: “Cô ấy cũng đã được tha bổng rồi kia mà.”
“Bà ấy đã được tha bổng,” Poirot đồng ý.
“Và tôi xin cho ông biết điều này, ông Poirot ạ. Ruth - vợ tôi - vô tội. Điều ấy tôi biết hoàn toàn và tuyệt đối chắc chắn. Trong cuộc sống thân mật của vợ chồng tôi, tôi không thể nào bị lừa dối. Cô ấy là một nạn nhân vô tội của hoàn cảnh.” Đại úy tạm dừng. “Và tôi không tin Linda đã giết Arlena. Thật nực cười - vô lý!”
“Vậy ông có tin lá thư này là giả mạo hay không?”
Marshall chìa tay ra đón lấy lá thư và đại tá đưa nó cho anh. Đại úy chăm chú đọc kỹ rồi lắc đầu.
“Không,” anh ta nói một cách miễn cưỡng. “Tôi tin Linda quả đã viết bức thư này.”
“Ông muốn nói là tôi à?” Kenneth Marshall hỏi.
“Có thể như vậy, không phải sao?”
Marshall suy xét một lúc khá lâu rồi thản nhiên nói: “Không, tôi nghĩ ý kiến ấy thật vô lý. Ban đầu Linda có thể nhận thấy tôi bị xem là nghi can. Nhưng nó biết rõ đến bây giờ chuyện ấy đã xong xuôi, cảnh sát đã chấp nhận chứng cứ ngoại phạm của tôi và chuyển hướng chú ý sang chỗ khác.”
“Nhưng giả sử cô bé biết rõ ông có tội chứ không phải là nghĩ ông bị tình nghi thì sao.”
Ngó ông lom lom, Marshall cười khẩy: “Thật vô lý.”
“Tôi thắc mắc lắm. Có rất nhiều giả thuyết về cái chết của cô Arlena Marshall. Có giả thuyết cho là cô ấy bị tống tiền, sáng hôm ấy đã đi gặp kẻ tống tiền và bị kẻ tống tiền ấy sát hại. Có giả thuyết cho là Vũng Tiên và Động Tiên được dùng làm nơi mua bán ma túy, và cô ấy đã bị giết vì tình cờ biết được điều gì đó. Có một khả năng thứ ba - cô ấy đã bị một ông thầy tu điên khùng giết chết. Và có một khả năng thứ tư - ông chắc mẩm sẽ kiếm được rất nhiều tiền nhờ cái chết của vợ ông.”
“Tôi vừa nói với ông…”
“Phải, phải - tôi đồng ý không có khả năng ông giết vợ mình - nếu như ông hành động một mình. Nhưng giả sử ai đó đã giúp ông thì sao nhỉ.”
“Ông muốn nói cái quái quỷ gỉ thế?”
Người đàn ông điềm tĩnh cuối cùng đã nổi giận. Marshall hơi nhổm dậy khỏi cái ghế. Giọng anh ta có vẻ đe dọa. Ánh mắt nghiêm khắc có vẻ giận dữ.
Poirot đáp:
“Tôi muốn nói đây không phải một án mạng do một người gây ra. Hai người đã tham gia vụ này. Đúng là ông không thể vừa đánh máy lá thư đó vừa đi tới cái vịnh nhỏ - nhưng hẳn có đủ thời gian để ông viết vội lá thư đó bằng tốc ký - để cho một người nào khác đánh máy trong phòng khi ông vắng mặt để lo việc giết người, chỉ là việc vặt với ông.”
Nhìn về phía Rosamund Darnley, Hercule Poirot nói tiếp:
“Cô Darnley khai đã rời khỏi Gành Nắng lúc mười một giờ mười phút và thấy ông đang đánh máy trong phòng, nhưng gần như ngay lúc đó ông Gardener đi lên khách sạn để lấy cuộn len cho vợ. Ông ấy không hề gặp cô Darnley hay trông thấy cô. Điều đó cũng đáng lưu ý. Có vẻ như cô Darnley không hề rời khỏi Gành Nắng, hoặc ngược lại cô ấy đà rời khỏi đó sớm hơn rất nhiều và vào phòng ông đánh máy thật siêng năng. Một điểm khác nữa, ông khai khi cô Darnley ghé vào phòng ông lúc mười một giờ mười lăm, ông đã nhìn thấy cô ấy trong gương. Nhưng vào ngày xảy ra án mạng cái máy đánh chữ và xấp giấy đều để trên bàn viết trong góc phòng bên kia, trong khi cái gương lại ở giữa hai cửa sổ. Như vậy lời khai đó là cố ý nói dối. Về sau ông đã dời máy đánh chữ sang cái bàn bên dưới cái gương để chứng minh cho câu chuyện của mình - nhưng đã quá trễ. Tôi đã biết rõ cả ông lẫn cô Darnley đều nói dối.”
Rosamund Darnley lên tiếng, hạ giọng nói nhưng thật rõ ràng rành mạch:
“Ông thật tài tình, xảo quyệt.”
Harcule Poirot cất cao giọng nói: “Nhưng không xảo quyệt và tài tình bằng gã đàn ông đã giết chết Arlena Marshall! Xin hãy nghĩ lại một lát đi! Tôi đã nghĩ là ai - mọi người đã nghĩ là ai - Arlena Marshall đã đi gặp ai buổi sáng hôm đó? Tất cả chúng ta đều vội đi đến một kết luận. Patrick Redfern. Không phải cô ấy đi gặp một gã tống tiền đâu. Chỉ nét mặt của cô ấy thôi cũng đã cho tôi biết điều đó. Không đâu, cô ấy đi gặp tình nhân - hay tưởng mình sẽ gặp.
“Phải, điều đó tôi đã hoàn toàn chắc chắn. Arlena Marshall đi gặp Patrick Redfern. Nhưng một phút sau Patrick xuất hiện trên bãi biển và hiển nhiên đang tìm kiếm bà ta. Vậy chuyện đó là sao?”
Patrick Redfern cố dằn cơn tức giận:
“Thằng quỷ nào đấy đã mạo danh tôi.”
Poirot nói: “Rất hiển nhiên ông đã bực bội và ngạc nhiên vì cô ấy không đến. Hầu như quá hiển nhiên, có lẽ vậy. Theo giả thuyết của tôi, ông Redfern à, cô ấy đã tới Vũng Tiên để gặp ông, và cô ấy quả đã gặp ông, và ông giết cô ấy ở đó như đã dự tính.”
Patrick Redfern nhìn chằm chặp, cất cao chất giọng Ireland khôi hài của mình:
“Có phải ông mất trí rồi hay không? Tôi đã ở với ông trên bãi biển cho đến khi chèo thuyền quanh đảo cùng với cô Brewster và phát hiện vợ tôi chết kia mà.”
“Ông đã giết bà ta sau khi cô Brewster chèo thuyền đi gọi cảnh sát. Arlena Marshall chưa chết lúc ông lên bãi biển. Cô ấy đang ẩn nấp chờ tới khi bờ biển có thể vắng bóng người.”
“Nhưng còn cái xác! Cô Brewster và tôi đều trông thấy cái xác kia mà.”
“Một cái xác - phải. Nhưng không phải một xác chết. Thân thể sống của người đàn bà đã giúp ông, hai cánh tay và hai chân được bôi thuốc cho màu da rám nắng, khuôn mặt được một cái nón bằng bìa cứng màu xanh lá cây che đi. Christine, vợ ông - hay có thể không phải là vợ ông - nhưng vẫn là đồng phạm, giúp ông phạm tội giết người trong vụ án này như từng giúp ông phạm tội giết người trong quá khứ khi phát hiện cái xác của Alice Corrigan ít nhất hai mươi phút trước khi Alice Corrigan chết - bị ông chồng Edward Corrigan giết chết - là ông đó!”
Christine lên tiếng, giọng cô ta gay gắt - lạnh lùng:
“Hãy cẩn thận, Patrick, đừng mất bình tĩnh!”
Poirot nói: “Ông sẽ thích thú khi nghe nói cả ông lẫn Christine - vợ ông đều được cảnh sát Surrey dễ dàng nhận diện và chọn lọc ra từ nhóm người được chụp hình ở đây: Họ nhận dạng ngay lập tức cả hai người là Edward Corrigan và Christine Deverill, người phụ nữ đã phát hiện cái xác.”
Patrick Redfern đã đứng dậy. Khuôn mặt đẹp trai của gã biến dạng, ngập tràn một màu máu, mù quáng vì giận dữ. Đó là khuôn mặt của một kẻ giết người - của một con cọp.
Gã hét lên: “Đồ sâu bọ nhỏ bé chết tiệt hay can thiệp vào chuyện người khác!”
Gã lao tới trước, những ngón tay cong như vuốt, miệng gào thét chửi rủa trong lúc bàn tay siết cổ họng Hercule Poirot…