← Quay lại trang sách

TẢO HÔN

Thủy là cô bạn gái dễ thương, từ khi tôi còn nhỏ. Thủy không đẹp rực rỡ nhưng xinh, tính tình thùy mị.

Tôi vào Đại học Sư phạm để ra dạy trung học, Thủy vào Quốc gia Sư phạm và trở thành giáo viên tiểu học. Sau khi ra trường, chiến tranh dần dần trở nên ác liệt, nên sau đó, hai đứa không có dịp gặp nhau.

Nhiều năm sau, khi gặp lại, hai đứa đều đã có gia đình con cái. Tuy nhiên, tình bạn của chúng tôi vẫn đằm thắm và trong sáng. Thủy kể cho tôi nghe về năm đầu ra dạy học tại một miền quê của đồng bằng sông Cửu Long:

- Thủy về trường chỉ một tuần lễ thôi là tất cả học trò đều thương.

Tôi nghĩ, điều đó là hiển nhiên rồi. Không riêng gì học trò, bất cứ ai gần gũi Thủy cũng đều thương mến. Tôi nghe cô kể tiếp:

Thủy được phân công dạy lớp Nhất là lớp cuối cấp tiểu học vì, ngoài hiệu trưởng ra, Thủy là giáo viên duy nhất của trường được đào tạo chính quy.

Học sinh nhà quê ngộ lắm. Cùng một lớp mà tuổi rất chênh lệch. Lớp Thủy dạy có đứa nhỏ xíu, có đứa lớn gần bằng Thủy luôn.

Thủy ở trọ một phòng ngay trong khuôn viên nhà trường, học trò và cha mẹ thường đến thăm. Càng ngày, phòng trọ của Thủy càng có nhiều khách hơn. Thăm viếng, mời đi ăn giỗ, v.v... đã đành rồi, cả các vấn đề thuộc về văn phòng nhà trường, họ cũng đến nói với Thủy: xin cho con nghỉ học, xin miễn giảm đóng góp, hỏi việc học của con trong lớp, bổ túc hồ sơ thi tiểu học, vân vân... Người dân quê đơn giản lắm. Họ thích ai thì việc gì cũng nói với người đó. Họ không cần phân biệt việc công với việc tư, công so với tư gia. Bận rộn, mất thì giờ, nhưng Thủy vui vì đỡ nhớ nhà và vì được sống chung với những người hiền lành, chất phác, không câu nệ nguyên tắc và hình thức.

Trong lớp Thủy có một em gái rất dễ thương, tên là Trâm. Trâm đẹp nhưng da không được trắng, tay chân hơi thô kệch vì công việc đồng áng. Theo ngày sinh thì em được mười bốn tuổi, nghĩa là hơi lớn so với tuổi tiêu chuẩn của lớp đang học. Tuy nhiên, trông em vẫn rất thơ ngây. Trâm học hành chăm chỉ, lễ phép với mọi người. Những đứa học trò loại nầy thầy cô rất bằng lòng và ít khi phải bận tâm đến.

Trâm đi học rất đều đặn, bài làm luôn luôn đầy đủ, nằm trong số bốn em giỏi nhất lớp. Bỗng nhiên, ba buổi liên tiếp em nghỉ học. Có lẽ Trâm bị bệnh thình lình. Thủy cũng có ý chờ cha mẹ em đến xin phép mà không thấy.

Buổi tối hôm đó, Thủy đang ngồi chấm bài thì có bóng người thấp thoáng ngoài cửa. Thủy ngẩng đầu lên và chờ đợi. Ai đó vẫn đứng yên, khuất sau cánh cửa mở. Thủy bước ra thì thấy Trâm đang đứng sát vào tường, mặt cúi xuống đất. Thủy rất ngạc nhiên nên vội dẫn em vào chỗ đèn sáng và cúi nhìn vào mặt em. Không, em chẳng có vẻ gì bệnh hoạn cả. Thủy cũng để ý, chẳng thấy vết bầm nào trên mặt. Cách nay một tháng, có một nữ sinh bị cha đi nhậu say về đánh cho bầm mặt, phải nghỉ học, ở nhà mấy hôm cho vết bầm tan bớt đi mới đến lớp trở lại.

Trâm vẫn đứng yên lặng cho Thủy quan sát. Thủy thầm nghĩ: «Chắc có chuyện gì buồn trong gia đình rồi đây, phải dành mất buổi tối hôm nay để giải quyết cho em, hoặc ít nhất cũng an ủi em».

Nghĩ thế, Thủy kéo ghế và ấn nhẹ em ngồi xuống; mặt em vẫn cúi gầm. Thủy ngồi sát bên, cầm tay em bóp nhè nhẹ và bảo em hãy bình tĩnh kể chuyện gì đã xảy ra. Em vẫn cúi đầu im lặng. Thủy phải hỏi đến lần thứ ba thì em mới ngẩng đầu lên, rồi bỗng khóc oà.

Hoảng kinh, Thủy ôm em vào lòng, dỗ dành:

- Chuyện gì vậy, em nói cho cô nghe đi.

Em bé nói lí nhí trong miệng, qua tiếng khóc:

- Má em mời cô trưa mai đến dự đám cưới.

Thủy ngạc nhiên quá đỗi. Đi mời đám cưới tại sao lại khóc. Thôi, thế thì có lẽ đám cưới của người chị thân yêu của em và kể từ nay hai chị em phải cách xa nhau. Nghĩ thế nên Thủy bỗng thấy lòng thương yêu vô hạn đối với đứa học trò bé bỏng và tình cảm nầy. Thủy siết em mạnh hơn và nói vào tai em:

- Nín đi đừng khóc nữa. Em nói cho cô nghe, đám cưới ai vậy?

- Dạ đám cưới em.

- Trời hỡi!

Em bé oà khóc to hơn trong khi Thủy ngồi chết trân. Thế đó, ở nhà quê, người ta thường ép con trẻ phải làm cái chuyện rất tốt cho người trưởng thành nhưng lại khủng khiếp cho tuổi thơ dại. Nếu các em không vâng lời thì không chịu nổi roi đòn và sự trừng phạt của chính cha mẹ của các em.

Nghĩ như thế nên máu nghĩa hiệp trong người Thủy nổi lên. Phải cứu em thoát khỏi sự tảo hôn ép buộc và kinh tởm nầy. Tuy nhiên, Thủy hiểu rằng điều nầy khong dễ chút nào. Người dân quê hiền lành nhưng rất bảo thủ. Mà Thủy thì chẳng phải là bà con thân thuộc gì với gia đình em, lấy tư cách gì để ngăn cản việc làm của họ. Thủy nghĩ thầm: «Mình không thể can thiệp trực tiếp được rồi. Chỉ còn cách hướng dẫn cho chính em chống lại quyết định bất nhân đó của cha mẹ. Trước hết phải tạo cho em một lòng can đảm, sau đó dạy cho em những lời nói phản kháng thực rõ ràng và đanh thép cùng những hành động cương quyết và cần thiết. Mình sẽ theo dõi sát sao; nếu em bị hành hạ thì mình có thể đưa em về đây sống một ít lâu rồi sẽ tính sau. Điều đó có thể là sự trực diện đối đầu với cha mẹ em và gia đình chú rể hụt. Nhưng không sao, rồi thời gian sẽ làm nhẹ dần sự đối đầu đó. Cha mẹ nào mà lại không thương con. Ý nghĩ nầy làm cho lòng Thủy hừng hực khí thế của người hiệp sĩ. Thủy bắt đầu làm công tác tư tưởng cho em:

- Em nghĩ thế nào về việc nầy?

Em bé vẫn cúi đầu im lặng, không trả lời. Thủy nâng mặt em lên, nhìn thẳng vào mắt em, lặp lại câu hỏi, giọng hơi gằn xuống:

- Nói cho cô nghe. Em nghĩ gì về việc nầy?

- Việc gì hả cô?

Thủy bực mình vì con bé quá ngây thơ. Thủy xoay câu hỏi lại và chen tình cảm mình vào:

- Chuyện đám cưới của em. Cô thương em quá. Có phải ba má biểu em lấy chồng hay không?

Con bé gật đầu. Thủy hỏi tiếp:

- Em có dám chống lại quyết định của ba má hay không?

- Cô nói gì à?

Con bé ngây thơ quá. Đến nước nầy thì Thủy phải đi thẳng vào vấn đề chứ không thể nói theo kiểu gợi ý được nữa. Thủy thân mật nắm hai vai kéo em đến gần hơn rồi hỏi:

- Em có muốn xa cô để đi lấy chồng hay không?

- Dạ có!

Nghe Thủy kể đến đây, tôi bật dậy và gập người lại cười đến chảy nước mắt. Thủy cũng cười theo để kết thúc câu chuyện.

Những chuyện như thế thì rất thường xảy ra ở nhà quê. Dạo còn làm tại nông trường tự túc của Tỉnh đoàn Thanh niên Cứu quốc Mỹ Tho ở Đồng Tháp Mười, chính tôi cũng đã từng chứng kiến tận mắt.

Lúc đó tôi mới vừa tròn mười bảy tuổi và chưa nghĩ đến chuyện yêu đương. Nông trường chính thức có bốn người, tôi là em út. Tiêu chuẩn lúa cho mỗi người là ba mươi ba ký mỗi tháng trong thời vụ và hai mươi hai ký mỗi tháng ngoài thời vụ. Gạo thì đủ, có khi dư vì còn khoai sắn trồng thêm không tính vào tiêu chuẩn của nghĩa vụ. Về dinh dưỡng, chất bột như thế là quá đầy đủ. Chất đạm thì quá dư thừa vì cá lội lền dưới áo và kinh, chuột đầy dẫy ngoài đồng, rắn khắp nơi dưới hang, chim chẳng thiếu gì trong lùm bụi. Chất béo cũng tạm có nhớ mỡ trong bụng cá và trong bụng chuột. Chỉ khổ với chất ngọt vị đường thiếu trầm trọng. Lao động càng nặng nhọc thì cần thèm đường dữ dội.

Tôi còn nhớ, một lần có chuyến tiếp tế bên ngoài vào, gồm vài ổ bánh mì, vài hủ chao, vài lon sữa đặc. Chao thì để dành ăn cơm. Bánh mì thì chia ngay một cách đồng đều, loáng một cái chui tọt vào nằm yên trong dạ dày của thanh niên.

Đến sữa thì chia đều cho hai người một lon. Người thứ nhất lấy dao đục ngay hai lỗ, đưa lên miệng nút một hơi dài hết phân nửa lon. Chuyền cho người thứ hai nút tiếp một hơi nữa là xong lon sữa đặc. À, mà chưa xong, sữa còn dính bên trong lon thì cho nước sôi vào lắc cho tan hết rồi đổ ra bát, chia hai mỗi người một nửa. Hớp từng ngụm một, nghe khỏe ra vì chất ngọt ngấm vào cơ thể!

Đó, thèm ngọt như thế nên hằng tháng chúng tôi cố gắng kiếm một nồi chè. Và chúng tôi đã nghĩ ra phương pháp thực hiện ý muốn nầy.

Mỗi đầu tháng, chúng tôi cân đủ số lúa tiêu chuẩn cho bốn người ở nông trường. Tôi nhỏ nhất được phân công đi xay và giã ở nhà dân. Tôi chia số lúa ra hai hay ba phần đề vác hay gánh đi cho dễ, ngang qua các cây cầu khỉ chông chênh và qua các bờ kinh gồ ghề trong mùa nắng và trơn trợt trong mùa mưa. Chống xuồng mà đi thì tiện hơn, nhưng sợ mấy con cồng cộc (máy bay oanh tạc một động cơ của Pháp) đến thình lình, giấu xuồng và lúa không kịp thì nguy. Thôi, gánh hay vác đi bộ, cực nhưng đỡ lo hơn.

Xay giã mất cả hơn nửa ngày mới xong. Đem về, gạo thì cho vào thùng chứa, cám thì đem đến quán đổi lấy một ít đường và một gói trà nhỏ. Ra ngoài hè moi vài củ khoai lang hay khoai mì, thêm ít gạo, cho cả vào nồi cùng toàn bộ số đường đổi được, thế là có một nồi chè ngon tuyệt trần. Tối, trải chiếu xuống đất, đốt cây đèn nhỏ lên, ngồi quây quần và bắt đầu u tê cu (U.T.Q. = uống trà quạu, từ quen thuộc và khôi hài thời kháng chiến chống Pháp để chỉ chuyện ăn kẹo hay ăn chè và uống nước trà trong các đơn vị ở chiến khu).

Loáng một cái, nồi chè to bự hết trơn, sạch bóng, khỏi rửa cũng được.

Chuyện u tê cu hàng tháng quả là thích thú nên tôi rất hăng hái gánh lúa đi xay và giã. Hầu hết nhà dân đều có giàn xay và cối, đến hỏi là họ cho mượn ngay. Tuy nhiên, tôi thích gánh gạo đi hơi xa, đến cái nhà mãi tận đầu con kinh. Ở đó có một cô bé mười ba tuổi trông rất xinh. Hai má bầu bầu, miệng cười rất tươi, khi cười thì mắt chớp lia lịa. Cha mẹ cô bé cũng rất thương tôi. Lần đầu tiên ghé nhà chơi, anh cán bộ hướng dẫn giới thiệu tôi là học sinh Sài Gòn vô khu thì ông bà mừng cuống quýt, nài nỉ tôi trở lại chơi nhiều lần. Tôi không trở lại chơi nhưng hàng tháng gánh lúa lại xay nhờ.

Xin các bạn đừng nghĩ bậy bạ, tội nghiệp tôi. Thoát ly gia đình, xa nhà nên tôi bị hút về nơi có hơi ấm của gia đình, tất cả lý do có thế thôi. Mỗi lần thấy tôi gánh lúa đến thì cô bé chạy ra tận ngoài ngõ giành gánh vào nhà, vừa đi vừa la:

- Má ơi má, anh Khá tới.

Bà mẹ vội đi ra. Hai mẹ con lui cui kéo cái xay ra, đổ lúa vào, giành lấy cần xay, kéo kéo, đẩy đẩy. Lúa xây xong, hai mẹ con giành lấy để rê trấu rồi sàng cho sạch. Sàng xong, hai mẹ còn giành lấy gạo lứt cho vào cối để giã. Giã xong, hai mẹ con đổ ra dừng. Dừng xong thì hai mẹ con cho gạo trắng vào một bao, cám vào một bao. Thế là xong. Mấy hôm đầu, tôi cố giành để tự mình xay giã nhưng bên kia có tới hai người nên tôi giành không lại. Vả lại, nếu tôi làm một mình thì đến tối thui mới xong. Gánh gạo về trong đêm tối cũng là chuyện gay go. Thế là tôi đành ngồi chơi hay chỉ phụ giúp hụ hợ mà thôi.

Cô bé xinh, ăn nói có duyên, mặt mày sáng láng, nhưng, tội nghiệp, chưa bao giờ được đi học nên không biết chữ. Tôi bỗng có ý định dạy cho cô học nhưng không biết tính cách nào. Nhà thì cách xa, ban ngày hai đứa đều phải làm việc, ban đêm thì đường đi lại khó khăn.

Một lần, tôi lỡ dại miệng nói ý định tốt đẹp của tôi cho các anh trong nông trường nghe. Thế là, ào ào, các anh đua nhau chọc ghẹo tôi. Các anh bảo:

- Thôi, Tỉnh Đoàn gởi chú về ở luôn nhà cô bé đó để dạy cho cô học và làm rể ông bà luôn. Các anh sẽ mời lãnh đạo xuống làm chủ hôn cho chú.

Tôi suýt khóc vì vừa xấu hổ, vừa giận các anh. Tôi thề bán mạng rằng không có tình ý gì cả. Vả lại cô bé còn quá nhỏ, mới mười ba tuổi thì tình ý cái nỗi gì.

Ai dè, đùng một cái, cô bé đi lấy chồng. Chàng rể, người ở cùng xóm, mới mười sáu tuổi, nghĩa là còn nhỏ hơn tôi một tuổi. Chính mẹ cô bé đích thân đến nông trường mời tôi đi dự đám cưới. Ngày hôn lễ, cô dâu và chú rể núng nính ra chào khách. Cả hai đều nhỏ tuổi và nhỏ con nên trông xinh xắn và dễ thương như hai con chim se sẻ. Đúng là hôm đó người ta đã tổ chức lễ cưới cho hai con chim se sẻ. Sau đó hai con chim se sẻ có sinh ra chim se sẻ con hay không thì tôi không biết vì không lâu sau, hiệp định Genève được ký kết, tôi phải rời chiến khu để về công tác tại Sài Gòn.

Chuyện tảo hôn trong Nam thì thường là buồn cười như thế, còn chuyện tảo hôn ngoài Bắc mới là thảm cảnh. Nhân vật chính của một trong những thảm cảnh này là một người bạn tù của tôi. Năm 1956, anh bị nhốt chung với tôi ở khám Tân Hiệp Biên Hòa. Anh người Bắc, độ ba mươi tuổi, tính tình hiền lành dễ thương. Anh kể cho tôi nghe chuyện đời của anh:

- Anh người Ninh Bình, con trai duy nhất của một gia đình khá giả, có nhiều ruộng đất. Năm 1938, anh mới được mười một tuổi thì bố mẹ cưới vợ cho anh. Vợ anh là một chị mười tám tuổi, con nhà nghèo, rất giỏi việc nhà. Lúc đó anh còn đi học, mê bắn bi, đánh đáo và đá cá lia thia, cho nên trong ngày cưới anh đã làm cái gì thì ngày nay anh không còn nhớ một chút nào cả. Anh chỉ còn nhớ lơ mơ câu nói của mẹ anh bảo với anh rằng cứ chịu cưới vợ đi, vì vợ anh có thể lội xuống ruộng bắt cá lia thia về cho anh đá. Anh chịu liền.

Tôi cười thích thú ngắt lời anh:

- Thế cưới vợ xong, anh biết làm cái gì với vợ anh trong đêm tân hôn hay không?

- Chả biết gì cả. Vợ anh ngủ trong buồng, còn anh vẫn ngủ ở bộ ván ngay bên ngoài, như trước. Cho đến bấy giờ, anh vẫn sợ cái buồng đó. Nó tối tăm, và anh tin rằng trong đó có ma.

Tôi hỏi tiếp một cách tinh nghịch:

- Vậy thì từ khi cưới vợ về, cuộc sống của anh có gì thay đổi không?

Anh lắc đầu:

- Chả có gì thay đổi cả. Vẫn đi học, ra ngoài sân đình bắn bi, đánh đáo, đá cá lia thia với mấy thằng bạn cùng lứa.

- Vợ anh có xuống ruộng bắt cá lia thia như mẹ anh đã hứa hay không?

- Không bao giờ. Kể từ khi về làm dâu, chị ta túi bụi với việc nhà, còn thì giờ đâu mà đi bắt cá lia thia cho thằng chồng. À, có một điều thay đổi trong nếp sống của anh là trước đây, đi chơi về anh tự tắm một mình thì nay vợ anh lôi anh ra sàn nước, tuột hết quần áo, kỳ cọ kỹ lưỡng; nhiều lúc chị ấy kỳ mạnh quá anh đau la toáng lên. Bố mẹ anh đứng nhìn và cười ha hả.

Tôi chăm chú khi nghe anh kể. Từ trước, tôi đã từng nghe chuyện vợ cõng chồng đi chơi, nhưng hôm nay nghe chính người trong cuộc kể lại chuyện mình thì thực là lý thú. Tuy nhiên tôi vẫn ngắt lời anh:

- Còn cái đám bạn bè của anh có trêu chọc anh không?

Anh cười:

- Hình như có. Trong số bạn cùng lớp, có nhiều thằng đã lớn tuổi. Chúng nó xúi anh, đêm về chui vô mùng vợ và làm như thế, như thế.

- Anh có làm theo không?

- Chả làm. Lúc ấy, anh đâu có dám bước vào cái buồng có ma đó. Vả lại, ban ngày chơi mệt, tối về cơm nước xong là leo lên ngủ một giấc tới sáng.

Anh nói tiếp trong tiếng cười:

- Phải chi anh thao thức trong đêm khuya thì có lẽ cũng làm theo lời bạn xúi một lần cho biết.

Tôi hơi sốt ruột:

- Thế là chuyện vợ chồng cứ kéo dài một cách vô vị năm nầy qua tháng nọ như thế sao?

Mặt anh bỗng tối sầm lại, giọng trở nên trầm và buồn hơn:

- Không, chỉ hai tháng sau là biến cố xảy ra, một thảm cảnh thì đúng hơn. Tối hôm đó, anh vẫn leo lên bộ ván ngủ như thường lệ. Đêm khuya, đang ngủ say, anh cảm thấy có ai đó chạm vào người anh và nhấc bổng anh lên. Anh được bế vào buồng và sau đó được đặt lên nằm trên một cái gì mát rượi và êm ái. Anh biết đó là da thịt của một con người, và con người đó là ai anh cũng biết. Nhưng anh vẫn ngủ say như khi anh nằm trên bộ ván vậy. Sáng ra, anh thức dậy và thấy mình nằm trên bộ ván như hồi đầu hôm. Vợ anh đã đem anh ra trả lại chỗ cũ.

Tôi lại ngắt lời:

- Chỉ có thế thôi à? Suốt một đêm chỉ có thế thôi sao?

- Chỉ có thế thôi. Chú không tin anh à? Lúc đó, anh chỉ mới mười một tuổi, con nít nhà quê lại chậm biết hơn con nít thành phố. Anh nhắc lại, đêm đó tuyệt đối chỉ có thế thôi. Nhưng chú đừng ngắt lời anh nữa, để anh kể cho hết.

- Xin lỗi anh. Nhưng chuyện như thế thì buồn cười chứ có gì gọi là biến cố hay thảm cảnh.

- Chưa, anh đã nói hết đâu. Ngày hôm đó, mọi chuyện vẫn xảy ra bình thường; buổi sáng, anh đi học, buổi chiều ra sân đình chơi với bạn. Đang chơi một cách hứng thú thì vợ anh ra bảo anh phải về ngay. Chị ta bảo có hai bác của anh từ Hà nội về thăm cùng rất đông anh chị. Hai bác và các anh chị đang đi thăm bà con trong làng và sẽ về nhà anh ăn cơm chiều và ngủ lại. Vì vậy, anh phải về sớm tắm rửa cho sạch sẽ để đón khách. Trò chơi đang lúc hết sức hấp dẫn, anh năn nỉ vợ anh cho anh chơi thêm một chút nữa. Nàng cương quyết từ chối. Thấy anh còn dùng dằng chưa chịu về, vợ anh bẻ một cành cây đưa lên bảo nếu anh không về thì đét vào mông. Lũ bạn của anh cười rú lên. Anh vừa sợ, vừa xấu hổ, riu ríu để vợ anh nắm tay kéo về, nhưng trong bụng thì tức lắm. Về đến nhà, vợ anh lột hết quần áo anh ra để tắm. Hôm đó nàng kỳ cọ anh thực mạnh, anh la làng thì nàng càng kỳ mạnh hơn. Anh thẳng tay tát một cái bốp vào mặt nàng. Nàng cũng không vừa, dang tay đánh một cái thực mạnh vào mông anh. Anh khóc thét lên. Mẹ anh chạy xuống thấy hai vợ chồng đang đánh nhau thì vội hòa giải. Bố anh cũng chạy xuống. Vừa thấy mặt ông, vợ chồng chúng anh vội im thin thít, không dám hó hé gì nữa. Tuy nhiên, đối với anh thì cuộc chiến giữa anh và nàng vẫn chưa chấm dứt.

Một lát sau, khách về đến nhà. Tất cả chín người: hai bác, sáu anh chị con bác và anh rể, chồng của chị cả. Tất cả ngồi vào bàn, chỉ riêng vợ anh chạy lên, chạy xuống bếp, bới cơm so đũa y như một người đầy tớ. Mọi người lớn vừa ăn vừa nói chuyện râm ran. Anh im thin thít vì vẫn còn tức giận vợ anh. Anh nghe người lớn chuyển đề tài câu chuyện sang đám cưới hai tháng trước của anh. Mọi người quay lại nhìn anh. Bỗng nhiên anh tố cáo vợ anh để trả thù:

- Hồi hôm, con đang ngủ thì chị Hải bế con vào giường và để con nằm trên bụng chị ấy. Chị ấy không mặc quần áo gì cả.

«Cảng», mọi người giật mình quay lại, thấy vợ anh đứng chết trân, tô canh nóng hổi mà chị đang bưng rơi xuống đất vỡ tung tóe. Chị đưa hai tay bụm mặt rồi quay lui phóng chạy ra cửa. Mọi người buông đũa. Hai vợ chồng chị Cả đẩy ghế chạy ra sân. Một chốc sau họ trở vào, nói:

«Nó chạy ra cổng rồi».

Bữa cơm kết thúc trong buồn bã.

Sau khi dọn dẹp xong, mẹ anh rủ bác gái cùng cầm đèn đến nhà ông bà sui gia để tìm vợ anh. Nàng không có ở đó, mấy bà bắt đầu báo động, nhiều người đổ xô đi tìm. Người ta thòng đèn xuống giếng để tìm, người ta ra sông để tìm nhưng không được kết quả gì. Hình như cuộc tìm kiếm vẫn tiếp tục nhiều ngày nhưng vô ích. Về sau, có một người đàn bà cả quyết rằng bà ta thấy vợ anh lên tàu vào Nam.

Sau ngày ấy, cha anh trở nên buồn rầu. Đối với anh, ông có vẻ lạnh nhạt khác hẳn trước. Ít lâu sau, ông nghiện thuốc phiện. Một khi tiên nâu bước vào thì cửa nhà lụn bại một cách nhanh chóng. Năm 1943, ông mất lúc gia đình thực túng quẫn. Khi hấp hối, ông gọi anh lại bảo:

- Bố rất ân hận về chuyện con Hải. Sau khi chết, bố sẽ xuống địa ngục vì chuyện đó. Bố chỉ mong một điều là con luôn ghi nhớ con Hải là vợ chính thức của con. Sau này con có lấy vợ thì cũng chỉ là vợ hai, vợ ba mà thôi. Con hứa với bố đi.

Anh quỳ xuống ôm tay ông, nói qua tiếng khóc:

- Con hứa.

Anh giữ chặt lấy tay ông và khóc ngất trong khi ông từ từ đi qua bên kia thế giới.

Nói tới đây, anh ngừng lại, nét mặt buồn xo. Tôi hết sức cảm động nên hỏi anh:

- Sau khi chị đi rồi hai cụ có la rầy anh không? Anh có thấy hối hận không?

Anh bạn tù của tôi trả lời nho nhỏ, giọng có vẻ thê lương:

- Không ai rầy rà gì anh cả. Lúc đầu anh không hiểu hết ý nghĩa và hậu quả khủng khiếp của lời tố cáo của anh. Anh chỉ nói điều thực sự xảy ra thôi mà, có thêm bớt gì đâu. Nhưng thái độ lạnh nhạt của cha anh sau đó làm cho anh thấm dần. Niềm đau bắt đầu nhen nhúm trong lòng anh. Nó lớn dần theo năm tháng. Cho đến khi anh lên mười bảy, tuổi bắt đầu nghĩ tới nhu cầu yêu đương thì niềm đau đó thường xuyên cắn xé lương tâm anh. Người ta thường bảo thời gian làm vơi dần niềm đau. Ngược lại trong những năm đó, thời gian cứ làm tăng thêm nỗi ray rứt trong anh. Rồi cái chết của cha anh và lời trăng trối của Người thực sự là phát súng ân huệ cho anh.

Vài tháng sau, mẹ anh cũng đi theo cha anh. Lúc đó, có người về làng mộ phu cho đồn điền cao su, anh tình nguyện đi ngay.

Tôi vội ngắt lời anh:

- Có phải anh có ý định đi vào Nam tìm chị hay không?

- Không hẳn như thế. Sáu năm trôi qua rồi còn gì. Nếu nàng còn sống thì có lẽ đã có chồng con rồi. Vả lại nàng lớn hơn anh những bảy tuổi. Không, anh không có ý định tìm nàng để chắp lại mối tơ duyên. Từ đầu đến cuối anh chưa hề yêu nàng mà chỉ cảm thấy một mặc cảm tội lỗi đối với nàng mà thôi.

Tôi hỏi tiếp:

- Thế tại sao anh bỏ quê hương để vào Nam?

- Có một cái gì đó thôi thúc anh phải vào Nam, có lẽ vì nghe người ta bảo đã gặp nàng xuôi tàu vào trong ấy.

- Rồi anh ở lại trong Nam à?

- Đúng vây. Anh vào làm phu cạo mủ ở đồn điền cao su được hơn một năm thì Cách mạng Mùa Thu bùng nổ, anh theo kháng chiến luôn.

- Tại sao, sau hiệp định Genève anh không tập kết về Bắc?

- Anh xin ở lại. Có một cái gì đó giữ chân anh lại miền Nam nầy.

- Chắc vì anh nghĩ chị vẫn còn sống ở miền Nam?

- Có lẽ đúng thế.

Tôi nhìn thẳng vào mặt anh:

- Hiện giờ anh có vợ chưa?

- Chưa.

- Tại sao ở tuổi nầy mà anh vẫn chưa chịu lấy vợ?

Anh nhìn tôi cười buồn:

- Tại sao bỗng dưng em truy anh dữ vậy? Ừ, ừ, anh chưa lấy vợ, có lẽ vì bận đi kháng chiến.

- Xí! Anh đừng nêu lý do đó để gạt em. Em biết trong khu, người ta cũng làm đám cưới ào ào đó chớ. Thực tình, anh có muốn gặp lại chị không?

Anh ngập ngừng:

- Có, anh muốn gặp lại một lần thôi.

- Để làm gì?

- Để xin nàng tha tội cho anh.

Anh thở dài, tôi cũng thở dài theo.

Tôi trở về chỗ nằm. Đêm đó tôi thao thức đến khuya, nghĩ mà thương cho anh bạn tù của tôi, thương cả chị Hải mà tôi chưa hề biết mặt. Cả hai đều là nạn nhân của tảo hôn, một tục lệ hết sức tệ hại và rất phổ biến trước đây.

Ở thời đại chúng ta, tục lệ trên đã được đẩy lùi nhưng chưa hẳn đã hết trong xã hội, nhất là ở nông thôn. Tôi đã có dịp đi nhiều nơi và tôi đã chứng kiến, trong sinh hoạt của người dân mình, nhiều điều xấu xa và nhiều điều tốt đẹp diễn ra ngay trong một gia đình và cả ngay trong một con người nữa.

Về điều nầy, tôi đã dạy cho học trò tôi phân biệt rõ, trong tài sản tinh thần mà ông cha mình để lại, cái nào là mỹ tục, cái nào là hủ tục. Mỹ tục thì có sức bảo tồn, hủ tục thì cương quyết dẹp bỏ. Tôi cảm thấy rằng lời nói của tôi có tác dụng phần nào đến tư duy của các em.

Bài trừ những hủ tục trong xã hội mình, nhất là ở nông thôn thì rất cần thiết. Trước hơn ai hết, chính thầy cô phải đảm nhiệm công việc khó khăn nầy. Theo tôi, chức năng giáo dục không chỉ bó gọn trong việc truyền bá kiến thức mà phải mở rộng ra đến sự cải tạo con người và xã hội. Rất mong các thầy cô trẻ đồng ý với tôi.