← Quay lại trang sách

HỘI ĐỒNG THI

Tính tôi ngay thẳng, coi kẻ gian như kẻ thù. Vì thế, trước năm 1975, các bạn ở Nha Khảo thí biết tánh tôi nên gần như luôn luôn cử tôi làm Phó chủ tịch Hội đồng giám thị, phụ trách một trung tâm thi. Chức vụ nầy thường dành cho các vị hiệu trưởng và giám học trong khi tôi chỉ là một anh thầy giáo quèn. Tôi hết lòng làm việc, nên kỳ thi nào cũng được giấy khen của bộ giáo dục. Tôi đã khám phá và ngăn chặn được rất nhiều vụ gian lận thi cử. Kinh nghiệm về chống gian lận của tôi, vì thế khá dồi dào, nhờ tôi đã bỏ công ra nghiên cứu các cách gian lận trong kỳ thi. Trong một lúc tinh nghịch, tôi định gom các mánh khóe nầy lại để xuất bản tập «101 cách gian lận trong thi cử», trong đó có những cách thức bất ngờ và hết sức lý thú. Tuy nhiên, bạn bè can ngăn, vì làm như thế là vẽ đường cho hươu chạy, tức là chỉ cho các thí sinh cách gian lận, và giám thị không phải ai cũng có tinh thần trách nhiệm và khả năng ngăn chặn như tôi. Vì vậy, tôi bỏ ý định tinh nghịch đó đi.

Trong nhiều năm liên tiếp, cho đến 1975, tôi rất thường bị Nha Khảo thí «trấn» vào các hội đồng quân nhân. Thực là khó nhọc để giữ cho kỳ thi được bình an và đúng quy chế; lại còn có thể bị «tai nạn» nữa. Nhưng tôi không trách móc gì cấp trên vì anh giám đốc Nha Khảo thí cũng trong số bạn bè tốt của tôi.

Dạo đó, thí sinh thường được phân chia thành ba loại và bố trí thi trong các trường thi riêng biệt, gọi là các trung tâm của Hội đồng Giám thị.

Thứ nhất là Trung tâm gồm toàn học sinh đang học ở các trường trung học công lập và tư thực thì rất dễ điều hành vi các em vừa học xong đầy đủ chương trình, còn nhỏ tuổi và có ý thức kỷ luật.

Thứ hai là Trung tâm thí sinh tự do gồm các em thi rớt năm trước, các người lớn tuổi trong hàng ngũ công tư chức hay dân thường. Coi trúng trung tâm nầy thì tha hồ mà thu gom tài liệu gian lận nhưng chẳng có gì rắc rối lắm.

Cuối cùng, đáng ngại nhất là Trung tâm thí sinh tự do gồm toàn quân nhân. Họ là lính đang tại ngũ. Một số thực tình muốn có bằng cấp để lên cấp bậc theo đúng quy chế nhà binh. Một số khác chẳng học hành gì cả, nộp đơn thi để được xa chiến trường, về phép tại thành phố vài bữa. Nhưng nếu mang được tài liệu vào và lật ra đúng chỗ để chép rồi được chấm đậu thì càng hay.

Các trung tâm quân nhân nầy luôn luôn được tăng cường một toán quân cảnh súng ống và còng số tám đầy đủ. Thông cáo được nhắc đi nhắc lại nhiều lần là: «Cấm thí sinh mang vũ khí vào phòng thi».

Vũ khí là súng đạn, lưỡi lê, dao găm thì hoàn toàn không có nhưng có mấy cái lưỡi lam cạo râu bén ngót, mấy con dao bấm Thái lan thực dễ sợ, mang vào để... chuốt bút chì! Giám thị, nhất là nữ giám thị, thì ớn mấy thứ đó lắm. Con dao kia mà rạch vào gương mặt xinh đẹp của họ thì còn chi là cuộc đời! Do đó, họ thường vào cho có mặt rồi thả lỏng cho thí sinh làm gì thì làm. Có người thấy thí sinh lật tài liệu một cách lộ liễu mà không dám nhìn, sợ thí sinh mắc cỡ đổ quạu, nên bỏ đi ra hành lang đứng thẫn thờ nhìn trời, nhìn đất. Đang thời kỳ chiến tranh ác liệt, lính tráng coi trời bằng vung, nên không thể trách các cô giám thị được. Nếu có trách thì trách cuộc chiến có lẽ đúng hơn.

Tôi hiểu rõ tình trạng nầy nên sắp đặt và giao cho thư ký trung tâm điều hành công việc văn phòng và dành gần hết thời gian hùng hục tuần tra các phòng thi.

Một ngày, trước khi thí sinh đến trường thi, có buổi họp tất cả nhân viên, đều là thầy cô giáo. Khi điểm danh, tôi gọi tên và nhìn mặt từng người. Tôi chú ý đến hai hạng người sau đây:

Thứ nhất là các cô trẻ đẹp, tôi bố trí ở lại văn phòng. Chẳng phải tình ý gì mà vì tôi biết các cô phải coi nhiệm vụ bảo vệ khuôn mặt mỹ miều của mình lớn hơn nhiệm vụ coi thi. Đó là điều quá dễ hiểu mà ta cần tha thứ cho «phái đẹp». «Phái xấu» chúng ta cần phải rộng lượng và tạo điều kiện thuận lợi cho họ!

Thứ hai là các nam giám thị có «bộ tướng ngon lành». Nếu điểm danh thấy những người mà cái nhìn «có cô hồn» thị thực là tuyệt. Họ lập tức trở thành «cận thần» của tôi. Tôi bố trí cho họ làm giám thị hành lang. Tôi cùng họ quần qua, quần lại liên tục để yểm trợ cho các giám thị phòng.

Kỳ thi nào chúng tôi cũng gặp rắc rối với mấy ông quân nhân và tôi đã vất vả lắm mới giải quyết ổn thỏa. Tôi xin kể một việc thôi để làm thí dụ.

Lần đó, tôi phụ trách trung tâm Nguyễn Tri Phương với một anh Giám học một trường ngoài Huế. Ngay buổi sáng đầu tiên, tôi đột nhập vào một phòng thi, chụp được quả tang một đống tài liệu để bừa bãi trên bàn, trong hộc, dưới băng ngồi. Tôi tới tịch thu. Người thí sinh quân nhân, chủ nhân của các tài liệu nầy cự lại. Anh ta sừng sộ với tôi:

- Làm gì dữ vậy. Tôi là lính thiết giáp ở mặt trận về thi, ông phải nể một chút chớ.

Nói xong, anh ta rút túi lấy ra con dao bấm. Cách! Lưỡi dao bung ra, nhọn lểu, sáng quắc. Anh dằn mạnh con dao lên bàn. Mọi người, kể cả thí sinh, đều xanh mặt. Giám thị phòng dợm đi gọi quân cảnh đang túc trực ở cuối hành lang. Tôi ngăn lại. Đây là công việc của ngành giáo dục, tôi phải giải quyết, trước khi nhờ cậy đến người ngoài. Tôi ôn tồn nói với anh thí sinh quân nhân:

- Đúng, tôi hiểu, ở bất cứ xứ sở nào, người lính cũng thường xem danh dự quý hơn cả sinh mạng; anh không nên vì cái bằng cấp tú tài mà bán rẻ danh dự đi. Tôi là một anh thầy giáo, tôi cũng xem lương tâm nghề nghiệp lớn hơn sinh mạng của mình. Tôi rất muốn giúp đỡ anh, nhưng tôi phải làm nhiệm vụ của mình trước đã. Anh nên hiểu điều đó và để yên cho người khác làm tròn bổn phận mà xã hội giao phó cho họ.

Anh nghe xuôi tai nên nét mặt dịu xuống. Tôi kết luận:

- Anh nên về, rủ người yêu đi dạo phố vài hôm cho vui rồi trở lại trình diện đơn vị. Tôi không lập biên bản cấm thi đâu, khóa sau cứ nộp đơn thi tiếp, nhưng nhớ phải học bài chút đỉnh. Còn khóa nầy thì coi như bỏ cuộc. Tuy nhiên, mỗi ngày anh chịu khó mang phiếu báo danh và giấy phép đến đây tôi đống dấu hiện diện để khỏi «lãnh củ» khi trở về đơn vị. Anh đồng ý nhé!

Tôi đưa tay cho anh bắt. Anh vui vẻ gom đồ đạc, cởi nút áo cho cả vào bụng. Trước khi ra về, anh có nhã ý tặng tôi con dao bấm làm kỷ niệm. Tôi từ chối nên anh cho nó vào túi quần, chụp lên đầu cái mũ màu đen của lính thiết giáp và bước ra khỏi phòng thi.

Hai giám thị phòng thở ra nhẹ nhõm. Các thí sinh quân nhân trong phòng ngẩng lên nhìn tôi mỉm cười một cách thân thiện. Vài người đứng dậy thu xếp đồ đạc rồi góp giấy trắng, ký tên và ra khỏi phòng.

Những việc tương tự như thế xảy ra nhiều lần trong mỗi kỳ thi. Tôi vẫn an toàn, nghĩa là chưa bao giờ bị hành hung. Tôi tin rằng, cách tốt nhất để cho người phạm lỗi chịu nhận lỗi là phải tôn trọng họ, tuyệt đối không bao giờ làm nhục họ trước mặt người khác.

Cứ như thế, trong các kỳ thi mà tôi tham dự, tôi bắt được rất nhiều tài liệu. Có nhiều cuốn sách giáo khoa và tự điển còn thơm mùi giấy, nhiều trang bên trong vẫn còn dính nhau, chưa kịp rọc, chứng tỏ thí sinh vừa mới mua trên đường đi đến trường thi. Thông thường, tôi tịch thu những quyển sách nầy tặng cho thư viện của trường sở tại.

Tôi xin nhắc lại, kỳ thi nào tôi cũng gặp sự rắc rối kiểu như trên, nhưng chính sự cương quyết của tôi được phép lịch sự hỗ trợ nên tôi đã điều hành các trung tâm thi tú tài một cách đúng đắn.

Tôi thường dạy học trò rằng nếu mình biết tự kềm chế để đối xử hòa nhã và lễ phép với mọi người thì không ai nỡ làm hại mình. Theo Mạnh tử thì nhân chi sơ tính bổn thiện, nghĩa là trong lòng mọi người vốn chỉ có một mình ông thiện ngự sẵn từ khi chào đời. Tuân Tử cãi lại, không phải ông thiện mà là ông ác. Cả hai vị tiền bối đó đều cực đoan. Tôi thích sự trung dung, cho rằng trong lòng mọi người có cả hai ông thiện và ác sống chung. Với một người, nếu chúng ta đối xử tốt thì ông thiện trong tim người đó sẽ nhảy ra và nên việc; nếu đối xử không tốt lập tức ông ác nhảy ra, thế là hỏng việc.