Chương 7 (1) GẬY ÔNG ĐẬP LƯNG ÔNG: -THÀNH BÁT QUÁI TINH DIỆU VÔ SONG
VÀO SÂU HANG Ổ
Tổ Gia đợi đúng ba ngày, không thấy Bành tướng sĩ quay trở lại, đành phải một mình quay về Đường khẩu.
Tổ Gia về chưa được bao lâu, Tây Điền Mỹ Tử lại từ Đông Bắc bí mật đến Thượng Hải để thu khoản ăn chia của các hội đạo môn ở Giang Nam, đồng thời chỉ đạo kế hoạch tạo thanh thế mới.
Tổ Gia nhận thấy cơ hội đã đến.
Đêm đến, Tây Điền Mỹ Tử bày yến tiệc ở tô giới Pháp để thết đãi Tổ Gia.
“Tổ Gia, đã lâu không gặp, vẫn khoẻ chứ?” Tây Điền Mỹ Tử mỉm cười.
“Làm phiền Tây Điền tiểu thư quan tâm, gần đây bỉ nhân luôn trăn trở một chuyện…” Tổ Gia nói.
Tây Điền Mỹ Tử lại bật cười thành tiếng: “Tổ Gia xưa nay tâm tư khó đoán, không biết lại có cao kiến gì?”
Tổ Gia nhìn bà ta nói: “Tại hạ cho rằng, nên tuyển chọn ra một Thái Sơn Bắc Đẩu Dịch học Trung Hoa trong số thủ lĩnh của các hội đạo môn, nhằm thống lĩnh các hội đạo môn quan trọng trong cả nước, như vậy sẽ càng phục vụ Thiên Hoàng bệ hạ tốt hơn.”
“Cái ghế Giang Nam đệ nhất vẫn chưa đủ cho Tổ Gia ngồi sao?” Tây Điền Mỹ Tử liếc nhìn ông đầy tình ý.
Tổ Gia mỉm cười, nói: “Tây Điền tiểu thư quá lời rồi, ăn bổng lộc vua, san sẻ lo âu với vua.”
Tây Điền Mỹ Tử cười giòn tan, nói: “Việc này e rằng sẽ không được phía Quân bộ1 ủng hộ, điều mà bên quân đội sợ nhất là người Trung Quốc các ông được tết thành một sợi dây thừng, bây giờ phân ra mà trị, không phải rất hay sao?”
Tổ Gia cũng cười lớn: “Quan điểm của bên Quân bộ không phải không có lý, chẳng có quy tắc nào cứ phải nhất nhất làm theo một lối, Tây Điền tiểu thư hẵng cứ nghe tôi nói. Phân ra để trị quả đúng là cách hay, nhưng sự cân bằng này sớm muộn gì cũng sẽ bị phá vỡ, cũng như lần trước Tây Điền tiểu thư đã phân tích, bọn đế quốc hùng mạnh cắt xẻo Trung Quốc, cùng hãm chân nhau, cùng giữ thế cân bằng, trước mắt chẳng kẻ nào có khả năng nuốt chửng cả Trung Quốc, nhưng Thiên Hoàng không thấy các đế quốc Âu – Mỹ cũng đang ra sức phát triển các tín đồ Tây dương bằng cách đưa tôn giáo thâm nhập vào đấy sao? Sự cân bằng ngoài mặt này không thể che đậy được mâu thuẫn giữa các cường quốc, cũng không thể che đậy được mâu thuẫn giữa người Trung Quốc với bọn đế quốc, sớm muộn gì Trung Quốc cũng xảy ra chuyện lớn! Một khi thế cục hỗn loạn, không ai có thể biết được các hội đạo môn sẽ quay về phe nào? Hội đạo môn phần lớn đều là đám người ô hợp, chẳng nói chuyện tín nghĩa gì đâu, Tây Điền tiểu thư chưa từng nghĩ đến điều này sao?”
Nụ cười tắt ngấm trên mặt Tây Điền Mỹ Tử: “Ý Tổ Gia là…?”
“Hiện giờ, các nước lớn ở Âu – Mỹ vừa mới thoát khỏi chiếc bóng âm u của khủng hoảng kinh tế, nhân lúc bọn họ còn chưa kịp nghĩ đến việc nắm lấy kẽ hở của các hội đạo môn này, Đế quốc Nhật Bản nên chủ động xuất kích. Chúng ta có ưu thế ở gần, lại cùng chung một dòng văn hoá, cần phải nắm chặt lấy mà thao túng tất cả các hội đạo môn ở Trung Quốc, đặc biệt phải thống nhất các hội đạo môn quan trọng ở các vùng Đông Bắc, Bắc Bình, Thiên Tân, Giang Hoài, Giao Đông, Phúc Kiến lại với nhau…”
Tây Điền Mỹ Tử hỏi: “Thống nhất dưới trướng của Tổ Gia?”
Tổ Gia lắc đầu, đáp: “Thống nhất dưới trướng của Đế quốc Nhật Bản.”
Tây Điền Mỹ Tử nở một nụ cười quỷ quyệt, nói: “Tổ Gia hãy cứ thống nhất Tứ đại Đường khẩu của phái Giang Tướng nằm dưới trướng của Đế quốc Nhật đi đã.”
Tổ Gia ngầm khen ngợi sự lọc lõi, xảo quyệt của Tây Điền Mỹ Tử.
“Có điều này Tây Điền tiểu thư không biết thôi, bỉ nhân từ lâu đã có ý định thống nhất phái Giang Tướng, nhưng phái Giang Tướng không giống với các hội đạo môn khác. Tứ đại Đường khẩu đã phân tách gần 300 năm rồi, tình trạng này tồn tại ngay từ khi sư tổ Phương Chiếu Dư thành lập phái Giang Tướng, không thể một sớm một chiều thống nhất được, không khéo còn đánh rắn động cỏ. Người cầm đầu Tây phái và Nam phái qua lại mật thiết với Quốc dân Đảng, bọn họ có muốn hợp tác với quan quân hay không vẫn là vấn đề, lúc này mà tôi lại ngang nhiên thu về một mối, e hỏng việc…”
Tây Điền Mỹ Tử gật đầu, mỉm cười nói: “Xem ra cái ghế Giang Nam đệ nhất này chẳng đủ cho Tổ Gia ngồi rồi, Tổ Gia muốn ăn miếng to kìa!”
Tổ Gia cười lớn: “Bỉ nhân chỉ đề nghị như vậy, còn về danh hiệu Thái Sơn Bắc Đẩu Dịch học Trung Hoa nên do ai đảm nhận, hoàn toàn do phía quân đội định đoạt!”
“‘Nam Viên, bắc Vĩ, đông Nhạc Ngô, tam tiên quy lai vấn Tổ Gia’. Mánh khoé của ông vậy là đã đủ lắm rồi! Nhưng việc này một mình tôi không thể quyết định được, hơn nữa, mặc dù các hội đạo môn của Trung Hoa vàng thau lẫn lộn, nhưng đúng là trong số đó có không ít cao nhân thật sự, danh hiệu Thái Sơn Bắc Đẩu Dịch học không có chuyện thích thì có thể gắn lên người một vị nào đấy được, đặc biệt người Trung Quốc các ông gà cùng một mẹ rất thích đá nhau, chẳng ai chịu phục ai cả. Cho nên, có được danh hiệu này hay không, còn phải phụ thuộc vào bản lĩnh thật của chính bản thân Tổ Gia…” Tây Điền Mỹ Tử nói.
“Ngoài ra…” Tây Điền Mỹ Tử dừng lại một lúc, lại tiếp tục: “Ngoài ra, tôi mong rằng Tổ Gia không giở trò. Tổ Gia là người khôn ngoan, nên biết rằng thế cục lớn đến vậy không thể xoay chuyển được đâu…”
Tổ Gia cười vang: “Tây Điền tiểu thư quá lo rồi! Cái đất nước này đã chết ngất rồi, muốn làm cho nó hồi tỉnh lại, chỉ trông mong vào Nhật Bản. Không phải tôi vì các người, tôi chỉ vì mình thôi.”
Tây Điền Mỹ Tử mỉm cười gật đầu: “Sau khi trở về Mãn Châu, tôi sẽ báo ngay lên trên việc này, Tổ Gia đợi tin của tôi.” Nói xong, bà ta mở cửa sổ ra, ngước lên nhìn bầu trời đêm. “Cảnh đêm trêu ghẹo lòng người, ánh trăng cũng đẹp đẽ như ánh trăng biển bắc2.”
Tổ Gia cũng đứng dậy nói: “Ánh trăng chỉ có một.”
Tây Điền Mỹ Tử quay người nói: “Hôm nay đã muộn quá rồi, Tổ Gia cứ ở lại đây nghỉ ngơi…”
Tổ Gia lắc đầu, chối từ: “Đa tạ Tây Điền tiểu thư, Đường khẩu nhiều việc, tôi nên quay về sớm thì hơn. Tây Điền tiểu thư nghỉ sớm, tại hạ cáo lui.”
Mắt Tây Điền Mỹ Tử ánh lên vẻ thất vọng.
HỘI THI HÙNG BIỆN DỊCH HỌC DO THIÊN HOÀNG BAN ÂN CHIẾU
Hai tháng sau, vừa giữa hè, Tây Điền Mỹ Tử bí mật điện báo cho các hội đạo môn, gần hai trăm thủ lĩnh của các hội đạo môn đã đến vùng chiếm đóng của người Nhật ở Thượng Hải.
“Ta đã tìm cách tiến cử Tổ Gia với Quân bộ, nhưng kế hoạch của bên Quân bộ là lần này phải tiến hành cuộc thi hùng biện công khai để chọn Thái Sơn Bắc Đẩu Dịch học Trung Hoa, đúng dịp các học giả của Sở Cung giáo Quân bộ Nhật Bản và các đại sư giới Dịch học Nhật Bản đều có mặt, họ sẽ chọn ra ba cái tên đáng mong đợi nhất. Tổ Gia chỉ cần vào được tốp ba đó, việc lớn coi như đã thành!” Tây Điền Mỹ Tử nói với Tổ Gia.
Tổ Gia gật đầu: “Tây Điền tiểu thư yên tâm, tại hạ sẽ cố gắng hết sức.”
Ngày hôm sau, “Hội thi hùng biện Dịch học do Thiên Hoàng ban ân chiếu” được bí mật tổ chức tại khu đóng quân của người Nhật ở Thượng Hải. Tất cả thủ lĩnh của các hội đạo môn được chia thành mười nhóm, quy chế thi đấu như sau: Sau khi có kết quả hùng biện vòng một, các nhóm sẽ chọn ra người thắng cuộc; mười người thắng cuộc ở vòng hai sẽ lần lượt ra sân để đối đáp lại hơn hai trăm người, người thách thức có thể hỏi mọi vấn đề trong Dịch học, chín người được chọn còn lại cũng có thể đưa ra câu hỏi, chỉ cần người thách đấu không trả lời được một vấn đề hoặc trả lời không đúng câu hỏi thì sẽ bị loại ra khỏi cuộc chơi; ba người cuối cùng có câu trả lời nhiều nhất, hay nhất sẽ được chọn làm đối tượng đáng mong đợi, phía quân đội Nhật Bản sẽ tổng hợp, định đoạt ai xứng đáng trở thành Thái Sơn Bắc Đẩu Dịch học.
Việc chia nhóm hùng biện phải mất cả một ngày mới xong, mười người thắng cuộc lần lượt là:
Nhóm 1: Nhược Lan sư thái của Thái Cực Bang, Phúc Kiến.
Nhóm 2: Trịnh Bán Tiên của Ngọc Xích Đạo, Giao Đông.
Nhóm 3: Tổ Gia của phái Giang Tướng, Thượng Hải.
Nhóm 4: Mai Huyền Tử của Mai Hoa Hội, Thượng Hải.
Nhóm 5: Lưu Hạt Tử của Thiên Thánh Đạo, Bắc Bình.
Nhóm 6: Đồng Hoài Tú – truyền nhân phong thủy Tam Hoàng của Trung Nguyên Ngũ Hổ, Hà Nam.
Nhóm 7: Long Ngọc Phụng của Dao Trì Đạo, Thiên Tân.
Nhóm 8: Bùi Cảnh Long của Hoàng Cực Đạo, Bảo Định.
Nhóm 9: Đinh Tử Hà của Tử Hà Đường, Mãn Châu.
Nhóm 10: Tưởng Thiên Thừa của Thuận Thiên Giáo, Mãn Châu.
Đêm hôm đó, Tổ Gia gọi cả Hoàng Pháp Dung đến để chuẩn bị cho vòng thi chọn ra ba trong số mười người của ngày hôm sau. Cuộc thi biện luận lần này, Tổ Gia chỉ nói cho các Bá đầu của Đường khẩu, đồng thời ra lệnh: “Kẻ nào tiết lộ chuyện cơ mật sẽ phải chết!“
Việc tham gia cuộc thi hùng biện Dịch học do người Nhật tổ chức lần này khiến các Bá đầu đều cảm thấy khó hiểu, Nhị Bá đầu không nhịn được tò mò hỏi một câu: “Tổ Gia, thầy định làm gì vậy?”
Chuyện Tổ Gia “nương nhờ” người Nhật, trong nội bộ phái Giang Tướng, ngoài Giang Phi Yến ra, những người khác hoàn toàn không biết gì. Tổ Gia cũng không muốn để cho bọn họ biết quá nhiều.
“Chỉ cần mọi người đồng tâm hiệp lực giành cho được danh hiệu Thái Sơn Bắc Đẩu Dịch học là được, những việc khác không cần nghĩ đến.” Tổ Gia trả lời.
Đại Bá đầu lúc lắc cái đầu hỏi: “Tổ Gia… Không phải Tổ Gia đã nương nhờ… nương nhờ…”
Tổ Gia trợn mắt lườm, Đại Bá đầu sợ hãi không dám ho he nữa.
Nhị Bá đầu thấy bầu không khí có phần căng thẳng, liền nói: “Tổ Gia có sắp đặt riêng của thầy rồi, kinh nghiệm bao nhiêu năm nay cho chúng ta thấy, chỉ cần theo Tổ Gia, sẽ không đi lạc đường.”
Trương Tự Triêm há miệng định nói gì đó thì bị Hoàng Pháp Dung đứng sau lưng kéo áo, nên lại im bặt.
Ngũ Bá đầu Trương Kỳ Lĩnh hắng giọng ho lên một tiếng, nói: “Con tin theo Tổ Gia, Tổ Gia đi đâu con đi đấy.”
Nhị Bá đầu lườm anh ta một cái, nói: “Lẽ nào là Hán gian thì không xứng đáng?!”
Bầu không khí trong Đường khẩu bỗng trở nên căng thẳng.
Hoàng Pháp Dung là tay chân được Tổ Gia đặc cách cho tham gia vào cuộc họp, lúc này đã phát huy được uy lực: “Bùn nhiều thì đắp Phật to, nước lên thuyền lên, Tô Tần dùng thuyết hợp tung theo giúp Sở Vương, Trương Nghi lấy thuyết liên hoành phò trợ Tần Đế, lấy được danh hiệu Thái Sơn Bắc Đầu Dịch học chính là gián tiếp góp sức cứu nước, đối với phái Giang Tướng, đối với sức mạnh kết tụ của các hội đạo môn Trung Hoa, đều mang lại lợi ích lớn. Sư bá ra lệnh một tiếng, núi rung đất chuyển, kim vàng trích máu cùng thề, các huynh đệ cùng đồng tâm hiệp lực. Lẽ nào các vị đã quên lời thề khi bước vào phái Giang Tướng rồi sao?”
Tổ Gia ngước mắt nhìn bà ta, nói với tất cả mọi người: “Còn nghi ngại điều gì nữa không?”
Lời này của Tổ Gia đồng nghĩa với câu: “Giải tán cuộc họp.” Kỳ thực mọi người nghe mà vẫn còn lơ mơ, cái hiểu cái không. Cứ thế, mỗi người đều rời khỏi Đường hội mà lòng vẫn còn phảng phất nỗi ngờ vực.
ĐẠI SƯ CỐT TƯỚNG CỦA THIÊN THÁNH ĐẠO
Giờ Thìn ngày hôm sau, cuộc thi hùng biện chọn ra ba người xuất sắc trong số mười người bắt đầu. Mười người được đề cử lần lượt bốc thăm, họ sẽ tham gia phần thi thách đấu theo số thứ tự đó.
Cuộc thi biện luận, hùng biện đã có từ thời xưa, mỗi cuộc thi giống như một trận chiến, không dao súng kiếm kích mà chủ tâm giết người bủa vây bốn phía, không thấy máu chảy, chỉ bằng lời nói mà có thể bịt miệng người ta. Trước khi lên hùng biện, cần phải chuẩn bị chu đáo, biết mình biết ta, trăm trận trăm thắng; trong lúc hùng biện, môi như mang gươm, lưỡi như mang kiếm, anh chém tôi đỡ, tránh mạnh đánh yếu, tránh thật đánh hư; sau cuộc hùng biện, vẻ mặt phải vui vẻ hoà nhã, thua hay thắng cũng không được làm ảnh hưởng đến mọi người.
Tổ Gia chưa bao giờ chơi trận nào mà không có sự chuẩn bị. Trước đó vài tháng, ông đã phái các Bá đầu đi điều tra tình tình của từng hội đạo môn.
Người đầu tiên lên bục diễn thuyết chính là “Kim cương” Lưu Hạt Tử thuộc phân đà Bắc Kinh của Thiên Thánh Đạo.
Sở dĩ bị gọi là Lưu Hạt Tử (Lưu mù) bởi khi còn bé, mắt trái của ông ta đã bị hỏng vì chơi đốt pháo, mắt phải cũng chỉ có thể nhìn được đồ vật mờ mờ.
Sau khi Lưu bị mù một mắt, cha mẹ ông ta lo lắng khống biết đứa con này về sau sẽ sống thế nào. Nhưng ông trời không tuyệt đường của người ta, ở U Châu gần Bắc Kinh có bậc thầy Cốt tướng (sờ xương) mù lòa, nghe nói đám trợ tá của Trương Tác Lâm cũng từng đến nhờ vị đại sư này, mẹ của Lưu mù đã nhờ người nói hộ, xin đại sư thu nhận con trai mình làm đồ đệ, mong về sau nó cũng có miếng cơm ăn.
Pháp Cốt tướng có từ thời tiên Tần, cũng thuộc phạm trù xem tướng, kỳ thực chính là kiểu xem tướng xương. Người tinh có thể vừa xem vừa sờ, còn người mù loà chỉ có thể dùng tay sờ, nhưng người mù không bị ảnh hưởng bởi thị giác, thường đưa ra phán đoán chuẩn xác hơn.
Khi Lưu Hạt Tử vừa ngồi xuống đã có người đầu tiên nhảy tót lên hỏi. Mọi người cùng đưa mắt nhìn, thì ra chính là chưởng môn mới nhậm chức của tổng đà Thiên Thánh Đạo – Tả Vịnh Thiền. Tả Vịnh Thiền vốn nghĩ rằng, lần chia nhóm tranh luận này một chưởng môn như mình sẽ lọt được vào tốp mười, không ngờ người lọt vào chỉ là một kẻ ở cấp Kim cương của một phân đà, trong lòng hắn căm tức vô cùng. Hắn đâu biết rằng, tất cả đều do bọn người Nhật giở trò. Tả Vịnh Thiền là kẻ quá nham hiểm, thâm độc, cứ có sữa là gọi mẹ, nếu để hắn lên làm Thái Sơn Bắc Đẩu Dịch học, thứ nhất hắn sẽ không phục tùng. thứ nữa, một khi có biến, kẻ khác hứa hẹn lợi ích lớn hơn, chắc chắn hắn sẽ trở mặt. Tìm Hán gian cũng cần phải tìm kẻ có phẩm chất, bởi vậy hắn đã bị loại ngay từ vòng sơ tuyển.
“Lưu sư gia thường ngày bói tướng xương không ít, đã từng xem cho mình chưa?” Câu đầu tiên Tả Vịnh Thiền hỏi đã nhồi đầy thuốc nổ.
Lưu Hạt Tử ngước con mắt phải lên, cũng không rõ ông ta có nhìn thấy Tả Vịnh Thiền hay không, chỉ cười khà rồi đáp: “Chúng ta từ khi lọt lòng đến nay, thân này, da tóc này đều là của cha mẹ cho ta. Cốt tướng là thuật tiết lộ thiên cơ, mặc dù bỉ nhân hiểu được thuật này, nhưng không dám tuỳ tiện đem nó ra làm trò vui, cho dù người ta đến cửa nhờ xem giúp, tôi cũng phải thắp ba nén nhang, bảo họ phải thành tâm, mới có thể tiết lộ. Còn về bản thân tôi, từ khi bái sư, chính tay sư phụ đã xem tướng đầu, cốt tướng của tôi chỉ có thầy tôi xem cho, tôi chưa xem thêm lần nữa.”
Lưu Hạt Tử rất nhạy bén, ông ta đã liệu trước, nếu trả lời chưa từng xem cho mình thì Tả Vịnh Thiền chắc chắn sẽ công kích: Đại sư Cốt tướng mà lại chưa từng xem cho mình, nghe không thấy tức cười sao? Nếu ông ta đáp mình đã từng xem cho mình thì Tả Vịnh Thiền chắc chắn sẽ vặn vẹo: “Đã làm rồi thì vận khí năm nay thế nào? Trong hội thi hùng biện lần này, ông có nhòm ngó ngôi đầu không?” Đến lúc này, dù Lưu Hạt Tử trả lời có hay không cũng đều bị dồn vào thế bất lợi.
Chiêu đầu tiên của Tả Vịnh Thiền đã bị đối phương dùng chiêu binh đến tướng chặn, hắn liền túm lấy một tên thanh y tép riu, đẩy hắn lên trước bục diễn thuyết: “Nghe danh thầy Lưu xem tướng xương chuẩn xác từ lâu, nhưng trong giới xem tướng, cũng có rất nhiều người hoài nghi về Cốt tướng này. Hay là hôm nay thầy Lưu đích thân xem cho đồ đệ của ta xem sao. Lưu sư gia không cần nói sau này nó thế nào, chỉ cần nói về những việc lớn đã xảy ra trước đây của nó là được!”
Đây là nước cờ chết – dự đoán tại chỗ, thầy tướng số sợ nhất việc này. Bất kể là xem Bát tự, lục hào, phong thủy, hay xem tướng mặt… bị kê tại chỗ thế này, ai chẳng hoang mang, loạng choạng. Có bản lĩnh thật sự hay không tạm thời không cần nói đến, cho dù có bản lĩnh thật sự, trước trăm con mắt dõi nhìn chòng chọc, khó mà tránh khỏi sai sót. Hơn nữa, Tả Vịnh Thiền lại chặt đứt đường lui của Lưu Hạt Tử, chỉ cho ông ta nói những chuyện đã xảy ra trước đây, không để cho ông ta nói đến những chuyện sau này, vì những việc chưa xảy ra cần phải có thời gian kiểm chứng, còn những việc trước đây có thể kiểm chứng ngay tại chỗ.
Lưu Hạt Tử cười ha hả: “Tả Chưởng môn làm khó tại hạ rồi! Tôi có thể thực hiện thuật Cốt tướng ngay tại đây, nhưng không thể xem cho đệ tử của Thiên Thánh Đạo được, anh và tôi thuộc cùng môn phái, cho dù tôi có nói đúng, các vị có mặt ở đây cũng sẽ cho rằng chúng ta thông đồng với nhau, nghi ngờ chúng ta gian lận.”
Lưu Hạt Tử đã lấy gậy của hắn mà đập lưng hắn, ông ta biết rõ, cho dù mình có phán trúng thì đệ tử của Tả Vịnh Thiền chắc chắn sẽ phủ nhận tất cả, nếu không lúc quay về hắn sẽ phải chết, một thanh y mà lại không hiểu được “luật chơi” này sao?! Nhưng Lưu Hạt Tử cũng hơi run, ngộ nhỡ người Nhật lại tìm một người đưa lên, xem chuẩn hay không, trong lòng ông cũng không dám chắc.
Tổ Gia nhìn ra huyền cơ trong việc này, ông bắt đầu thi triển thuật hợp ngang chia dọc, kẻ thù của kẻ thù là bạn của mình, cách để giành được thắng lợi trong cuộc chiến chính là đoàn kết tất cả các sức mạnh có thể đoàn kết được lại với nhau, loại dần từng tên một.
“Nếu đã như vậy, tôi làm người đứng giữa vậy. Để thử nghiệm, Lưu sư gia hãy xem tướng xương cho tôi với thân phận là Chưởng môn đời thứ mười bốn của phái Giang Tướng, Tả chưởng môn có ý kiến gì không?” Tổ Gia nói.
Mai Huyền Tử ngồi bên cười thầm vì ông ta nhìn rõ dụng ý của Tổ Gia.
Tả Vịnh Thiền nhìn Tổ Gia, rồi lại nhìn Tây Điền Mỹ Tử, Tây Điền Mỹ Tử gật đầu, Tả Vịnh Thiền thầm nghĩ: Xong rồi! Hắn đành phải gật gù cái đầu.
Tổ Gia đứng dậy bước lên, Lưu Hạt Tử lúc này vẫn chưa biết Tổ Gia có ý gì, không biết Tổ Gia nhảy ra là muốn giúp mình hay muốn hại mình đây?!
“Lưu sư gia, mời!” Tổ Gia mỉm cười nói.
Lưu Hạt Tử hấp háy con mắt phải, giơ hai tay ra, bắt đầu sờ từ tay đến cánh tay, từ cổ đến đầu. Sau đó dõng dạc nói: “Tổ Gia xương cốt lạ thường, là hậu duệ của hàng môn tướng, tổ tiên từng có người làm quan trong triều, huynh đệ tỷ muội không quá ba người, cha mẹ mất sớm…”
Tổ Gia gật đầu, nói: “Đúng cả! Nhưng những chuyện này, bạn bè đồng đạo đều biết, Lưu sư gia hãy nói những chuyện khác xem!” Ý Tổ Gia muốn bảo ông ta: “Ông diễn kịch cũng phải diễn sao cho ra trò, chứ nói những chuyện ấy lừa gạt đám quân Nhật, ông coi người Nhật là lũ ngu sao?”
Lưu Hạt Tử hiểu ngay, liền nói: “Năm tuổi, Tổ Gia phạm Thủy ách, bị ngã sông, suýt nữa chết đuối. Mười hai tuổi, bị hung tinh Hồng loan chiếu, một phụ nữ lớn tuổi có hành vi dâm loạn với ông.”
Tổ Gia nghe thấy thế, suýt chút nữa phì cười, nhưng ông nghiêm mặt nói: “Lưu sư gia thật lợi hại! Đều đúng cả!”
Tiếng vỗ tay như sấm dậy vang lên bên dưới khán đài.
Lúc này, lẽ ra Lưu Hạt Tử phải biết chừng mực mà dừng lại, không ngờ ông ta lại hăng hái hơn, vừa sờ vừa phán: “Xương ngọc chẩm phía sau đầu Tổ Gia nổi lên, đây là tướng đại phú đại quý, phàm việc gì cũng gặp hung hoá cát, gặp tai lại may mắn tốt lành…”
Tổ Gia nghĩ thầm: Để ông đùa chút vậy là đủ rồi, ông còn không biết dừng lại. Liền nói: “Tôi nghe nói nếu xương ngọc chẩm quá to sẽ bị coi là phản cốt (một thuật ngữ trong Cốt tướng). Đại tướng Ngụy Diên nước Thục thời Tam Quốc có cái xương hơi to quá sau ót, Gia Cát Khổng Minh nhìn ra đó là phản cốt. Trên từ Lưu Bị, dưới từ đám binh lính đều cho rằng Ngụy Diên dũng mãnh thiện chiến, trung nghĩa can đảm, nhưng Gia Cát Lượng lại sinh lòng nghi ngờ ông ta. Về sau, quả không ngoài dự đoán, Gia Cát Khổng Minh vừa chết, Ngụy Diên liền làm phản, cũng may Khổng Minh đã có sự đề phòng từ trước, sắp xếp Mã Đại làm nội ứng bên cạnh Ngụy Diên, sau Mã Đại chém tên tướng làm phản đó ngã xuống ngựa. Lưu sư gia nói tôi xương ngọc chẩm nổi rõ, là đang muốn khen hay chê tại hạ vậy? Khà khà!”
Những người ngồi dưới khán đài đều bật cười. Mặt Lưu Hạt Tử đỏ lên, cả cục thịt bên mắt trái cũng đỏ au.
Tổ Gia dùng cách đùa cợt để bảo Lưu Hạt Tử đừng có đùa bỡn quá đà. Cho một quả táo ăn, rồi lại tát cho một cái, vừa mua chuộc lòng người, vừa khiến đối phương phải biết chừa mặt mình ra, Tổ Gia đã đạt được mục đích.
Cuộc tranh luận lại tiếp tục, một vài người dưới khán đài thay nhau hỏi thêm một số kiến thức về Cốt tướng, Lưu Hạt Tử đáp lại từng câu một, cuối cùng hạ cánh an toàn.
BÓI TỨ TRỤ
Người thứ hai ra sân chính là Trịnh Bán Tiên ở Giao Đông. Người này chiếm cứ vùng Giao Đông đã lâu, nghe nói trình độ bói bát tự cao thâm, được người ta ca tụng là thần tiên sống, chỉ cần nói cho ông ta biết Bát tự, ông ta sẽ bói ra tình hình sức khoẻ, tài vận, đường quan lộ, lục thân của người đó.
Lục thân là một thuật ngữ chỉ mối quan hệ xã hội do bát tự của một người sinh ra.
Những người hay đi xem tướng số đều biết rằng, thầy tướng số có thể nhìn ra được các sự việc của cha mẹ, anh chị em, bạn đời, thậm chí cả ông bà mình, đều bởi căn cứ vào Lục thân mà suy đoán ra.
Lục thân chỉ: cha mẹ, anh em trai, chị em gái, vợ, quan sát tinh, con cái. Qua Bát tự, căn cứ vào mối quan hệ sinh khắc trong ngũ hành mà có được Lục thân.
Bát tự phân chia thành tứ trụ: năm sinh là một trụ, tháng sinh là một trụ, ngày sinh là một trụ, giờ sinh là một trụ, mỗi trụ lại do một thiên can và một địa chi kết hợp tạo thành, tất cả gồm tám chữ, cho nên được gọi là Bát tự.
Khi suy đoán, dùng nhật trụ để biểu thị cho mình, đặc biệt phải dùng thuộc tính ngũ hành thiên can của nhật trụ để đoán ra Lục thân, đây là bước thứ nhất khi đoán mệnh. Ví dụ, nếu một người sinh vào ngày Canh Thìn, vậy thì lấy chữ Canh biểu thị cho mình, đồng thời coi chữ Canh là trung tâm, từ đó đoán ra lục thân của anh ta.
Canh là một trong mười can, ngũ hành thuộc Kim, cách suy đoán lục thân như sau:
Sinh ra ta là cha mẹ. Canh là Kim, Thổ sinh Kim, bởi vậy, cha mẹ của Kim chính là Thổ, nếu trong ba trụ còn lại xuất hiện ngũ hành thuộc Thổ, như Mậu Thổ hoặc Kỷ Thổ, chữ đó sẽ tượng trưng cho người mẹ.
Ta sinh ra là con cái. Canh là Kim, Kim sinh Thủy, cho nên, con cái của Kim chính là Thủy, nếu trong ba trụ còn lại xuất hiện ngũ hành thuộc Thủy, như Nhâm Thủy hoặc Quý Thủy, chữ đó sẽ tượng trưng cho con cái.
Ta khắc là Thê tài3. Canh là Kim, Kim khắc Mộc, cho nên Mộc là thê tài của Kim, nếu trong ba trụ khác xuất hiện ngũ hành thuộc Mộc, như Giáp Mộc hoặc Ất Mộc, vậy thì chữ đó tượng trưng cho vợ. Đương nhiên, người xưa có năm thê bảy thiếp, nên chia thành Chính tài và Thiên tài, nhưng trong chế độ xã hội ngày nay, thực chất cũng không thay đổi, nếu trong bát tự của một người đàn ông Tài tinh quá nhiều cho thấy anh ta dễ có tình nhân.
Khắc ta là Quan sát4. Canh thuộc Kim, Hoả khắc Kim, Hoả chính là Quan sát của Kim, nếu trong ba trụ khác xuất hiện ngũ hành thuộc Hoả, như Bính Hoả hoặc Đinh Hoả, vậy chữ đó tượng trưng cho cấp trên. Đối với nữ giới, vì địa vị xã hội thấp kém, bị nam giới khắc chế, nên quan sát trong bát tự của nữ giới chính là chồng, phụ nữ thời xưa vì thế gọi chồng là “quan nhân”.
Ngoài bốn mối quan hệ sinh ta, ta sinh, ta khắc, khắc ta này ra, còn có tình trạng không sinh không khắc, đó chính là Tỷ kiếp. Canh là Kim, nếu trong ba trụ khác xuất hiện ngũ hành thuộc Kim, như Canh Kim hoặc Tân Kim, vậy thì những chữ này được gọi là Tỷ kiếp, tượng trưng cho anh em trai và chị em gái.
Đoán Bát tự, đầu tiên là phải phân tích sự mạnh yếu của nhật can, rồi mới xem đến mối quan hệ sinh khắc của nhật can với can chi khác, sau đó kết hợp với Đại vận và Lưu niên để suy đoán cát hung.
Tổ Gia đã phái Hoàng Pháp Dung đi điều tra nội tình bên phía Trịnh Bán Tiên. Lão này tuổi đã ngoài ngũ tuần, dáng người không cao, hơi gày gò, râu dài, dáng vẻ quắc thước, tạo cho người ta cảm giác ông ta thật sự mang dáng vẻ của thần tiên. Người này chiếm cứ ở Giao Đông nhiều năm, bản lĩnh xem Bát tự khá cứng. Tổ Gia sợ nhất là loại người này, có bản lĩnh thật sự mà lại đi lừa đảo, khác gì như hổ thêm cánh. Phường lừa đảo đầu óc ngu dốt không đáng sợ, loại có thể vượt nóc băng tường mới đáng sợ, Tổ Gia thề sẽ bắt Trịnh Bán Tiên hiện nguyên hình.
Sau khi Trịnh Bán Tiên yên vị, dưới khán đài, người đầu tiên vọt lên hỏi: “Trịnh sư gia nghiên cứu Bát tự đã nhiều năm, có thể nói cho tại hạ hay, rốt cuộc mệnh quan trọng hay vận quan trọng? Nguyên lý nằm ở đâu?”
Mọi người cùng nhìn về phía người phát ra câu hỏi ấy, đó là một phụ nữ dáng vẻ xuất chúng, thoát tục, cặp mắt to, sáng ngời – không ai khác ngoài “quỷ muội” Hoàng Pháp Dung. Việc này Tổ Gia đã dàn xếp.
Trịnh Bán Tiên gật đầu, điềm đạm nói: “Vận mệnh thực ra là hai từ, một là mệnh, một vận. Mệnh chính là Bát tự, sinh ra sẽ không thể đổi khác được cho đến tận lúc chết; còn vận, cứ mười năm lại thay đổi một lần, bởi vậy mới có câu ’thập niên nhất Đại vận’, đời người tất cả có bát bộ Đại vận (tám Đại vận). Trong hai chữ vận mệnh, lão hủ cho rằng, mệnh là căn bản, là gốc rễ, vận là phụ trợ, là phần ngọn. Mệnh được tạo ra từ tiên thiên (bẩm sinh), thuộc về số trời, không thể thay đổi, còn vận là khí hậu thiên sau này, có thể dùng các phương pháp phong thủy, bùa chú để điều chỉnh. Tiên Ẩn Môn của tôi sừng sững ở Giao Đông 50 năm chưa từng bị quật đổ, đều nhờ vào sự ứng nghiệm trong việc hoá giải tai ương hậu thiên cho bách tính…” Lúc này, Trịnh Bán Tiên vẫn không quên quảng cáo về mình.
“Trịnh sư gia nói sai rồi!” Tổ Gia đứng dậy lớn tiếng: “Mệnh thư viết: Hữu bệnh phương vi quý, vô thương bất thị kỳ. Phần lớn những nhân vật làm mưa làm gió, trong mệnh đều mang bệnh. Trong Bát tự, hoặc Thương quan quá vượng, hoặc Ấn tinh suy nhược, hoặc Quan sát hợp thân, lúc còn nhỏ đa nạn đa tai, rơi vào cảnh ngộ nguy hiểm, một khi Đại vận đến, được vận thế tương trợ, vực dậy như cơn lốc, vận mệnh của người này sẽ có sự biến đổi hoàn toàn. Xa xôi thì có Chu Nguyên Chương, mới gần đây có Hồ Tuyết Nham, bọn họ đều là những minh chứng sống.”
Trịnh Bán Tiên sững người: “Khà khà, thì ra Tổ Gia của phái Giang Tướng. Thất kính! Thất kính! Vậy ý Tổ Gia là đại vận còn quan trọng hơn cả Bát tự? Mệnh của một người như một cái cây, Bát tự là gốc rễ, là căn bản, rễ ăn sâu cành lá mới xum xuê, những người nghèo trước giàu sau, cho dù phất lên như diều gặp gió, cũng bởi nhờ trong mệnh có sự báo hiệu giàu có, chẳng qua đến đại vận mới diễn ra.”
Tổ Gia cười khà khà, nói: “Nếu giàu nghèo hay phú quý đều được ghi hết trong Bát tự, vậy thì phương pháp cải mệnh hậu thiên của Trịnh sư gia là căn cứ vào đâu?”
Trịnh Bán Tiên vừa nghe xong thì thấy như thể mình bị dây quấn cổ, vội vàng nói: “Phương pháp giải nạn hậu thiên đã có từ xưa rồi, lẽ nào Tổ Gia lại chê cười các bậc tiên thánh thời xưa hay sao?”
Tổ Gia nói chắc nịch: “Dịch sinh ra từ thuật bốc phệ, bất kể là Bát tự, lục hào hay các thuật số khác, vạn pháp cũng không tách rời khỏi quy luật biện chứng âm dương. Mối quan hệ giữa mệnh và vận, chính là mối quan hệ giữa trứng gà và gà con, không có trứng gà thì không không bao giờ ấp được thành gà con, nhưng nếu không có nhiệt độ thích hợp, trứng gà sẽ bị ung hỏng, cũng không thể thành gà con được. Mệnh và vận, trong âm có dương, trong dương có âm, âm dương cùng biến đổi trong nhau, tạo hoá đã như vậy. Không phải các bậc tiên thánh thời xưa sai, chỉ là Trịnh tiên sinh giải thích hơi sai lệch!”
“Ông…” Trịnh Bán Tiên mặt mũi đỏ bừng lên.
Tổ Gia thuận đà xông lên, nói tiếp: “Trịnh sư gia nghiên cứu, học tập Bát tự đã lâu, đã từng xem cho mình chưa? Chắc Trịnh sư gia không giống như Lưu sư gia, chỉ được sư phụ xem cho lúc nhỏ chứ? Bát tự khác với Cốt tướng, có thể thường ngày đem ra xem chơi để giải khuây.”
“Nếu đã xem rồi, tôi nghe nói, cảnh giới dự đoán cao nhất theo Bát tự là có thể xác định được cát hung theo từng ngày, Trịnh sư gia thấy hôm nay có thể giành được danh hiệu quán quân, hay giữa đường ngã ngựa vậy?” Tổ Gia tiếp tục vặn hỏi.
Trịnh Bán Tiên không hổ là kẻ lọc lõi, già đời, ông ta lấy lại bình tĩnh, cười khanh khách: “Tổ Gia sai rồi! Cảnh giới dự đoán cao nhất theo Bát tự không phải là xác định cát hung cho mình, mà là có thể nhìn thấy được thành bại của đối thủ thông qua Bát tự của mình. Tối qua tôi đã xem Bát tự cho mình, đoán biết được rằng, hôm nay phàm kẻ nào xích mích với mình, tất sẽ bại! Nhưng tôi không nghĩ người đó lại là Tổ Gia. Khà khà!”
Trịnh Bán Tiên bật lại cũng không tồi, Tổ Gia bị đâm một nhát khá nhức.
Tây Điền Mỹ Tử cũng nhìn ông, thầm nghĩ Tổ Gia lần này bước hẫng chân rồi.
Tổ Gia mỉm cười, sau đó tung ra vũ khí giết người: “Hay là thế này, Trịnh sư gia dùng thuật dự đoán Bát tự của mình, tôi dùng Thiết Bản thần toán của tôi, chúng ta so tài ngay tại đây, ông thấy thế nào?”
Đám người ngồi bên dưới rộ lên xì xào. Đại sư và Đại sư cùng “xướng ca” trên sân là điều cấm kỵ, hai kẻ mạnh gặp nhau tất sẽ cùng mang thương tật, trong giang hồ hiếm khi có người giơ quân bài đó ra, trừ phi đó là kẻ tử thù của mình, vì không ai chịu thua.
Trịnh Bán Tiên bị dồn đến chân tường, trợn trừng mắt gật đầu: “Đọ thế nào?”
“Chúng ta cùng nói Bát tự của mình, sau đó cùng chỉ ra việc riêng tư của đối phương.”
Mọi người dưới khán đài càng kinh ngạc hơn.
“Làm sao tôi biết Tổ Gia có nói dối hay không chứ?” Trịnh Bán Tiên nhếch mép cười.
“Khà khà, người quân tử thẳng thắn phóng khoáng, kẻ tiểu nhân mới lo lắng quanh co. Tôi còn không sợ Trịnh sư gia nói dối, ông sợ cái gì chứ?”
Bầu không khí căng thẳng hẳn lên.
“Được!” Trịnh Bán Tiên đã không còn đường lui.
Hai người liền trao đổi Bát tự cho nhau, thật giả thế nào chẳng ai biết. Kỳ thực, lúc này thật hay giả chẳng quan trọng, hai vị Đại sư đấu nhau chính là đấu trí.
Ngay sau đó, Tổ Gia tỏ ra khiêm nhường: “Mời Trịnh sư gia trước?”
“Mời Tổ Gia trước!” Trịnh Bán Tiên khôn ngoan thừa biết, khi đấu kiểu này, kẻ xuất chiêu trước thường để lộ sơ hở.
Tổ Gia mỉm cười: “Được. Nhưng… có điều, tôi sợ tôi nói xong rồi, Trịnh sư gia sẽ không còn cơ hội mở miệng.”
“Chà chà chà, từ lâu đã nghe nói Anh diệu của phái Giang Tướng cao siêu, nay gặp được, quả là danh bất hư truyền. Nhưng hôm nay chúng ta đấu nhau là đấu bản lĩnh thật sự kìa, chỉ dựa vào Anh diệu e không xong!”
“Khà khà! Trịnh sư gia nói rất phải, tôi đã nghe rõ rồi! Nếu Bát tự của Trịnh sư gia đưa cho tôi là đúng, vậy thì ông lúc năm tuổi khắc mẫu thân, năm đó mẫu thân qua đời!”
“Chà chà, cực kỳ đúng!” Trịnh Bán Tiên cười. “Nếu ngày sinh của Tổ Gia là đúng, năm mười lăm tuổi khắc lục thân, khiến năm đó cha mẹ, tổ mẫu, huynh đệ tỷ muội chết cả!”
Miệng lưỡi của Trịnh Bán Tiên quá độc địa, lão ta muốn gợi chuyện đau lòng hòng làm rối loạn tâm tư Tổ Gia.
Tổ Gia gật đầu: “Những việc này của tôi và ông, các huynh đệ đồng đạo ai cũng biết. Tôi nói ra một chuyện lớn mà không một ai biết, ông thấy được không?”
Trịnh Bán Tiên sững người: “Xin mời!” Trong lòng ông ta biết rõ, nếu đã là chuyện mọi người đều không biết, cho dù ông nói đúng hay sai, tôi chỉ việc nói “không đúng” là được.
Ông ta không ngờ được Tổ Gia lại nói: “Bát tự và tướng mặt của một người tương thông với nhau, Bát tự đại phú đại quý thì tướng mặt và dáng vẻ tất sẽ biểu lộ tướng phú quý, tương tự như vậy, người có dáng dấp hèn mọn, thân thể khuyết tật thì trong Bát tự cũng có những biểu hiện tương ứng. Trong Bát tự của Trịnh sư gia hai Dần khắc chế Tý Thủy và Hợi Thủy, lại biểu hiện ra trên người, chính là…”
“Là cái gì?” Trịnh Bán Tiên vội hỏi.
“Chính là tình trạng thân thể bị ẩn cao!”
“Ồ!” Tiếng xì xào vang lên dưới khán đài.
Ẩn cao là một thuật ngữ y học, chỉ tình trạng một người đàn ông bẩm sinh không có tinh hoàn trong âm nang, đối với một người đàn ông mà nói, đây chính là một đòn chí mạng.
“Ông?!” Mặt Trịnh Bán Tiên méo xệch đi.
“Có cần phải kiểm chứng tại chỗ không?” Tổ Gia truy đến cùng.
Có nằm mơ Trịnh Bán Tiên cũng không thể nào ngờ được rằng Tổ Gia lại kết hợp Bát tự và tướng học với nhau, chém thẳng vào điểm yếu thuộc về sinh lý của mình. Chuyện ẩn cao là chuyện tuyệt mật của ông ta, không một ai được biết. Ông ta nghi hoặc, không biết Tổ Gia đoán ra được thật, hay dùng cách gì khác mà biết được?
Bầu không khí trở nên ngượng ngập đến cực điểm, tiếp theo Trịnh Bán Tiên liệu có tụt quần ra không?
Lúc này, Tổ Gia quay mũi nhọn đi chỗ khác: “Ha ha, vừa rồi tôi chỉ đùa Trịnh sư gia thôi, mong Trịnh sư gia không trách, mong các vị không trách!” Nói xong, ông chắp tay xin lỗi Trịnh Bán Tiên.
Lúc này, Trịnh Bán Tiên mới nhếch được cái mép lên, cười gượng, vội vàng đáp lễ: “Tổ Gia thật hài hước!”
“Chúng ta tiếp tục chứ?” Tổ Gia hỏi.
“Kìa… Tổ Gia tài nghệ cao thâm, tuyệt đối không thấp hơn bỉ nhân, bỉ nhân đã già nua, xin nhường lại cho lớp người trẻ tuổi!”
Hoàng Pháp Dung đứng lên, vỗ tay đầu tiên, mọi người còn đang ngơ ngác, cũng vỗ tay theo.
Trịnh Bán Tiên xem như vẫn giữ được thể diện mà rút lui.
Tây Điền Mỹ Tử và các vị đại sư Nhật Bản ngồi dưới khán đài đều trố mắt không nói được gì, chỉ thầm nghĩ trong lòng: Tên Tổ Gia này thật không đơn giản!
Bảy người được đề cử còn lại cũng phải kinh hồn bạt vía, tên Tổ Gia này chơi thứ ma thuật gì, mà lại lợi hại đến thế?!
BÓI LỤC HÀO
Tiếp theo, đến lượt Nhược Lan Sư thái ở Phúc Kiến. Bà già ngoài 60 này rất giỏi thuật giữ gìn nhan sắc, dù đã lớn tuổi nhưng da dẻ trắng ngần, khi bước lên bục diễn thuyết, bà ta mang theo cả hương thơm phảng phất, êm dịu.
Sở trường của Nhược Lan sư thái là bói lục hào.
Dự đoán lục hào là dùng ba đồng tiền đồng giống nhau, như đồng Càn Long Thông Bảo, để trong lòng bàn tay, hai tay khép lại, thành tâm nhẩm đọc việc đang muốn hỏi, lắc lắc, tung xuống bàn, sau khi chúng nằm yên trên mặt bàn, nhìn xem mấy đồng mặt khắc chữ ngửa lên, mấy đồng mặt khắc hoa văn ngửa lên. Mỗi một lần tung được ghi là một hào, lặp lại sáu lần, sẽ được sáu hào (lục hào).
Việc tung xóc như vậy sẽ cho ra bốn kết quả: ba đồng đều có hình hoa văn; ba đồng đều là mặt chữ; hoặc một mặt hoa văn, hai mặt chữ; hoặc một mặt chữ, hai mặt hoa văn.
Cứ ba mặt đều là hoa văn hoặc một hoa văn hai chữ thì dùng nét ngang liền biểu diễn: “–”; còn cứ ba mặt đều là mặt chữ hoặc một chữ hai hoa văn, thì dùng nét ngang đứt biểu diễn: “– –”.
Giả sử, sau sáu lần, lần lượt như sau: ba hoa, ba chữ, một hoa hai chữ, một chữ hai hoa, ba chữ, ba hoa. Như vậy, quẻ này được ghi thành:
Hào 6: ―
Hào 5: – –
Hào 4: – –
Hào 3: ―
Hào 2: – –
Hào 1: ―
Lục hào được sắp xếp từ dưới lên trên, thấp nhất là hào 1, trên cùng là hào 6, cho nên mới có câu: Số vãng giả thuận, tri lai giả nghịch5. Bói Lục hào căn cứ vào quẻ tượng xóc được, phối hợp với các yếu tố của can chi ngũ hành để luận đoán.
Nghe nói, Hoàng đế khai quốc triều Minh Chu Nguyên Chương cũng từng gieo đồng xu. Khi còn làm hoà thượng trong chùa, Chu Trọng Bát thấy tiền đồ của mình quá mịt mờ, vì thế liền tìm ba đồng xu thử bói. Ông ta nắm đồng xu trong lòng bàn tay, thầm khấn: Ông trời ơi, xin hãy chỉ dẫn cho con một lối đi, nếu là mặt chữ, con sẽ ở lại chùa làm hoà thượng, nếu là mặt hoa văn, con sẽ đi nương nhờ người ta. Kết quả ông trời lại trêu ngươi Chu Nguyên Chương, sau khi tung lên, đồng xu lăn qua lăn lại, cuối cùng bị kẹp thẳng đứng trong một cái khe, không phải mặt chữ, cũng chẳng phải mặt hoa văn. Chu Nguyên Chương thần người ra. Vậy là sao đây? Vừa không cho con đi nương nhờ kẻ khác, cũng không cho con làm hoà thượng, lẽ nào bảo con phải tự mình làm? Thế rồi lão Chu làm một mình thật, cuối cùng thống nhất giang sơn.
Sau khi Nhược Lan Sư thái yên vị, bà cầm cây phất trần trong tay, nói: “Các vị Đại sư, xin mời chỉ giáo!” Trông dáng vẻ thong thả tự nhiên, tràn đầy khí khái.
Một người chừng 40 tuổi, mái tóc búi gọn phía sau, dáng vẻ lễ độ ôn tồn dưới khán đài đứng lên, đó chính là bà đồng cốt Cái Hà ở An Huy, vợ Mai Huyền Tử.
“Từ lâu đã nghe kỹ pháp lục hào của Nhược Lan Sư thái cao thâm, không biết thuật bói lục hào cao minh đến chừng nào?”
Nhược Lan Sư thái nhìn Cái Phi Tiên, thầm nghĩ: Ngươi chỉ là hạng sinh sau đẻ muộn, lại đòi bắt bẻ ta ư?
“Lục hào pháp bắt nguồn từ Đại diễn Phệ pháp, vô cực đến thái cực, thái cực sinh lưỡng nghi, lưỡng nghi sinh tứ tượng, tứ tượng sinh bát quái, bát quái tương thố (tám quẻ giao nhau), tạo thành 64 quẻ. Pháp Lục hào kế thừa số của Thiên địa Đại diễn, bao trùm các đạo trong trời đất, trên có thể đoán biết việc đại sự của bậc quân vương, dưới có thể bói ra những chuyện nhỏ nhặt của muôn dân, vạn vật trong trời đất, không có thứ gì nằm ngoài khuôn khổ của nó.” Nhược Lan Sư thái nói xong, điềm tĩnh nhìn Cái Hà.
“Có thể đoán biết được sự sống chết của con người không?” Cái Hà hỏi.
“Đương nhiên! Vạn lần chẳng sai một!” Nhược Lan Sư thái quả quyết.
Cái Hà cười rất khó hiểu: “Pháp Lục hào bắt nguồn từ thời nhà Chu, hoàn thiện vào thời Hán, người đã hoàn thiện nó và làm cho nó phát triển rạng rỡ chính là lão tiền bối Kinh Phòng thời Hán, phải vậy không?”
“Đúng thế.” Nhược Lan Sư thái đáp.
“Thầy Kinh Phòng thông minh tuyệt đỉnh, phát huy pháp lục hào, phát triển lên đến đỉnh điểm, đoán đâu trúng đó, rất được hoàng đế yêu thích, nhưng vị sư tổ lục hào lại không thể đoán biết được sự sống chết của mình, cuối cùng bị hoàng đế giết chết, không biết vấn đề là tại pháp lục hào hay bởi thầy Kinh Phòng trình độ có hạn? Một điều nữa, xin hỏi trình độ của Nhược Lan Sư thái so với thầy Kinh Phòng thế nào?” Mấy câu hỏi của Cái Hà nhằm tuyệt đường lui của Nhược Lan sư thái.
Đây đều là đối sách đã được Tổ Gia và Mai Huyền Tử bàn bạc với nhau.
Nhược Lan Sư thái quả đúng là mụ già quỷ quyệt, bà ta khinh khỉnh cười, rồi đáp: “Chuyện về thầy Kinh Phòng phần lớn chỉ do người đời sau kể thành chuyện cười, kỹ pháp chẳng có liên quan gì đến việc sống chết, có nhiều việc cho dù tính ra cũng khó lòng trốn thoát được, hễ cứ gặp phải tai ương đều né được, vậy thì con người sống mãi không chết sao?”
Cái Hà mỉm cười gật đầu, nói: “Nếu các vị tiên thánh đã tiên đoán được ra, nhưng lại không thể trốn tránh được, vậy căn cứ vào đâu để nói pháp lục hào của Sư thái dùng để hóa giải tai ương cho người ta? Sư thái được tiếng đã giải được vô số tai ương từ nhiều năm nay, có thể lấy một ví dụ đã làm được gần đây không? Cũng là để tôi được vui lòng bái phục!”
Nhược Lan Sư thái cười lớn, nói: “Thánh nhân soạn dịch, chính là để đón cát tránh hung, nếu không thể giải được tai ương thì dùng để làm gì đây? Có những tai ương không thể giải được, nhưng phần lớn đều có thể hoá giải được! Nếu các hạ đã muốn nghe, ta xin kể về một trường hợp mới gần đây vậy. Vài tháng trước, vì tình hình buôn bán ảm đạm, thương nhân buôn trà nổi tiếng vùng Mân Nam (miền nam Phúc Kiến) tên Uông Văn Khanh đã đến xin gieo quẻ, ta đã dùng pháp lục hào giải hạn cho ông ta, giúp ông ta vượt qua được cửa ải khó khăn một cách suôn sẻ, Uông tiên sinh đã đích thân đề biển, tỏ lòng cảm tạ, việc này làm chấn động khắp vùng Bát Mân (tên khác của Phúc Kiến), các hạ cứ việc đi điều tra làm rõ!”
Cái Hà mỉm cười: “Quả đúng là có chuyện này, nhưng không biết một lần Sư thái giải hạn, thì được bao năm?”
Nhược Lan Sư thái nói: “Thái cực chi pháp, kỳ đại vô ngoại, kỳ tiểu vô nội6, một quẻ có thể nhìn thấu cả đời, vừa có thể xem được những chuyện lớn bé trong một năm, Uông tiên sinh muốn xem quẻ mười năm, ta đã giải hạn trong vòng mười năm cho ông ấy.”
Cái Hà bật cười: “Chà chà, Sư thái khoác lác quá rồi! Nếu không phải pháp lục hào có vấn đề, thì chắc kỹ pháp của Sư thái có vấn đề rồi. Hôm qua, một hiệu buôn trà của một thương nhân Phúc Kiến bị cháy, hàng nghìn cân trà bốc cháy như bó đuốc khổng lồ vậy, Hộ báo (báo Thượng Hải) đưa tin, hiệu trà này của thương nhân Uông Văn Khanh nổi tiếng khắp vùng Mân Nam đấy!”
Nhược Lan Sư thái mặt mày biến sắc, tin này quả thực bà ta không hề hay biết, vì lần này đến tham gia hội thi hùng biện ở Thượng Hải, người Nhật yêu cầu phải bảo mật nghiêm ngặt, các vị Đại sư ở khắp nơi một khi vào khu Nhật chiếm đóng không được phép đi lại lung tung, càng không được trao đổi thông tin với bên ngoài.
Nhược Lan sư thái nổi giận: “Nói xằng bậy!”
Cái Hà thong thả nói: “Vừa rồi, trước khi vào hội trường, tôi thấy mấy anh lính Hoàng quân7 đọc báo, bèn mượn một tờ…” Nói xong liền nhặt tờ báo trên mặt bàn giơ lên. “Sư thái tự xem đi!”
Chính Tổ Gia và Giang Phi Yến cùng dàn cục này mấy tráng trước. Sau khi từ sở Cung giáo của Nhật Bản trở về Thượng Hải, Tổ Gia đã trò chuyện thâu đêm với Giang Phi Yến, kể hết toàn bộ sự việc cho bà nghe. Giang Phi Yến thầm khóc suốt đêm, bà không thể ngăn cản được Tổ Gia, cũng không thể thuyết phục được ông cùng mình cao chạy xa bay, cuối cùng, bà đồng ý giúp Tổ Gia. Việt Hải Đường và Thái Cực Bang xưa nay vẫn qua lại thân thiết với nhau, Tổ Gia đã nhờ Giang Phi Yến kể rõ hoạt động gần đây nhất của Nhược Lan Sư thái, đến giờ phút quyết định, Tổ Gia sai Nhị Bá đầu phóng hoả, hòng đánh gục Nhược Lan Sư thái.
Nhược Lan Sư thái thẹn đỏ mặt, thẹn quá hoá giận, bà ta chỉ vào mặt Cái Hà quát tháo: “Chắc chắn do các ngươi ngầm giở trò!”
Lúc này, Tây Điền Mỹ Tử lên tiếng: “Nhược Lan Sư thái hà tất phải như vậy, tiêu chí của cuộc thi hùng biện hôm nay giao lưu là chính, chuyện thắng bại chỉ phụ thôi. Người Trung Quốc thường nói dĩ hoà vi quý, phải thế không?!”
Nhược Lan sư thái vung cây phất trần, đi xuống khỏi bục diễn thuyết, hậm hực ngồi xuống.
TRUYỀN NHÂN PHONG THỦY TAM HOÀNG
Người thứ tư lên bục diễn thuyết là một trong năm vị Ngũ hổ Trung Nguyên – Đồng Hoài Tú, truyền nhân phái Phong thủy Tam Hoàng.
Phong thủy nghĩa là gió và nước. Khi xây dựng nhà cửa, nơi người ta lựa chọn đầu tiên chắc chắn là một nơi vừa có thể tránh gió, lại vừa gần nguồn nước, cho nên mới có câu: Trạch địa nhi cư, cận thủy hướng dương8. Tránh gió để đề phòng bị gió thổi lật nhà; gần nguồn nước ít nhất không bị chết khát, chưa kể trong đó có cá tôm, ắt không bị chết đói. Cho nên, cái nôi của nền văn minh nhân loại phàm đều là nơi có sông nước, như nơi khởi nguồn của nền văn hoá Hoa Hạ là ở lưu vực sông Hoàng Hà, cái nôi của nền văn minh Ai Cập cổ đại là ở lưu vực sông Nile, nền văn hoá Babylon bắt nguồn từ lưu vực sông Lưỡng Hà… Trên thế giới, không một nền văn minh nào lại bắt rễ ở vùng sa mạc, bởi nơi đó không thể cung cấp cho con người điều kiện đảm bảo sinh tồn, theo mệnh lý học thì nơi đó phong thủy kém.
Hàm nghĩa phong thủy chỉ đơn giản như vậy.
Cùng với sự thúc đẩy của tiến trình phát triển văn minh nhân loại, các yếu tố ngũ hành bắt đầu gia nhập vào, nội dung của thuật phong thủy phong phú lên, từ những yêu cầu sinh tồn đơn giản, dần dần còn phải cân nhắc đến các vấn đề như: hướng đi của thế núi, triều hướng kiến trúc, cây cối xung quanh nhiều hay ít, địa thế cao hay thấp, hướng dòng chảy ở xung quanh… Về sau, con người còn bắt đầu quan tâm đến các yếu tố phong thủy phần mộ, vì thế mới xuất hiện các mô thức thiết kế phong thủy cho người chết như: chọn hướng mộ, thiết kế quan tài, sự phối hợp giữa các đồ vật xung quanh phần mộ… Bởi vậy, phong thủy được chia thành hai loại: phong thủy dương trạch và phong thủy âm trạch. Dương trạch chính là chỉ nơi ở của người còn sống, bao gồm: nhà ở, nơi làm việc…; còn âm trạch chính là nơi mộ phần của người chết. Học thuyết phong thủy được thật sự hệ thống hoá vào thời tiên Tần, hình thành vào thời nhà Hán. Đến thời nhà Đường, thuật phong thủy đạt đến đỉnh cao. Tên tuổi tiêu biểu có Viên Thiên Cương và học trò của ông là Lý Thuần Phong. Có nhiều truyền thuyết về hai vị đại sư này, nhưng chuyện kinh điển nhất cần phải kể đến là việc hai thầy trò họ chọn mộ phần cho Võ Tắc Thiên.
Tương truyền, khi Võ Tắc Thiên vừa mới chào đời, Viên Thiên Cương đã nhìn ra được khí thiên tử trong người đứa bé này. Về sau, khi Võ Tắc Thiên xưng đế, bà ta vô cùng xem trọng Viên Thiên Cương. Khi về già, bà ta rất để tâm đến chuyện hậu sự của mình, yêu cầu phải được an táng ở nơi có phong thủy tốt nhất và an toàn nhất. Chuyện này đã khiến bà ta hao tâm tổn trí rất nhiều.
Một hôm, Võ Tắc Thiên cho gọi Viên Thiên Cương và Lý Thuần Phong đến, sai họ tìm cho mình nơi có phong thủy tốt nhất để xây cất lăng mộ. Để đề phòng Viên Thiên Cương và Lý Thuần Phong giở trò dối trá lừa mình, Võ Tắc Thiên đã cho họ tiến hành công việc độc lập, Lý Tuần Phong đi tìm trước, Viên Thiên Cương bị giữ lại trong cung; đợi sau khi Lý Thuần Phong quay về, Viên Thiên Cương mới được đi tìm; đợi khi Viên Thiên Cương quay lại, Võ Tắc Thiên phái người đi xem xét nơi hai người họ nói.
Kết quả, Lý Thuần Phong đi đúng bảy bảy bốn chín ngày, đi khắp trăm núi nghìn sông, cuối cùng tìm được một mảnh đất báu, liền chôn một đồng xu tại vị trí trung tâm bảo địa đánh dấu, để sau này dễ tìm.
Sau đó, Viên Thiên Cương xuất phát, cũng đi mất bảy bảy bốn chín ngày, cuối cùng tìm được một bảo địa, sợ sau này khó tìm, liền rút trâm bạc trên đầu cắm vào vị trí trung tâm.
Đến khi, Võ Tắc Thiên phái hai tốp người riêng rẽ đi tìm địa điểm theo lời hai người miêu tả, cuối cùng bọn họ gặp nhau và kinh ngạc phát hiện ra rằng: trâm bạc của Viên Thiên Cương cắm đúng vào lỗ đồng xu của Lý Thuần Phong.
Đây chính là truyền thuyết khiến cho người đời sau phải kinh ngạc hác hốc miệng, Viên Thiên Cương và Lý Thuần Phong gần như được đẩy lên bảo tọa của các bậc thần tiên.
Sau khi Đồng Hoài Tú vào chỗ, ông ta khom người cười nói: “Các vị, xin chỉ giáo!”
Một trong năm vị Ngũ hổ Trung Nguyên, Tổ Gia chỉ được nghe qua, hôm nay mới được gặp mặt, người này chưa đến ba mươi, mặt đen sì, dáng người tầm thước, giọng nói nặng trịch đậm chất giọng của người Hà Bắc, một nam tử hán Trung Nguyên điển hình.
Một người ngồi ở phía dưới đứng lên, nói: “Từ lâu đã nghe nói, tổ tiên ba đời của Đồng sư gia đều là truyền nhân phái Phong thủy Tam Hoàng, Đồng sư gia thấy Phong thủy Tam Hoàng và Phong thủy Dương Công thế nào?”
Mọi người đưa mắt nhìn về phía người nói, đó chính là Dương Tịnh Sa, truyền nhân phái Phong thủy Dương Công ở Sơn Đông.
Đồng Hoài Tú gật đầu, nói: “Phong thủy Dương Công thuộc trường phái phong thủy hình thế, nói về năm yếu tố “long, sa, thủy, hướng, huyệt”, thường đề cao phong thủy hình thế, không vận dụng đủ khí vận của ngũ hành, còn Phong thủy Tam Hoàng bao hàm cả ngũ hành bát quái, thiên thời cửu tinh, địa bàn cửu tinh, xem xét cả một hệ thống nhiều yếu tố của thiên thời địa lợi…”
“Khà khà!” Đồng Hoài Tú còn chưa nói hết, Dương Tịnh Sa liền nhảy vào chẹn họng: “Có thể bật ra những lời này, chứng tỏ Đồng sư gia nghiên cứu về các trường phái phong thủy còn hơi non. Từ xưa, các trường phái phong thủy ở Hoa Hạ nhiều vô kể, chỉ phái Huyền Không Phi Tinh đã có thể chia thành mấy trăm môn phái lớn nhỏ. Môn phái khác nhau, tuỳ theo góc độ nhìn nhận, trông ngang thành cả dãy núi dài, nhìn nghiêng thành đỉnh núi cao, nhưng trăm sông vẫn đổ về một biển, vạn pháp quy tông, cho dù là môn phái nào đi nữa, chân lý chỉ có một, huống hồ phái Phong thủy Dương Công đã có từ xưa, được liệt vào hàng thứ năm trong sáu môn phái lớn, còn cái thứ không chính thống như Phong thủy Tam Hoàng chưa từng thấy ghi trong chính sử, chuyên trò thuật bịp bợm chốn quê mùa mà thôi.”
Đồng Hoài Tú không hề tỏ ra tức giận, ông ta nói: “Bất luận là pháp thuật chính thống, hay không chính thống, thấy hiệu quả thì lý lẽ mới cứng! Đồng mỗ tung hoành ở Trung Nguyên mười mấy năm, chưa một ai nói tôi xem không chuẩn xác.”
Tổ Gia cười, đứng dậy nói: “Đồng sư gia cho rằng nguyên lý của thuật phong thủy là thế nào?”
Đồng Hoài Tú nhìn Tổ Gia, trong lòng hơi run, mồ hôi túa ra khắp người.
Đồng Hoài Tú ngẫm nghĩ một chút, hỏi vặn lại: “Tổ Gia có cao kiến gì về nguyên lý thuật phong thủy?” Ông ta biết Tổ Gia không phải người nghiên cứu phong thủy, cho nên mới hỏi ngược lại như vậy, đợi Tổ Gia để lộ sơ hở, ông ta sẽ phản công vào lúc thích hợp.
“Tại hạ chỉ nghiên cứu chút ít về Thiết Bản thần số, nói đến phong thủy thì thua xa Đồng sư gia, cho nên đành phải kiêm tốn xin chỉ giáo!” Tổ Gia nói.
Đồng Hoài Tú thấy Tổ Gia không cắn câu, đành phải vặn dây cót mà nói: “Vạn pháp không tách khỏi dịch lý, việc điều chỉnh phong thủy là ở chỗ âm dương ngũ hành phải hài hoà, thông suốt. Ngũ hành tắc, tất vận hạn liên miên; ngũ hành thông thuận, tất đại cát đại lợi!”
Tổ Gia gật đầu nói: “Ừm! Với kinh nghiệm bao nhiêu năm của Đồng s