← Quay lại trang sách

Chương 7 (2) GẬY ÔNG ĐẬP LƯNG ÔNG: THÀNH BÁT QUÁI TINH DIỆU VÔ SONG

THẬT GIẢ TRONG MAI HOA DỊCH SỐ

Người thứ sáu ra sân chính là Đinh Tử Hà của Tử Hà Đường, Mãn Châu.

Đinh Tử Hà dáng người cao ráo, mắt phượng, mũi cao, cặp môi mọng đỏ, răng đều hạt bắp, là hình mẫu người đẹp Đông Bắc điển hình. Tử Hà Đường dưới trướng của bà ta được thành lập sau Chính biến 18 tháng 9, là một đội ngũ mê tín do bọn Hán gian và người Nhật cùng nhau dìu dắt.

Thời của Trương Tác Lâm, các vụ “thảm án Huyết cốc điểu” liên tiếp xảy ra ở ba tỉnh phía Đông, đều do bọn này làm ra. Huyết cốc điểu chính là ngỗng trời chuyên ăn ruột trẻ con, vài người lớn đi làm đồng, thường nhốt bọn trẻ con ở nhà, sau khi về nhà không thấy con mình đâu, liền hô hào người làng đi tìm, cuối cùng đến chỗ ngỗng trời tụ tập thì phát hiện thấy thi thể của con mình, đã bị lũ ngỗng trời mổ rách bụng, ăn rỗng hết ruột. Các “Tiên cô” của Tử Hà Đường mượn cớ tuyên truyền thuyết “đồng tử quy thiên” (đứa bé về trời), nhân cơ hội đó giải hạn vơ tiền.

Tổ Gia căm ghét tận xương tuỷ bọn Tử Hà Đường, từ lâu đã bàn với Tăng Kính Võ xem có thể cử vài sát thủ đi cắt cổ Đinh Tử Hà hay không, ngặt nỗi Đinh Tử Hà hành tung bí hiểm, nhiều thủ hạ đi theo bảo vệ, nhất thời khó mà ra tay. Hôm nay lại gặp mặt ở đây, cơn giận trong người Tổ Gia bốc lên.

“Xin các vị chỉ giáo!” Đinh Tử Hà nói.

“Đinh đại tiên thường nói, có thể nhìn thấy thần tiên giáng trần, thường làm phép tụ hội quần tiên, ứng nghiệm nhiều lần, nay các vị cao minh đều tề tựu đủ cả, Đinh đại tiên hãy gọi tiên về một lần, cho chúng tôi được mở rộng tầm mắt được không? Đinh đại tiên sẽ không nói hôm nay các vị thần tiên đều không có nhà đấy chứ?!” Long Ngọc Phụng vừa bị rớt đài nổ phát pháo đầu tiên.

Đinh Tử Hà cười nhạt: “Việc này có gì khó? Kỳ thực, Cửu Thiên Huyền Nữ và Vương Mẫu nương nương đang ở bên cạnh tôi, nhưng hạng phàm phu tục tử không nhìn thấy được!”

“Dám hỏi Đinh tiên gia, Cửu Thiên Huyền Nữ và Vương Mẫu nương nương đang làm gì bên cạnh bà vậy?”

Đinh Tử Hà nhìn Tổ Gia, nói: “Đương nhiên là bảo vệ ai gia!”

Chưa dứt lời, một chiếc phi tiêu bắn vù ra cực mạnh, nhanh như chớp, thoắt cái làm sổ tung búi tóc trên đầu Đinh Tử Hà, khiến bà ta hồn xiêu phách tán, mặt mày tái nhợt.

“Xem ra, Huyền Nữ và Vương Mẫu không ở bên cạnh bà!” Tổ Gia nhếch miệng cười.

Mấy tên lính bảo vệ người Nhật hò nhau bao vây Tổ Gia, chúng sợ ông lại bắn phi tiêu, giết chết các vị đại sư người Nhật ngồi phía dưới.

Độp! Độp! Độp! Ba tiếng vỗ tay vang lên, Tây Điền Mỹ Tử đứng lên, bắt nhịp mọi người vỗ tay hoan hô Tổ Gia. Mọi người ngơ ngác, sau đó tiếng vỗ tay vang lên như sấm dậy.

Ban chủ khảo người Nhật xua tay, bảo bọn lính kia lui xuống.

Đinh Tử Hà bước xuống bục diễn thuyết, vẻ khiếp đảm vẫn còn nguyên trên mặt.

“Phái Giang Tướng chớ giở thói ngang ngược!” Một người dưới khán đài lên tiếng, mọi người cùng đưa mắt nhìn, thì ra Tưởng Thiên Thừa của Thuận Thiên Giáo ở Mãn Châu. Vốn dĩ, người tiếp theo đến lượt chính là ông ta, nhưng ông ta không nín nhịn được, không đợi nghe tuyên bố, đã tự nhảy lên. Vì Đinh Tử Hà cùng bang phái ở Mãn Châu bị Tổ Gia ở Giang Hoài làm cho bẽ mặt.

“Khà khà!” Tổ Gia điềm tĩnh cười, lòng thầm nghĩ: Chỉ cần dựa vào biểu hiện này của lão, hôm nay lão thua chắc.

Sau khi Tưởng Thiên Thừa trèo lên bục diễn thuyết, chỉ thẳng Tổ Gia: “Tổ Gia có vấn đề gì, cứ việc hỏi!”

Mọi người thấy vậy, cũng chấp nhận bỏ qua cơ hội được đưa câu hỏi, ánh mắt cùng dồn về phía Tổ Gia. Tổ Gia vẫn vững như đồng, chỉ gật đầu, rồi nói: “Thuận Thiên Giáo đã tung hoành khắp ba tỉnh phía Đông mười năm nay, Tưởng sư gia được chân truyền hai cuốn tuyệt học là Mai Hoa dịch số và Hoàng Cực kinh thế của Thiệu Ung, thông hiểu hết cả, đưa dịch số, dịch lý đạt đến cảnh giới cực đỉnh, người trong giang hồ không ai không biết, vãn bối ngưỡng mộ đại danh tiền bối từ lâu, nay mới được gặp mặt, Tưởng sư gia quả đúng là bậc tiên phong đạo cốt13, phong thái hơn người!”

Tưởng Thiên Thừa đã gần 60, cho nên Tổ Gia tự xưng là vãn bối.

Tưởng Thiên Thừa vốn đang tức mình, bị Tổ Gia dùng chiêu long, đột nhiên cảm thấy ngần ngại: “Tổ Gia quá khen rồi, phái Giang Tướng tung hoành trên giang hồ mấy trăm năm, kỹ pháp Trát phi của Mộc Tử Liên thuộc hạng siêu phàm khắp vùng Giang Hoài, lão đây đã như ngọn đèn trước gió, hậu sinh khả uý.”

“Tưởng sư gia đã nghiên cứu, học tập Mai Hoa dịch số nhiều năm, ông thấy nó ứng với người, với việc được bao nhiêu?” Ý Tổ Gia muốn hỏi về độ chính xác của Mai Hoa dịch số.

“Vạn pháp quy tông, đúng hay không không phải ở thuật pháp, mà là ở con người. Chỉ cần nghiên cứu, học tập đến nơi đến chốn, mọi phương thuật đều có thể chiêm bốc thiên địa, tức bói toán mọi việc trong trời đất. Mai Hoa dịch số do đại sư Dịch học đời Tống là Thiệu Ung Tiết soạn ra, sau sự việc “quán mai chiêm14” mới có tên như vậy. Pháp thuật này dùng số lý tiên thiên bát quái, mượn các quẻ tượng là nội quái, ngoại quái, hỗ quái, rồi nạp âm thanh, phương vị, thời gian, động tĩnh, địa lý, thiên thời, người vật, màu sắc, động thực vật vào trong quẻ bói, từ đó có thể chiêm bốc ra vạn vật trong thế gian!”

Sách xưa đã ghi: Thiệu Ung Tiết và bạn bè thường ngồi ngắm hoa mai trong vườn. Một hôm, họ trông thấy hai chú chim sẻ đang chíu chít cãi nhau trên cành mai, đột nhiên, một con chim mổ cho con kia ngã xuống đất. Thiệu Ung Tiết thấy vậy, liền gieo quẻ, sau đó phán: “Chập tối mai nhất định sẽ có một cô gái vào vườn hái hoa mai, người coi vườn tưởng là kẻ trộm mới đuổi bắt, khiến cho cô gái bị ngã từ trên cây xuống, gẫy chân.” Ngày hôm sau quả đúng là đã xảy ra chuyện như vậy, từ đó Mai Hoa dịch số nổi danh trong thiên hạ.

Bỗng Tổ Gia chuyển đề tài, hỏi: “Tại hạ có một câu, không biết có nên nói ra không?”

“Xin mời!” Tưởng Thiên Thừa nói.

“Tại hạ cho rằng Mai Hoa dịch số là ngụy tác!”

Dưới khán đài kinh ngạc ồ lên. Ngụy tác ý nói rằng, đoạn sử liệu kia không có thật, chỉ là do người đời sau bịa đặt ra.

Tưởng Thừa Thiên giận run người: “Mai Hoa dịch số và Hoàng Cực kinh thế là hai tuyệt tác lớn lúc sinh thời của Thiệu Công, Tổ Gia lại dám vọng ngôn nói là giả danh, há chẳng phải chuyện nực cười nhất trên đời hay sao?”

Tổ Gia nói rành mạch: “Thiệu Ung nổi tiếng là bậc đại tài, từ nhỏ đã đọc nhiều sách vở, Tống sử đã ngợi ca ông: ‘Kiên trì, chịu khó, chịu khổ, lạnh không cần sưởi, nóng không cần quạt, ngày đêm mải miết học hỏi suốt mấy năm ròng’; ‘tiếp thu Hà Đồ, Lạc Thư, 64 quẻ tượng của Phục Hy’; ‘trước tác gồm có Hoàng Cực kinh thế, Quán vật nội ngoại thiên, Ngư tiều vấn đáp; thơ có Y xuyên kích nhưỡng’ tập. Người đời sau kế tục người đi trước chép sử, tất sẽ vô cùng cẩn trọng, không dám ăn nói ngông cuồng, đã đưa ra dẫn chứng ví dụ có thể tra cứu được, nhưng trong sử sách đời Tống Thiệu Ung bản truyện lại chỉ kể ra bốn tác phẩm của nhân vật truyền kỳ này là: Hoàng cực kinh thế, Quán vật nội ngoại thiên, Ngư tiều vấn đáp, Y xuyên kích nhưỡng tập. Nếu Mai Hoa dịch số quả đúng như Tưởng sư gia đã nói, là một trong hai tuyệt tác lớn bị thất truyền của Thiệu Ung Tiết, thì làm sao người biên soạn sử thời Tống lại dám bỏ sót. Từ đây có thể thấy, Mai Hoa dịch số đích thị do người đời sau mượn tiếng soạn ra. Bỉ nhân tài hèn học mọn, nhưng không đến nỗi không hiểu biết kinh sử, không biết trong hai chúng ta, rốt cuộc ai mới đang nói chuyện nực cười đây?!”

Tưởng Thiên Thừa vừa định giải thích, Tổ Gia liền nói tiếp: “Vừa rồi, chỉ mới khảo chứng Mai Hoa dịch số là tác phẩm mạo danh căn cứ vào sử sách, bây giờ chúng ta hãy xét về mặt nội dung để xem xem Mai Hoa dịch số có giả mạo hay không. Hầu như cả cuốn Mai Hoa dịch số đều giảng giải về phương pháp bói toán, nhưng lại chẳng hề có một cương lĩnh chung, càng không hề nói đến phương thức và cách thức suy luận, diễn giải cụ thể. Cả một cuốn sách thần kỳ như thế, cuối cùng chỉ dùng một bài thơ mà đòi thay thế phương pháp giải đoán, bài thơ viết rằng:

Nhất vật kỳ lai hữu nhất thân,

nhất thân hoàn hữu nhất Càn Khôn;

Năng tri vạn vật bị vu ngã,

khẳng bá tam tài biệt lập căn;

Thiên hướng nhất trung phân hạo hoa,

nhân vu tâm thượng khởi kinh luân;

Tiên nhân diệc hữu lưỡng ban thoại,

đạo bất hư truyền chỉ tại nhân.

Người tinh tường sẽ phát hiện ra bài thơ này cực kỳ giống với Quán vật ngâm trong Kích nhưỡng tập của Thiệu Ung. Bài vịnh Quán vật ngâm viết rằng:

Nhất vật tòng lai hữu nhất thân,

nhất thân hoàn hữu nhất Càn Khôn;

Năng tri vạn vật bị vu ngã,

khẳng bá tam tài biệt lập căn;

Thiên hướng nhất trung phân thể dụng,

nhân vu tâm thượng khởi kinh luân;

Thiên nhân yên hữu lưỡng ban nghĩa,

đạo bất hư truyền chỉ tại nhân.

Các vị thấy đấy, đây rõ ràng là đã trộm dùng ý niệm và học thuyết của Thiệu Ung, người đời sau tự lập môn hộ. Nếu Tưởng sư gia vẫn cố chấp không chịu tỉnh ra, e rằng sẽ làm trò cười cho thiên hạ!”

Tổ Gia biết Tưởng Thiên Thừa gian xảo, cáo già, nhận giặc làm cha, cho nên không chút nể mặt lão. Không biết do Tưởng Thời Thiên tuổi tác đã già, hay do lời Tổ Gia quá sâu cay mà mặt ông ta cau lại, đỏ bừng lên, thở hổn hển, đệ tử của ông ta vội vàng kêu lên: “Sư phụ tôi bị suyễn, mau mang thuốc đến!”

Tưởng Thiên Thừa được đệ tử nhấc xuống như vậy.

Đây là lần đầu tiên Mai Hoa dịch số bị đem ra chất vấn trong lịch sử Dịch học, lần chất vấn này của Tổ Gia được nói trước mặt hơn hai trăm người, về sau nó được truyền ra giới giang hồ. Mãi cho đến sau khi nhà nước Trung Quốc kiểu mới ra đời, cuối cùng cũng có một học giả chứng minh sự nghi ngờ của Tổ Gia là đúng.

KỲ MÔN ĐỘN GIÁP

Vị thứ tám ra sân là Bùi Cảnh Long của Hoàng Cực Đạo ở Bảo Định. Bùi Cảnh Long mới 20 tuổi, là nhân tài mới xuất hiện trong giới Dịch học Trung Hoa. Khi 15 tuổi, anh ta đã bái một vị nghiên cứu đạo Lão trong Phòng Quản lý Phong tục Sở Tổng đốc Trực Lệ làm thầy, có được một bản sao cuốn Kỳ môn độn giáp giấu ở Cố Cung, về sau ngày đêm nghiền ngẫm, cuối cùng cũng lĩnh hội được cái sâu xa huyền diệu trong đó.

Khi cuộc đại chiến nổ ra ở Trung Nguyên, Uông Tinh Vệ liên kết với các cánh quân quân phiệt đánh Tưởng Giới Thạch, người trong giang hồ đều cho rằng: Mạng của Tưởng Trung Chính thế là xong rồi. Bùi Cảnh Long quan sát bầu trời ban đêm, dùng Kỳ môn mổ xẻ, đưa ra lời dự đoán rằng: “Tất có mãnh sư đến từ hướng Cấn, Càn, Khôn, Chấn, Đoài bị quét sạch.” Về sau, khi chiến sự giữa hai bên đang ở vào thế giằng co, Trương Học Lương ở phía đông đột nhiên điện báo cả nước: ủng hộ Tưởng Giới Thạch, rồi dẫn hai mươi vạn quân ở Đông Bắc xuống phía Nam, giáng một đòn dựng lại cục diện thắng bại của cuộc đại chiến ở Trung Nguyên. Sau khi cuộc chiến kết thúc, Tưởng Giới Thạch và Trương Học Lương còn kết nghĩa anh em. Phía Đông Bắc trong hậu thiên bát quái vừa hay lại nằm đúng Cấn vị, ứng nghiệm với lời dự đoán “Tất có mãnh sư đến từ hướng Cấn”, Bùi Cảnh Long thành danh từ đó.

Tổ Gia cũng đã nghe danh tiếng của kẻ hậu sinh trong giới Dịch học từ lâu, lần này được gặp mặt, thấy Bùi Cảnh Long mặt mũi tuấn tú, tướng mạo bất phàm, ánh mắt cương nghị, phong thái đĩnh đạc, Tổ Gia không thể không công nhận: nhân tài lớn!

Tổ Gia luôn tin rằng, những người tâm thiện ánh mắt sáng ngời, tâm sáng mắt sáng thì thông minh hơn người, cho thấy về học thuật anh ta cũng đạt tốp đầu. Vạn vật đều tương thông, người có thiện tâm không bị ham muốn hưởng thụ vật chất của thế tục che khuất, một lòng chuyên tâm nghiên cứu học vấn, tài năng sẽ đạt đến đỉnh cao. Tổ Gia dùng tướng thuật để xét lòng người, lại dùng nhân tâm đánh giá trình độ, không nén nổi ý muốn thu nạp anh ta.

Tổ Gia và Mai Huyền Tử đã bàn bạc với nhau trước đó rất lâu, trong cuộc hùng biện Dịch học lần này, cần phải chú ý tìm kiếm người chưa đánh mất lương tâm, có lẽ trong số những người cõng trên lưng cái tiếng Hán gian này, cũng có người đang phải nhẫn nhục chịu đựng như tôi và ông, chỉ cần thời cơ chín muồi, ô long sẽ quẫy đuôi, rửa sạch hận thù.

Theo sự sắp xếp của Tổ Gia, Mai Huyền Tử sẽ hỏi vài câu để thử xem chiều sâu của con người này ra sao, vì Mai Huyền Tử cũng nghiên cứu thuật Kỳ môn độn giáp.

Mai Huyền Tử đứng lên hỏi: “Người nghiên cứu thuật Kỳ môn độn giáp đều biết rằng, pháp Kỳ môn huyền diệu vô cùng, đáng tiếc tư liệu tham khảo còn lưu truyền đến ngày nay quá ít ỏi, đặc biệt là phép diễn toán càng ít được đề cập đến. Rất nhiều người sau khi học được cách khởi cục, đều giậm chân tại chỗ bao nhiêu năm, bởi họ chỉ biết bày bàn Kỳ môn chứ không biết phân tích mổ xẻ, đừng nói gì đến phá giải nạn tai. Đối với việc phá giải, trong Yên ba điếu tẩu ca còn lưu lại một câu: Cấp tắc tòng thần, hoãn tòng môn. Không biết Bùi tiên sinh có cao kiến gì đối với câu này?”

Nội dung được coi là tinh hoa của thuật Kỳ môn độn giáp đều đã được cô đọng lại trong bài quyết Yên ba điếu tẩu ca, đây cũng chính là nội dung mà những người nghiên cứu thuật pháp này cần phải lĩnh hội được.

Cấp tắc tòng thần, hoãn tòng môn, câu này nói về cách làm thế nào để có thể tiến hành việc hóa giải dựa vào những thông tin mà bàn cục Kỳ môn độn giáp đã tiết lộ, hay nói một cách dễ hiểu, là làm thế nào để chọn giờ, chọn không gian có lợi, làm những việc có lợi cho mình.

Cấp tắc tòng thần, tức là, trong tình huống gặp phải chuyện gì đó nguy cấp, không cho phép anh có thời gian nghiền ngẫm mọi phương diện trong bàn cục để tìm cách phá giải, sẽ phải làm thế nào? Lúc này, anh chỉ cần hành động theo phương vị của Lục Giáp Trực Phù trong bàn cục hoặc của Cửu Tinh Trực Phù là được, như vậy, anh sẽ có thể trốn thoát, tránh được nạn tai, hoặc có thể phá được vòng vây từ phương vị này.

Hoãn tòng môn, tức, nếu sự việc không gấp, cho phép anh có thời gian suy tính, vậy thì phải suy xét toàn cục, xem cát hung của bát môn, sau đó chọn phương vị, chỉ đạo hành động.

Bùi Cảnh Long cười, nói: “Cấp tắc tòng thần, hoãn tòng môn mặc dù là câu chứa đựng tinh hoa, nhưng gấp hay không gấp lại không hề đưa ra một tiêu chuẩn phán đoán chính xác, điều này hoàn toàn phụ thuộc vào trạng thái tâm lý của người đó đang tốt hay xấu. Có người núi Thái Sơn sắp đổ sập xuống đầu vẫn không hề sợ hãi, có người gió mới chỉ làm lay động ngọn cỏ đã lo trời sập đến nơi, cho nên bỉ nhân cho rằng, gấp hay không gấp, không phải chỉ cân nhắc đến sự việc khi đó, mà càng cần phải cân nhắc để liệu đoán được tình hình cát hung chủ quan và khách quan của bàn cục, kết hợp bản chất và hiện tượng của sự vật, mới có thể phán đoán chính xác, nếu không sẽ hiểu sai pháp thuật của bậc thánh nhân.”

Tổ Gia vừa nghe, vừa mỉm cười gật đầu.

Mai Huyền Tử hỏi tiếp: “Nghe nói Cửu Thiên Huyền Nữ đã ban cho thuật Kỳ môn độn giáp, không biết Bùi tiên sinh có cao kiến gì?”

Đây quả thực là một thắc mắc mang tính lịch sử, cuốn Kỳ môn độn giáp xưa nay vẫn được ca ngợi là thuật số thần kỳ, nhưng rốt cuộc lai lịch của nó như thế nào thì vẫn chưa tìm được bằng chứng lịch sử có thể thuyết phục được người ta.

Theo truyền thuyết, Kỳ môn độn giáp có từ thời Hoàng Đế. Khi Hoàng Đế Hiên Viên đánh nhau với Si Vưu ở Trác Lộc (nay là huyện Trác Lộc, tỉnh Hà Bắc), hai bên khó lòng phân định thắng thua, đột nhiên Si Vưu dùng yêu thuật rải sương mù dày đặc, Hoàng đế và quân của ông bị lạc mất phương hướng rồi bị vây khốn dưới núi. Chính vào lúc Hoàng đế không biết phải làm thế nào, một tiếng sét nổ “đoàng” trên đầu, rồi một chiếc cầu vồng vắt ngang trời, một tiên nữ bước ra, bà tiên ấy chính là Cửu Thiên Tiên Nữ. Bà ban cho Hoàng đế một cuốn sách, Hoàng đế bày binh bố trận theo phương pháp đã được nói trong đó, cuối cùng đánh bại được quân của Si Vưu.

Về sau, cuốn sách được truyền cho Khương Thái công. Khương Thái công mang cuốn sách ra, vừa đọc vừa câu cá, câu mãi cho đến khi 80 tuổi, cuối cùng cũng đợi được vua Văn Vương nhà Chu, từ đó được giao phó trọng trách lớn lao. Khương Thái công đem những thứ học được ra giúp vua Vũ Vương đánh dẹp vua Trụ nhà Ân.

Kế đó, cuốn sách này lại được truyền cho Hoàng Thạch Lão Nhân. Một hôm, cụ gặp một người tên Trương Lương ở trên cầu, thấy đứa bé này có tướng mặt rất khá liền thử anh ta. Cụ cố ý ném chiếc giày của mình xuống sông, rồi bảo anh vớt lên cho mình, lúc đó Trương Lương rất bực mình, muốn đánh cho ông lão này một trận, nhưng lại nghĩ ông ấy đã lớn tuổi, việc gì phải nói lý lẽ, liền vớt chiếc giày lên. Nhưng ông cụ lại được nước làm tới, nói thằng nhóc đi giày cho ta, Trương Lương tức đến sắp nổi khùng lên, nhưng trong lòng lại nghĩ mình đã vớt giày giúp ông lão rồi, đi giày cho ông ta thì có sao nào? Thế là lại cung kính đi giày cho ông cụ.

Ông cụ rất hài lòng nói: “Được rồi, được rồi. Con trai, năm ngày sau con hãy tới đây, ta tặng con một món quà nhỏ.”

Hoàng Thạch Lão Nhân tặng cho Trương Lương một cuốn sách có tên Binh pháp Thái công, khi đó, Trương Lương cảm động rơi nước mắt, vội vàng quỳ xuống dập đầu bái lạy thầy. Từ đó, Trương Lương đã dùng cuốn sách này, cùng với những nhân vật có thể hô mưa gọi gió là Hàn Tín và Tiêu Hà giúp Lưu Bang đánh lấy thiên hạ. Sau này, Trương Lương sửa lại cuốn sách, rồi đổi tên thành Kỳ môn độn giáp.

Mãi về sau, cuốn Kỳ môn độn giáp lại được truyền đến tay Gia Cát Lượng. Gia Cát Lượng nhờ đó lập nên công tích vĩ đại “Công át thời Tam Quốc, danh lừng Bát trận đồ”.

Đây chính là nguồn gốc của Kỳ môn độn giáp trong truyền thuyết.

Bùi Cảnh Long gật đầu, đáp: “Ừm, khi Hoàng Đế đánh Si Vưu, đến khi Thái công phò trợ Văn Vương, Vũ Vương xưng đế, tới Trương Lương giúp Lưu Bang thống nhất giang sơn, rồi lại đến Gia Cát Lượng giúp Lưu Bị chia ba thiên hạ. Trong lịch sử, Kỳ môn độn giáp đều xuất hiện vào lúc thiên hạ đại loạn, nó không thể tách rời khỏi chiến sự. Độn giáp chính là ẩn tàng, Giáp đứng đầu mười thiên can, giống như đại tướng trong hàng quân. Binh lính hành quân nghìn dặm, tướng ở giữa, ẩn Giáp tức là bảo vệ Giáp, không để đại tướng bị cung tên sát hại, không để đại tướng bị kẻ khác chặt đầu. Theo mọi dấu vết cho thấy, Kỳ môn độn giáp có nguồn gốc từ những cuộc bài binh bố trận trong quân sự thời xưa. Còn chính xác từ thời đại nào, tạm thời không thể biết được!”

Những người ngồi dưới khán đài thầm gật đầu. Lác đác có vài người hỏi thêm để được nghe lời giảng giải thấu tình đạt lý về vấn đề uyên bác, cao thâm này. Cuối cùng, một tràng vỗ tay giòn giã vang lên. Tổ Gia cũng bất giác vỗ tay khen ngợi.

Bùi Cảnh Long từ từ bước xuống trong ánh mắt khâm phục, ngưỡng mộ của mọi người.

Vị thứ chín lên đài chính là Mai Huyền Tử. Theo sách lược mà ông và Tổ Gia đã bàn bạc trước, tuyệt đối không thể để cho bọn người Nhật phát hiện ra rằng mâu thuẫn giữa hai người đã được hóa giải, cho nên sau khi ông ta bước lên bục diễn thuyết, Tổ Gia đưa ra câu hỏi đầu tiên, hơn nữa còn mang trong đó cả ụ thuốc nổ, hai người đối đầu gay gắt như nước với lửa hòng qua mặt bọn người Nhật.

Người cuối cùng ra sân chính là Tổ Gia, kỳ thực ông đã chẳng cần phải ra sân nữa, thắng bại dường như được phân định từ lâu, nhưng lúc này ông trở thành tấm bia lãnh tên của mọi người. Mấy vị Đại sư ngồi bên dưới chỉ hận không thể cắn chết Tổ Gia, liền bắt đầu hoạnh họe, bắt bẻ đủ kiểu, nhưng Tổ Gia vẫn sừng sững như núi Thái Sơn, điềm tĩnh trả lời từng câu, từng câu một.

Câu hỏi: “Giới thuật số đều cho rằng Thiết Bản thần số là giả tác15, Tổ Gia giải thích sao đây?”

Đáp: “Chính xác thì là ngụy tác16 chứ không phải giả tác! Sư tổ Thiết Bốc Tử đã lĩnh ngộ được đạo pháp này trong Hoàng Cực kinh thế của Thiệu Ung, nhưng không dám kể công, nên đã nhờ tên tuổi của bậc tiên hiền mà truyền bá đạo pháp Dịch học, phong độ khí phách của thầy như vậy có gì sai kém?”

Hỏi: “Tổ Gia thấy Bát tự, phong thủy cái nào lợi hại hơn?”

Đáp: “Người xưa đã nói Nhất mộ, nhị phòng, tam Bát tự, có vẻ như phong thủy được coi là đi đầu. Kỳ thực, phong thủy và Bát tự có liên quan đến nhau, bổ trợ cho nhau, không thể nói cái nào ghê gớm hơn cái nào, chỉ có cách nói quá cứng nhắc về công phu của người sử dụng nó mà thôi!”

Hỏi: “Trẻ sinh đôi có Bát tự giống nhau, lẽ nào vận mệnh cũng giống y nhau? Tổ Gia thấy thế nào?”

Đáp: “Hai đứa trẻ sinh đôi không chui ra khỏi bào thai người mẹ cùng một lúc, luôn luôn có thứ tự trước sau, đứa trẻ nào được sinh ra sau thì càng gần với giờ tiếp theo sau, khí trong ngũ hành cũng gần kề với khí của giờ tiếp theo sau đó. Ông không thấy thời xưa có hai anh em sinh đôi, người anh sinh ra vào lúc gà trống cất tiếng gáy vang, người em sinh ra thì con gà trống đó đã gáy xong, chỉ còn lại tiếng cùng cục hít hơi ngược lại, kết quả người anh đỗ trạng nguyên, còn người em làm kẻ ăn mày, vận mệnh của hai đứa trẻ sinh đôi đương nhiên không thể giống nhau hết được.”

Hỏi: “Tổ Gia có biết Bát tự có bao nhiêu kiểu không?”

Đáp: “512 vạn kiểu!”

Tổ Gia sở dĩ có thể phát huy tinh hoa tư tưởng Dịch học đến mức độ sâu sắc, là bởi ông đã khiêm tốn học hỏi nhiều năm, lại có Hoàng Pháp Dung đến Mộc Tử Liên và được Bành tướng sĩ hết lòng chỉ bảo.

Cuộc thi hùng biện Thái Sơn Bắc Đẩu Dịch học Trung Hoa với thanh thế phô trương này cuối cùng cũng đã đến hồi hạ màn, Tổ Gia hoàn toàn xứng đáng với danh hiệu quán quân, đồng thời cũng trở thành “Hán gian số một” trong giới Dịch học Trung Hoa.

QUÊN MÌNH BÁO QUỐC

Quan mới nhậm chức thường hăng hái, xông xáo, việc đầu tiên Tổ Gia làm chính là liên kết các hội đạo môn, sau đó xây dựng Viện giao lưu hữu nghị Dịch học Nhật – Trung. Nước cờ thứ hai này của Tổ Gia nhằm mục đích moi khoét hết tiền dưỡng mệnh của các hội đạo môn.

Các hội đạo môn vừa nghe thấy thế đã nổi điên, mỗi tháng phải tiến cống cho bọn người Nhật đã đành, bây giờ lại còn muốn xây học viện cái gì nữa. Bọn họ thi nhau gửi thư phản đối đến cho Quân bộ Nhật Bản, nhưng kiến nghị này đã được bên quân đội và cơ quan đặc vụ của Nhật hết sức ủng hộ.

Cuối cùng, Học viện này đã được xây dựng tại vùng đất thấp rộng 20km2 trên quần đảo Chu San. Đây là vùng phong thủy bảo địa mà Tổ Ga và Bùi Cảnh Long cùng tiến cử.

Mảnh đất thấp này phong thủy rất đẹp, cánh đồng cỏ um tùm, bát ngát mênh mông, ở giữa có bốn con sông nhỏ uốn lượn, trải dài chảy qua, tại chỗ các dòng chảy hợp lại, tạo thành những bãi bùn thu hút từng đàn, từng đàn chim muông bay đến đậu. Thường ngày, 80% diện tích mảnh đất này lộ ra ngoài, một khi thủy triều lên, diện tích của nó chỉ còn khoảng 60%.

Người Nhật ủng hộ quyết định của Tổ Gia, kỳ thực bởi chúng cũng có toan tính riêng của mình. Nhìn bề ngoài, Viện giao lưu hữu nghị Dịch học Trung – Nhật này là nơi giao lưu học thuật hữu hảo giữa Nhật và Trung, nhưng thực chất chính là cơ quan đặc vụ đầu não để thao túng các hội đạo môn Trung Quốc.

Sau Chính biến 18 tháng 9 năm 1931, Nhật Bản liên tục chiếm cứ ba tỉnh miền Đông, rồi liền đó giơ nanh ma vuốt quỷ về phía quần đảo Chu San của các môn hộ miền Đông Trung Hoa. Sau chính biến 28 tháng 1 năm1932, chúng lại đưa rất nhiều tàu chiến đổ bộ quanh quần đảo Chu San và tiến hành diễn tập quân sự. Cuộc Hội chiến Tùng Hộ nổ ra, người Nhật có chỗ đứng ở Thượng Hải, càng coi Chu San là căn cứ xâm lược Trung Hoa quan trọng. Đặt cơ quan đầu não thao túng các hội đạo môn Trung Quốc ở Chu San cũng là kết quả mà người Nhật luôn nung nấu. Nghĩ sâu tính kỹ, bọn chúng thiết lập cơ quan đặc vụ ở đây, theo chiều dọc có thể móc nối với các tỉnh Đông Bắc Sơn Đông, An Huy, Phúc Kiến, theo chiều ngang có thể chống đỡ Hà Nam, Lưỡng Hồ, Sơn Tây, khi cần rút lui có thể vòng về Thượng Hải, quay thẳng về đại bản doanh Nhật Bản, toàn bộ mạch máu của các hội đạo môn Trung Quốc đều bị người Nhật nắm chặt trong tay. Để thực hiện cuộc xâm lược Trung Hoa trên quy mô toàn diện, người Nhật đã làm đúng làm đủ các bài tập mà bọn họ phải làm.

Việc tiếp theo, người Nhật liền tập hợp nhân lực, động thổ xây Viện giao lưu hữu nghị Dịch học Trung – Nhật ở quần đảo Chu San.

Thời gian vun vút trôi, hết mùa giá lạnh lại đến mùa nóng nực, thu qua rồi đông lại tới.

Ngày 1 tháng 11 năm 1935, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ 6 khóa 4 của Quốc dân Đảng họp, trong cuộc họp đã xảy ra một chuyện làm kinh động trong và ngoài nước: Nguyên lão Uông Tinh Vệ của Quốc dân Đảng bị ám sát tại hội trường. Người thực hiện cuộc ám sát chính là một chí sĩ yêu nước, nhà báo của thông tấn xã Thần Quang tên là Tôn Phụng Minh. Uông Tinh Vệ trúng ba phát súng, trong đó phát thứ hai găm trúng giữa xương ức thứ sáu và thứ bảy là vết thương chí mạng, mặc dù không mất mạng ngay, song vết thương khá nguy kịch, về sau tuy được cứu sống, nhưng năm 1944, vết thương cũ tái phát, chết ở Nagoya, Nhật Bản.

Người lên kế hoạch cho hoạt động ám sát lần này chính là Vương Á Tiều. Vốn dĩ, mục tiêu hàng đầu là Tưởng Giới Thạch, không ngờ hôm đó, Tưởng Giới Thạch thấy trong hội trường quá lộn xộn nhốn nháo, nên hắn do dự không muốn xuống lầu, kết quả Tôn Phụng Minh liền chĩa súng nhằm thẳng Uông Tinh Vệ.

Tin tức đăng đầy trên báo chí, làm chấn động cả nước. Tổ Gia hay tin cả người toát mồ hôi lạnh, bất giác nhớ đến lá thư do đích thân Vương Á Tiều viết không lâu trước đó: “… huynh không biết tự lượng sức mình, lại muốn mưu việc lớn tại Nam Kinh, chặt đầu ba tên Hán gian thề rửa nhục cho đất nước, lấy thân mình mang chính nghĩa chiếu khắp Hoa Hạ!” Vị Cửu gia này đúng là gan lớn tày trời, việc mà ông muốn làm, không chuyện gì là không làm được. Nhưng sau sự việc lần này, tình cảnh của Cửu gia tất nhiên càng thêm nguy hiểm, bọn Quốc dân Đảng nhất định sẽ trừ khử ông bằng mọi giá. Nghĩ đến đây, Tổ Gia mồ hôi ướt đầm, một khi Cửu gia gặp điều bất trắc sẽ không còn ai chống lưng cho mình trong giang hồ nữa.

Kỳ thực, từ sau khi gia nhập vào tổ chức Cung giáo Nhật Bản, hầu như Tổ Gia không hề liên lạc với Vương Á Tiều, thỉnh thoảng có gửi tin tức qua Tăng Kính Võ cũng phải cực kỳ thận trọng, ông sợ người Nhật sẽ lần ra manh mối mà truy tìm, hòng trả thù Vương Á Tiều khi trước đã giết chết Yoshinori Shirakawa. Nhưng, sau một thời gian ngồi yên quan sát động tĩnh và thăm dò tình hình, ông phát hiện thấy hình như người Nhật không hề định ra tay ngay, cho đến sau khi xảy ra chuyện Uông Tinh Vệ bị ám sát, Tây Điền Mỹ Tử mới nói rõ chân tướng của sự việc cho Tổ Gia nghe: chúng tôi đã điều tra ra hành tung của Vương Á Tiều từ lâu, nhưng trực tiếp ra tay giết Vương Á Tiều không bằng cứ đợi hắn giết chết Tưởng Giới Thạch, bọn Quốc dân Đảng chắc chắn sẽ điên cuồng bổ nhào tới, chúng tôi chỉ việc ngồi trên núi mà xem hổ cắn nhau, đến thời khắc then chốt bồi thêm một phát đạn là được.

“Chuyện nghêu cò mổ nhau, ngư ông đắc lợi, Tổ Gia đâu phải không hiểu. Nào ngờ Tưởng Giới Thạch mạng lớn, lại tránh được kiếp nạn.” Tây Điền Mỹ Tử lại nói: “Trò hay sắp diễn ra rồi, Tổ Gia đừng quên sứ mệnh của mình!”

Ngay sau đó, vào ngày 24 tháng 11 năm 1935, dưới sự thao túng của người Nhật, tên đại Hán gian vùng Hoa Bắc là Ân Nhữ Canh phát động “Sự biến Ký Đông”, đọc tuyên ngôn tuyên bố Nam Kinh thoát ly khỏi chính phủ Quốc dân Đảng; ngày 25 tháng 11 năm 1935 lại thành lập Ủy ban tự trị chống Cộng Ký Đông, tuyên bố 12 huyện vùng Ký Đông thoát khỏi sự quản chế của chính phủ Quốc dân.

Trong quá trình 12 huyện Ký Đông giành được độc lập, phân đà Thiên Thánh Đạo ở Bắc Bình cực kỳ chăm lo tạo thanh tạo thế cho mình, chúng luôn mồm hô hào khẩu hiệu: “Càn Khôn gặp họa lớn, ngày tận thế sắp ập xuống đầu, phúc đến từ phương Đông, một lòng cứu độ chúng sinh”, chúng tiêm nhiễm dần dần tư tưởng “bạn Nhật tử tế” rồi lại dùng thuật Trát phi được Sở Cung giáo Nhật cung cấp cho, giở thần giở quỷ, lừa gạt nhân dân, sau khi 12 huyện độc lập, nhân dân vẫn tưởng những ngày tháng tươi đẹp đã đến.

Cùng lúc này, bọn trùm sỏ đặc vụ Nhật cũng bôn ba khắp các vùng Bảo Định, Thái Nguyên, Tế Nam với mưu đồ lợi dụng Tống Triết Nguyên ở Ký Sát Bình Tân, Diêm Tích Sơn ở Sơn Tây, Hàn Phúc Củ ở Sơn Đông, Thương Chấn ở Hà Bắc… để thực hiện kế hoạch “Năm tỉnh Hoa Bắc tự trị”.

Trong sự ồn ào như vậy, Trung Quốc đã bước qua những giờ phút sống còn của năm 1935.

Vào đêm giao thừa, Tổ Gia lại chìm vào trạng thái đăm chiêu, trầm ngâm.

Phía Nhật Bản không ngừng hối thúc các hội đạo môn phải phô trương thanh thế của mình, tuyên truyền tư tưởng “Nhật – Trung hữu hảo” và quan niệm “đồng tông đồng tộc”, đồng thời liên tục dàn cục lớn triệu gọi các tiên nhân xuất hiện ở Hoa Bắc, Giao Đông và Giang Hoài, dọa cho nhân dân ngơ ngác, sững sờ. Các hội đạo môn thi nhau gọi giặc là cha, xóa sạch ranh giới phân biệt giữa người Trung Quốc và Nhật Bản. Tổ Gia nhận thấy sự việc càng ngày càng cấp bách.

Ông liên tục thúc giục tiến độ công trình Viện giao lưu hữu nghị Dịch học Trung – Nhật.

Viện giao lưu hữu nghị Dịch học Trung – Nhật là một quần thể kiến trúc được xây dựa theo bố cục “Bát trận đồ” của Gia Cát Lượng.

Toàn bộ quần thể kiến trúc tọa Nam hướng Bắc, gồm có chín lầu nhỏ, trong đó có một tòa chính nằm ở giữa, đằng trước, đằng sau và hai bên trái phải đều có một phòng phụ, bốn góc mỗi góc lại phối hợp với một phòng phụ nữa, kết cấu này chính là hình cửu cung bát quái. Trên Khảm vị lại trồng 24 cây đại thụ, tượng trưng cho 24 trận kị binh đi tuần du đột kích. Bốn dòng sông nhỏ chảy qua như hình con thoi trong quần thể kiến trúc, là trạng thái phong thủy thông suốt, dẫn khí của bát môn: Hưu Môn, Sinh Môn, Thương Môn, Đỗ Môn, Cảnh Môn, Tử Môn, Kinh Môn và Khai Môn ra ngoài. Giữa các phòng nối với nhau bằng lối đi được đóng kín toàn bộ, chỗ nối liền dùng thạch môn che chắn, người đi vào trong quần thể kiến trúc phải đi vào từ Sinh Môn, di chuyển thuận theo khí bát quái, cuối cùng đi ra qua Hưu Môn, mới có thể ra ngoài một cách bình an, một khi vào nhầm Tử Môn, động phải cơ quan thạch môn, thạch môn sẽ tự động đóng kín, người đi vào qua cửa đó chắc chắn sẽ bị nhốt cho đến chết trong đó. Ở đây có một mẹo, khi bị lạc đường, tuyệt đối không được phép ngồi yên trong phòng đợi, chỉ cần muốn đi ra ngoài thì cứ đi theo hướng dòng chảy, thuận theo khí đi xuống, thì có thể tìm lại được Sinh Môn, sau đó thoát thân qua Hưu Môn.

Thiết kế này hoàn toàn do Bùi Cảnh Long và Tổ Gia bày ra, đồng thời nhận được sự tán thưởng cật lực của người Nhật. Người Nhật cũng đã lường trước được rằng, sau khi Viện giao lưu hữu nghị Dịch học Nhật – Trung được hoàn thành, đặc vụ Nhật và các thầy đồng cốt của sở Cung giáo sẽ tụ tập tại đây, việc này tất sẽ dẫn dụ đám sát thủ Trung Quốc đến ám sát, ngộ nhỡ dụ đến bọn cảm tử không sợ chết, liệu chúng có thể kéo một mẻ lưới hốt được tất cả các nhân tài Dịch học Nhật Bản hay không?

Sau khi nghe Tổ Gia và Bùi Cảnh Long giải thích về Bát trận đồ, bọn chúng mới an lòng, song vẫn không dám khinh địch, chiến hạm của Nhật ngày đêm tuần du quanh quần đảo Chu San để đề phòng bất trắc.

Dưới sự hối thúc và đích thân giám sát thi công của Tổ Gia, vào ngày 6 tháng 5 năm 1936, Viện giao lưu hữu nghị Dịch học Trung – Nhật đã được hoàn thành thắng lợi. Tên đầu sỏ cơ quan đặc vụ Nhật tên là Yoshio Kodama đích thân đến cắt băng khánh thành, tất cả các cao thủ thuật số Trung – Nhật đều đến chúc mừng. Xét thấy công lao to lớn của Tổ Gia và Bùi Cảnh Long, người Nhật đã dành hai căn phòng phía Nam cho hai vị Đại sư ở lâu dài, đi sâu nghiên cứu thuật số, để phục vụ quân của Thiên Hoàng tốt hơn nữa.

Trong Mộc Tử Liên lúc này đang xôn xao tranh cãi, giấy không thể bọc được lửa, việc Tổ Gia trở thành Thái Sơn Bắc Đẩu Dịch học Trung Hoa cuối cùng cũng bị tất cả các huynh đệ biết được.

Bọn chân tay xì xào bàn tán không nói làm gì, các Bá đầu cũng bắt đầu có sự chia rẽ, bất đồng. Tam Bá đầu và Ngũ Bá đầu cương quyết ủng hộ, Đại Bá đầu và Nhị Bá đầu nhất quyết phản đối, Tứ Bá đầu Trương Tự Triêm cũng đang nhìn ngó nghe ngóng. Một người khí tiết chính trực như Tổ Gia, chưởng môn đời thứ 14 của Mộc Tử Liên, một vị đại sư Giang Hoài luôn căm thù cái ác, sao lại có thể trở thành Hán gian?

Đêm hôm đó, Trương Tự Triêm cố gặng hỏi Hoàng Pháp Dung: “Rốt cuộc thì mấy tháng nay cô và Tổ Gia đang làm cái gì vậy? Cha ta bị bọn người Nhật giết chết, anh trai ta cũng bị người Nhật giết chết, rốt cuộc thì các người đang làm chuyện gì?”

Hoàng Pháp Dung thản nhiên nói: “Chúng ta phải tin tưởng Tổ Gia!”

Trương Tự Triêm cáu: “Ta bảo cô mau nói cho ta biết!”

Hoàng Pháp Dung điềm tĩnh nói: “Quy định của Đường khẩu anh hiểu rõ mà, chuyện gì nên để người khác biết, Tổ Gia sẽ tự nói, chuyện gì không nên biết, bất kể ai cũng không dám nhiều lời!”

Trương Tự Triêm ngây người ra: “Chúng ta có phải vợ chồng không vậy?”

Hoàng Pháp Dung cười: “Không phải vợ chồng thì là gì?”

Trương Tự Triêm nóng nảy quát tháo: “Cút đi cho ta! Cút!”

Hoàng Pháp Dung nhìn anh ta, nín thinh.

Đêm ngày 15 tháng 8 năm 1936, Tổ Gia đột nhiên triệu tập các Đá đầu.

Điều kỳ lạ là, cuộc họp này không diễn ra ở Đường khẩu, Tổ Gia dẫn mọi người đến từ đường, nơi thờ cúng liệt tổ liệt tông phái Giang Tướng.

Tổ Gia thắp ba nén nhang, cung kính cắm vào lư hương, sau đó không nói gì, chỉ im lặng ngưỡng vọng bài vị và ảnh thờ của liệt tổ liệt tông.

Cả gian phòng im phăng phắc, các Bá đầu cũng ngẩng đầu lặng lẽ nhìn phả hệ.

Tổ đời thứ nhất: Phương Chiếu Dư, Hứa thị, Tăng thị.

Tổ đời thứ hai: Đường Vịnh Hà, Phương Đại Trung, Lâm Khai Thế, Uất Trì Lâm.

Tổ đời thứ ba: Tiêu Văn Viễn, Chu Vân Khai, Giang A Thái, Triệu Tứ Nương.

Ngắm nhìn như vậy một hồi, Tổ Gia rưng rưng nước mắt, các Bá đầu cũng rươm rướm, hình ảnh các vị liệt tổ liệt tông trong các bức vẽ chân dung cứ ẩn hiện trong ánh nến ánh đèn, cảnh tượng như gió giục mây vần của bao chuyện đã qua như thấp thoáng, phảng phất trước mắt họ, nào là phản Thanh phục Minh, hành thích Ung Chính, cướp của người giàu chia cho người nghèo, thay trời hành đạo, đi Nam về Bắc, dẹp yên giang hồ… Từng cảnh tượng oanh liệt, lẫy lừng ùa về trong dòng tâm trạng đang trượt theo như một bức tranh cuốn, bức tranh ấy cứ trải dài, dài mãi, kể lại những ngày tháng hào hùng đã qua, thời thế vần xoay, đoạn đường phái Giang Tướng đã đi cũng gần 300 năm, mà nay…

Đột nhiên, Tổ Gia vén vạt áo, quỳ sụp xuống, các Bá đầu cũng quỳ xuống theo.

“Thử tịch hội minh thiên hạ hợp!” Tổ Gia dõng dọc hô to.

“Thử tịch hội minh thiên hạ hợp!” Các Bá đầu không thể tự chủ được, cũng đồng thanh đọc theo.

“Tứ hải chiêu lai tận tính Hồng!” Tổ Gia lại đọc to.

“Tứ hải chiêu lai tận tính Hồng!”

“Kim châm thủ huyết đồng lập thệ!”

“Kim châm thủ huyết đồng lập thệ!”

“Huynh đệ tề tâm yếu đồng hợp!”

“Huynh đệ tề tâm yếu đồng hợp!”17

Tiếng hô vang vọng hòa cùng tâm trạng hăng hái khuấy động cả màn đêm, tỏ rõ nghĩa khí can đảm, hào hùng.

Sau đó, Tổ Gia đứng dậy, quay người lại, tuyên bố trước các vị Bá đầu: “Các huynh đệ! Đã đến lúc phái Giang Tướng quên mình báo quốc!”

Các Bá đầu đều trố mắt, ngơ ngác nhìn Tổ Gia. Tổ Gia làm bất cứ điều gì cũng đều có mục đích, mọi người biết Tổ Gia sắp nói ra sự thật.

“Ta từ thế gian đến ‘tác tướng18’, trải qua mọi sự giữa chốn nhân gian. Sấm đánh hỏa thiêu không trốn chạy, sống chết ở trong tướng môn. Sống làm người phái Giang Tướng, chết làm ma phái Giang Tướng! Khắc ba giờ Tuất ngày mai, ta sẽ cho lũ giặc Nhật vào chỗ chết cả lũ. Kẻ bằng lòng theo ta thì đi cùng ta, kẻ không đồng ý đi, hãy ở lại đây đợi, sau khi việc lớn ngày mai xong, các ngươi tự phân chia tài sản rồi trốn đi!”

“Người đâu!” Tổ Gia hô to.

Sáu A Bảo to con, cường tráng, cởi trần đang đứng ngoài cửa bước vào, tên nào cũng lăm lăm con dao lớn sáng loáng. Tổ Gia nói: “Không phải ta không tin các huynh đệ, nhưng việc lần này vô cùng hệ trọng, trước khi hành sự, không thể để lộ tin tức. Huynh đệ nào không muốn đi, không được phép rời khỏi đây nửa bước trước khắc ba giờ Tuất ngày mai!”

Các Bá đầu nhìn nhau, có vẻ còn chưa hiểu chuyện gì đang diễn ra. Nhị Bá đầu không nín nhịn được, cuối cùng cũng thốt ra một câu: “Tổ Gia, chúng con đều chưa rõ chuyện gì, xin Tổ Gia nói cho chúng con hay, chúng con thề chết đi theo Tổ Gia!”

Tổ Gia gật đầu, nói ra kế hoạch hành động.

Lúc này, các Bá đầu mới biết điều mà Tổ Gia nung nấu trong lòng bấy lâu nay. Để đợi đến giờ phút này, Tổ Gia đã phải nhẫn nhục chịu khổ; vì cái giờ phút này, Tổ Gia phải lừa gạt các huynh đệ; vì giờ phút này, Tổ Gia cam lòng để người ta chửi rủa sau lưng là “Hán gian số một giới Dịch học”.

Các Bá đầu nghe xong, dòng máu nóng trong người trào sôi, đây mới là Tổ Gia khiến người ta nguyện đi theo cả cuộc đời.

“Kẻ có chí, việc ắt thành, đập nồi dìm thuyền, trăm ải hiểm yếu của Tần sẽ về tay Sở! Người có tâm, trời không phụ, nếm mật nằm gai, ba nghìn quân Việt nuốt sống quân Ngô!” Tam Bá đầu hô to.

“Tổ Gia, chúng con thề chết đi theo sư phụ!” Các Bá đầu đồng lòng.

Tổ Gia nhìn các huynh đệ, mắt rưng rưng, hô lớn: “Mang rượu tới!”

Mấy tên tay chân khênh lên một hũ rượu Nữ Nhi Hồng thượng hạng, rót một mạch bảy tám bát.

Tổ Gia rút chiếc kim vàng ra, đâm vào ngón tay giữa của mình, máu tươi chảy ra, nhỏ vào trong bát rượu. Các Bá đầu cũng đều rút kim ra, chích vào ngón tay mình, rỏ máu vào bát rượu.

Tổ Gia nâng bát rượu lên, nói thật dõng dạc trước bài vị tổ tiên: “Tuy không sinh cùng ngày cùng tháng cùng năm, nhưng nguyện chết cùng ngày cùng tháng cùng năm!”

Những dòng nước mắt nóng hổi trào ra trên khóe mắt các vị Bá đầu, tất cả bọn họ nói theo: “Tuy không sinh cùng ngày cùng tháng cùng năm, nhưng nguyện chết cùng ngày cùng tháng cùng năm!”

Nói dứt lời, tất cả mọi người hừng hực khí thế, uống cạn bát rượu, sau đó cùng giơ cao bát lên vứt xuống đất vỡ tan tành.

TRẬN QUYẾT CHIẾN

Ngày 16 tháng 8 năm1936, thủy triều dâng cao trên sông Tiền Đường.

Đây là đợt thủy triều dâng cao nhất trong vòng mười năm trở lại đây trên sông Tiền Đường, cũng chính là điều mà Tổ Gia mong đợi. Báo chí đã cho đăng tải tin tức quan sát hiện tượng thủy triều dâng cao này, ngay cả tướng quân Phùng Ngọc Tường hôm đó cũng sẽ đích thân đến Diêm Quan ngắm thủy triều.

Đầu tiên, sợ xảy ra sơ suất về thời gian thủy triều dâng, Tổ Gia lại bảo Bùi Cảnh Long dùng pháp thuật Kỳ môn khởi cục dự đoán. Sau khi phân tích kỹ lưỡng, Bùi Cảnh Long nói với Tổ Gia: “Tổ Gia yên tâm, khắc ba giờ Tuất, thủy triều sẽ tràn lên toàn bộ quần đảo Chu San, đúng giờ, sóng sẽ cao bảy thước, việc lớn tất thành!”

Tổ Gia tâm đắc gật đầu, sau đó nhìn Bùi Cảnh Long nói: “Bùi hiền đệ, chúng ta từ biệt thôi, mai này chiến tranh kết thúc, Trung Hoa hòa bình trở lại, Dịch học phát triển rực rỡ phải nhờ cả vào hiền đệ.”

Bùi Cảnh Long nhìn Tổ Gia đầy khâm phục, nói: “Tổ Gia, tôi và ông tuy không cùng thế hệ, nhưng rất tâm đầu ý hợp, biết nhau trong cuộc đời là đủ rồi, cuộc chiến lần này, thập tử nhất sinh, tôi không thể bỏ đi được, tôi lên đảo cùng Tổ Gia! Cơ quan Kỳ môn kia do một tay tôi sắp đặt, vào lúc quan trọng có lẽ tôi có thể giúp được Tổ Gia một tay.”

Tổ Gia nhìn chàng trai trẻ tuổi trước mặt, gật đầu, sau đó vỗ vào vai anh ta, hai người anh em ôm nhau thật chặt, soi tỏ lòng can đảm cho nhau.

Tổ Gia không hề nhìn nhầm người, Bùi Cảnh Long quả thật tâm lành còn chưa mất. Sau khi cuộc thi hùng biện Dịch học hôm đó kết thúc, Tổ Gia và Mai Huyền Tử đã bí mật gặp Bùi Cảnh Long, hỏi anh ta tại sao lại chạy theo người Nhật, Bùi Cảnh Long mới kể rõ sự tình, thì ra người Nhật đã giữ mẹ của anh ta, chúng tuyên bố nếu không hợp tác với quân của Thiên Hoàng sẽ giết không tha. Bùi Cảnh Long có tiếng là đứa con hiếu thảo, tự xưa đến nay, trung hiếu khó giữ vẹn toàn, vì thế đành phải nhẫn nhục chịu đựng, ép lòng ép dạ cầu cả hai được toàn vẹn. Sau khi nghe xong, Tổ Gia đã âm thầm bàn tính, kết quả chưa đến một tuần, qua mối quen biết với người ở vùng Trực Lệ của chưởng môn Bắc phái Tuyết Manh Thảo là Tiền Diệu Lâm, ông đã bỏ ra rất nhiều vàng để mua chuộc mấy tên Hán gian, đưa mẹ Bùi Cảnh Long về an toàn.

Sau sự việc đó, Bùi Cảnh Long cảm kích rơi nước mắt. Tổ Gia thấy thời cơ đã chín, liền nói ra sự thật, nghe thấy thế, Bùi Cảnh Long máu nóng hừng hực, còn đòi: Thề chết đi theo Tổ Gia! Nhưng Tổ Gia đã từ chối: “Phái Giang Tướng không phù hợp với cậu, cậu là người am hiểu Dịch học chân chính, hãy làm một người đường đường chính chính, chăm chỉ trau dồi học vấn, mai này tất sẽ thành người tài!”

Bùi Cảnh Long mắt rưng rưng gật đầu: “Đại ân đại đức của Tổ Gia, tôi phải báo đáp thế nào?”

Tổ Gia vỗ vai anh ta, nói nhỏ…

Trưa ngày 16 tháng 8, Tổ Gia, các Bá đầu, Hoàng Pháp Dung, Mai Huyền Tử, Bùi Cảnh Long và thủ lĩnh của hơn hai trăm các hội đạo môn khác, tất cả cùng đi lên đảo, quan sát đợt thủy triều dâng lớn nhất trong vòng gần mười năm qua.

Vào bữa trưa, Tây Điền Mỹ Tử cố ý ngồi cùng bàn với Tổ Gia.

“Tổ Gia đã phải vất vả nhiều, công lao không nhỏ, tôi kính Tổ Gia một chén.” Ánh mắt Tây Điền Mỹ Tử tràn đầy sự ái mộ.

Tổ Gia mỉm cười, nói: “Tất cả đều nhờ Tây Điền thiểu thư nâng đỡ.”

Tây Điền Mỹ Tử nhoẻn miệng cười, nói: “Mặt trăng là âm, mặt trời là dương, âm dương hút nhau thì sẽ có hiện tượng triều dâng. Tôi nghe nói khi thủy triều lên, là lúc nam nữ dễ nảy sinh tình cảm, không biết Tổ Gia đã nghe chưa?”

Tổ Gia chỉ mỉm cười không nói gì.

“Đêm nay, sau khi thủy triều rút, Tổ Gia cứ ở lại đây nghỉ ngơi.” Nói xong, bà ta lại đặt tay lên tay Tổ Gia.

Lần này Tổ Gia không lảng tránh, ngược lại, còn đặt tay kia của mình lên tay Tây Điền Mỹ Tử, nắm thật chặt nói: “Ánh trăng của Trung Quốc quả thật chẳng khác gì ánh trăng của Nhật Bản, cũng vẫn sáng và đẹp như ánh trăng ở Hokkaidō.”

Tây Điền Mỹ Tử sững người.

Sau 7 giờ tối, mặt trời gần khuất hẳn đằng tây, thủy triều dần dần dâng lên.

Đám đông đều tụ tập lại trên tầng hai của tòa lầu chính, cùng ngắm thủy triều đang từ từ dâng lên. Một lúc sau, nước lên cao, tạo thành những con sóng cuộn trào, như hàng vạn con tuấn mã đang lao đến, đâm mạnh vào dải đá ngầm và bề mặt bãi cát, sóng vọt lên cao mười mấy mét. Sau khi vượt qua những vật cản, những con sóng biển xa vạn dặm tạo thành những dải uốn lượn màu trắng, cuồn cuộn ngất trời xô đến, mạnh đến nỗi khó mà chống đỡ được. Đê phòng hộ quanh chín tòa lầu chìm nghỉm dưới những con sóng, mọi người hò reo không ngớt.

Lúc này, mặt trời lặn vẫn còn in bóng, mặt trăng nhô lên phía đằng Đông, ánh sáng chan hòa vào nhau. Sóng biển cuồn cuộn ào tới, đám người vẫn huyên náo, rộn ràng.

Đột nhiên, Tây Điền Mỹ Tử cau mày lại, bà ta phát hiện thấy có thứ gì đó chuyển động lẫn trong những đợt sóng, liền hoảng hốt nói vài câu với đám vệ sĩ đứng bên cạnh, mấy tên vệ sĩ kia quay vào trong phòng, một lúc sau cầm ra một chiếc kính viễn vọng quân dụng.

Tây Điền Mỹ Tử cầm chiếc kính viễn vọng lên nhìn, kêu thất thanh: “Không hay rồi!”

Thì ra, lẫn trong những con sóng là rất nhiều, rất nhiều rắn, chúng đang trườn tới Viện giao lưu Dịch học hữu nghị Nhật Trung theo những con sóng lớn đang ào đến.

“Ở đâu ra nhiều rắn đến vậy?” Tây Điền Mỹ Tử nhìn kỹ, trên mình những con rắn này có hình hoa văn rất đặc biệt, đều là loại rắn cực độc, bà ta hốt hoảng kêu lên: “Mau đóng thạch môn! Mau đóng thạch môn! Trong nước có rắn!”

Đám binh lính chen nhau chạy xuống lầu nhưng đã muộn, hàng nghìn hàng vạn con rắn đã bò vào tận đây, mọi người chỉ chú ý ngắm nhìn những đợt sóng tung bọt trắng xóa, chẳng ai phát hiện ra rắn độc đã trườn vào trong quần thể kiến trúc này.

Một tên lính đứng canh chỗ cầu thang liền rút súng, toan bắn vào đàn rắn thì một con rắn độc lao vụt đến, há miệng cắn đúng vào trán hắn, đám binh lính náo loạn cả lên, thi nhau nổ súng dọa.

Nghe thấy tiếng súng nổ, đám đông đột nhiên sững lại, cùng cúi người nhìn, một luồng khí lạnh ngắt chạy dọc sống lưng, vô số con rắn độc như bị niệm chú, trườn nhanh như bay giữa đám cây leo tường, bò lên tận đỉnh lầu. Cả đám người la hét, chạy tán loạn.

Lưu Hạt Tử chỉ có một con mắt cũng loạng choạng mò mẫm chạy theo đám người, đột nhiên, một bóng đen dài lao tới trước mặt, ông ta há miệng định hét lên, con rắn độc lao thẳng vào miệng lão, cắn phập lưỡi. Lưu Hạt Tử đau đớn, muốn kêu mà không kêu nổi, hai tay bóp chặt mình con rắn, giữ không cho nó chui vào bụng. Bất thình lình, người hắn chao đảo, rồi rơi xuống lầu, nằm giữa vạn con rắn.

Trịnh Bán Tiên hốt hoảng trốn vào trong một cái tủ, đóng chặt cánh lại, thở hồng hộc, đột nhiên hắn nghe thấy trên đầu có tiếng xì xì. “Chết rồi!” Trịnh Bán Tiên thầm kêu lên. Một con rắn độc đã chui vào cái tủ từ lâu, đúng vào lúc Trịnh Bán Tiên ngẩng đầu lên nhìn, từ răng con rắn rớt ra một thứ chất độc, cứ thế cắn thẳng vào con ngươi Trịnh Bán Tiên. “Á!” Trịnh Bán Tiên kêu lên thảm thiết, thân người đổ nghiêng xuống làm bật tung cánh tủ, mấy trăm con rắn lao đến. Chỉ trong chớp mắt, hắn ta ngập trong bầy rắn.

Long Ngọc Phụng và Đinh Tử Hà chạy đến chỗ rẽ xuống sảnh lớn dưới lầu thì bị một đàn rắn chặn ở chỗ cầu thang. Mấy binh lính dùng súng và súng lửa bắn về phía chúng chặn lại.

Ngọn lửa dữ dội thiêu lũ rắn cháy xèo xèo, bao nhiêu con quặn người lại, co quắp, từng đống từng đống đang bò trên cầu thang bị rơi xuống.

Nhưng lũ rắn phía sau lại trườn đến như ong vỡ tổ, không thể chống đỡ được.

Long Ngọc Phụng và Đinh Tử Hà cuống cuồng cắm đầu chạy. Đinh Tử Hà sợ hãi hét toáng lên. Long Ngọc Phụng túm chặt lấy bà ta, gào lên bằng giọng Thiên Tân nặng trịch, khàn đặc: “Mẹ kiếp, gào cái gì! Làm lão nương hết hồn! Không phải bên cạnh ngươi có Vương Mẫu che chở sao! Mẫu Nương!?”

Đinh Tử Hà mắt long sòng sọc lườm Long Ngọc Phụng: “Câm mồm!”

Khi hai mụ còn đang chửi nhau, một tiếng “khực” vang lên, còn chưa biết đó là tiếng gì thì đột nhiên im thít.

“Tiếng gì vậy?”

“Hả?” Đinh Tử Hà lại kêu lên thảm thiết, thì ra đó là tiếng một binh sĩ bị gãy cổ.

Không biết từ bao giờ, một con trăn khổng lồ bò đến, nó lạng sang bên này rồi lại lạng sang bên kia nhanh thoăn thoắt, thân người co lại, ép đầu một tên lính nát bét, đốt sống cổ bị gãy, ngay lập tức cái đầu treo lủng lẳng.

Hai tên lính khác hoảng hốt cầm súng bắn đuổi con trăn khổng lồ, nó quất mạnh cái đuôi vào khẩu súng, rồi lại trườn lên chỗ cao nhất ở tay vịn cầu thang đánh vụt một cái, hai tên lính kia còn chưa kịp phản ứng gì, nó đã từ trên không lao vụt xuống, trong chớp mắt quấn chặt lấy hai tên lính, nó lại ưỡn mạnh một cái khiến hai bộ xương kêu lên răng rắc, hai tên lính đổ ra đất như hai người giấy.

Ngay sau đó, con trăn khổng lồ bổ nhào về phía Long Ngọc Phụng và Đinh Tử Hà…

Lúc này, Tổ Gia đang bám sát theo Tây Điền Mỹ Tử, ông muốn tận mắt nhìn thấy con mụ trùm sò đặc vụ độc ác này chết thế nào.

Tây Điền Mỹ Tử cầm khẩu súng ngắn, đi xuống lầu trong sự yểm hộ của đám binh lính. Lúc này, trời đã tối hẳn, nước biển ngập tràn, lũ rắn nhảy múa hỗn loạn, mấy binh lính bắn súng lửa mở đường. Quần thể kiến trúc này vốn được thiết kế theo Bát trận đồ, tạo thành một mê cung, trong đêm tối càng khó phân biệt được phương hướng, Tây Điền Mỹ Tử cuống quýt nói: “Mau tìm Sinh Môn! Vào từ Sinh Môn mới có thể ra được qua Hưu Môn.”

Nói thì dễ, nhưng tìm được là điều vô cùng khó. Lúc này, Tây Điền Mỹ Tử chẳng còn nghĩ đến chuyện giữ bí mật nữa, bà ta gào lên: “Chạy theo hướng dòng sông sẽ tìm được Sinh Môn!”

Tổ Gia nghe thấy thế, thở dài ngẩng mặt lên trời. Hơn một năm ông chuyên tâm dàn cục, nhẫn nhục chịu đựng mang cái tiếng Hán gian, lại nghĩ trăm phương nghìn kế để đoạt cho được danh hiệu Thái Sơn Bắc Đẩu Dịch học Trung Hoa, sau đó lại lấy danh nghĩa xây dựng Viện giao lưu hữu nghị Dịch học Nhật – Trung để rút sạch tiền bạc của các hội đạo môn, chung tay với Bùi Cảnh Long dựng lên bố cục Trận đồ bát quái vô cùng tinh vi này. Cuối cùng, hôm nay cũng được như tâm nguyện. Thứ mà ông muốn nhìn thấy chính là cảnh tượng này.

Trong cửu cung Bát trận đồ, bốn long mạch (dòng chảy) như tàu con thoi, từ Sinh Môn đến Tử Môn đều có quy luật của nó. Tổ Gia đã đợi đợt thủy triều lớn nhất trong vòng mười năm này, để nước lớn cuồn cuộn tràn vào, tạo thành những dòng chảy ngược chiều; một khi dòng chảy ngược chiều, các cơ quan cũng sẽ đảo ngược chiều, long mạch vỡ tắc, khí ngũ hành lập tức biến đổi, khí cửu cung cũng đột ngột biến đổi theo, Sinh Môn biến thành Tử Môn, Tử Môn biến thành Sinh Môn, kiến trúc nơi này không thay đổi, nhưng cục cát hung đã khác một trời một vực. Đây chính là chỗ thần kỳ của Bát trận đồ!

Tổ Gia bám theo bọn Tâ