← Quay lại trang sách

- 4 -

Trại Nhập Ngũ số 3, như phần đông các thanh niên ở tuổi quân dịch đều có nghe loáng thoáng, nằm trong khu vực quân sự mạn Quang Trung, Hóc Môn. Khi tôi nhẩy từ GMC xuống đất đã thấy doanh trại đầy người, nhưng toàn là “xi-vin”, chưa ai quân phục, ngọai trừ một số quân nhân chính cống lo canh gác, làm văn phòng.

Chỉ sau một hai bữa nằm chờ khám sức khoẻ, tôi đã biết cách tháo bù-loong của giường gỗ ra làm búa để đập bẹp đồng tiền nhôm tạo thành cái nhẫn chơi. Chiều chiều, chui rào ra ngoài ăn nhậu xong tối lại mò vào. Khi đi khám tại Tổng-Y-Viện Cộng Hoà về tai mũi họng, chụp phổi, linh tinh, thế nào tôi cũng leo tường thành, nhẩy ra đường cái đáp xe lam xuống chuồn về Saigon du hí. Hôm sau, chuyến GMC chở thanh niên đến cửa Tổng-Y-Viện, tôi lại chờ sẵn, nhẩy tót lên xe, coi như không có chuyện gì xảy ra cả.

Như mọi lần, thanh niên làm thủ tục nhập ngũ chỉ nằm ở trại dăm bảy ngày là xong. Đủ sức khoẻ thì đi mà thiếu điều kiện là về. Đến phiên tôi đi lính, năm đó là năm 1963, tình hình lộn xộn, có ông đại sứ Ноа-Kỳ Ca-Bốt-Lốt qua An-Nam, chính phủ hình như không muốn thêm nhiều rắc rối cho nên dù quân trường Thủ Đức đã khai giảng một tháng, đám thanh niên già, thanh niên trẻ vẫn nấn ná chờ và phút chót họ leo lên xe GMC, trực chỉ Thủ Đức.

Quân trường đành phải lập thêm một đại đội, tức đại đội 5, và chúng tôi tập luyện ngày đêm, không đi phép cuối tuần để theo kịp các đại đội khác.

Đối với người thanh niên bình thường, khi Bộ Quốc Phòng gọi đi lính, thì anh ta coi đó là chuyện chấp nhận dĩ nhiên. Trai thời lọan mà lị. Đằng này, tôi tưởng như trời sập, cực chẳng đã đành chịu nhưng tìm cách chui rúc an thân. Sau thời gian một tháng học quân sự, đeo súng ôm ba-lô đi bãi, tôi о bế ông Trung Đội Trưởng, nại cớ chân yếu tay mềm xin được ở lại trại lo lắng công tác báo chí, vệ sinh, thu dọn văn phòng và làm bất cứ chuyện gì riêng của ông Trung Đội Trưởng như lau xe vespa, đánh giày, đóng tủ sách, thay vì cùng anh em leo lên đồi 29, đồi 30 học chiến thuật bắn súng lớn, ném lựu đạn, đốt giây mìn, v.v...

Lâu lâu tôi lại kiếm được cái phép đặc biệt về Saigon một hai ngày “công tác đại đội”. Những ngày không đi bãi, sinh viên sĩ quan học ở lớp, hoặc tập thể dục quân sự, hoặc bò chiến thuật, leo giây trong sân trường thì tôi tham gia rất tích cực, xuất sắc.

Qua ba tháng “quân trường đổ mồ hôi, chiến trường bớt đổ máu’’ tôi nào đã đổ tí mồ hôi nào đâu - sinh viên được chọn ngành để đi binh chủng, binh sở. Binh chủng lớn như Không Quân, Hải Quân... Anh nào ở lại học đến cuối đoạn đường chiến binh là đi bộ binh, “nữ hoàng của chiến trường.” Ngoài binh chủng là binh sở, các sinh viên có thể được đưa về các ngành chuyên môn tùy thuộc khả năng trắc nghiệm. Thánh nhân đãi kẻ khù khờ, chả hiểu khi trắc nghiệm làm sao mà tôi lại có tên đi lính thợ may. Thằng bạn tôi là Lê Bảo Hùng (anh ruột ca sĩ Lệ Thanh) cũng ABC khoanh у boong như tôi, nó nhẩy lên xe làm lính tài xế!

Trong nhà binh có nhiều cái vui nhộn con con làm cho đời lính cũng đậm đà. Anh cu nào về ngành tiếp vận quân nhu thì gọi bằng “lính thợ may” vì ngành này nổi tiếng có cái xưởng cắt may Trung Tâm Sản Xuất Quân Trang sát nách Hải Quân gần nhà thương Đồn Đất Grall. Cậu nào về Quân Vận, gọi là “lính tài xế”. Đứa nào đi Quân Cụ thì gọi là “lính già” mặc dù ai cũng hiểu ngầm rằng “cụ” là dụng cụ khí giới súng ống đạn mìn...

Thế là thoắt cái, tôi về trường Quân Nhu nằm trong khuôn trại Lê Văn Duyệt, tức Biệt Khu Thủ Đô, học chuyên môn mấy tháng. Cả khoá 9 nút Quân Nhu tức khóa 16 Thủ Đức có lối ba chục tên, cộng với sinh viên địa phương quân hai chục mạng, học hành trối chết đủ các môn từ gạo đường tới mắm muối, quân trang, quân dụng đến sửa chữa dù, thả dù tiếp tế, mai táng, quân khuyển, xăng nhớt, tồn trữ, tiếp liệu...

Khoá 9 nút, hầu hết sinh viên sĩ quan là sinh viên đại học hoặc tốt nghiệp đại học, chỉ có tôi lẹt đẹt yếu ớt chả giống ai. cả cuộc đời đi học, tôi đều lêu lổng, chỉ nhờ cóp bài mà lẽo đẽo với bạn bè lên lớp. Nay biết không thể nhờ cậy vào ai, lại biết thân phận mình yếu thế nhờ vả chạy chọt xin sỏ nên tôi dốc hết tim gan tì phế học hành. Vừa học tôi vừa cầu Trời khẩn Phật, A-la cho tôi đậu cao để được lựa chỗ tốt gần Saigon. Hồi đi lính Thủ Đức, tôi đã có vợ con rồi, nếu phải đi xa ắt gia đình đìu hiu nhiều khê lắm lắm...

Nhờ cầu nguyện dốc lòng, lại học hành gạo cụ, khi ra trường tôi lãnh cái thủ khoa làm ngơ ngẩn từ thày dạy đến anh em, xuống cả đến quán cà- phê của cô Hồng, cô Thúy. Thế là “ô-tô-ma-tích” tôi lựa Saigon, mần việc ngay tại Nha Quân Nhu (sau các Nha đổi thành Cục) trong trại Lê Văn Duyệt. Với cái lon nửa hạ sĩ quan nửa sĩ quan là lon chuẩn úy, tôi làm ở sở Tiếp Vận, đặc trách nhượng vải và làm việc văn phòng chánh sở. Chỉ một thời gian ngắn, tôi lại biết những cú làm tiền ngon lành, dễ ợt. Món thứ nhất là nhượng vải cho sĩ quan, loại ka-ki vàng 35 đồng một thước, mỗi sĩ quan có thể xin nhượng 8 thước để tự thực hiện quân phục. Tôi ngồi chỗ đó, lâu lâu lại lục hồ sơ cũ lấy ra một đơn xin nhượng vải tập thể của đơn vị X, Y, Z nào đó mà tôi đề nghị từ chối, tẩy xoá dấu vết cũ, làm phiếu trình xin chấp thuận nhượng vải xong trình ký phiếu này rồi mầy mò xuống xưởng may chạy chọt mua vải với giấy tờ hợp pháp phân miêng.

Với số vải của vài chục sĩ quan, đem bán ra ngoài thị trường Phú Nhuận rẻ ra là 80 đồng một thước, vị chi mỗi thước tôi lời 45 tiền, đem nhân sơ sơ với vài trăm mét kaki, tôi ẵm ngon ơ số tiền trời ơi đất hỡi. Tôi cứ tưởng như thế là vô tội vạ, vì bởi nhiều ông lớn thông đồng khoa học với nhà thầu vải, trà. cơm xấy khô, quân dụng, thực phẩm có cả vài chục triệu đồng thì cái thứ gà què ăn quẩn cối xay như tôi có bõ bèn gì. Sau này tôi mới biết, nói riêng về quân nhu thôi, nhiều khi người lính bỏ đơn vị không phải vì sợ địch quân, trái lại tinh thần chiến đấu của họ rất cao rất vững, nhưng phải trốn về nhà vì đơn vị đóng ở miền Cà Mau ruộng đồng bao la, Năm Căn heo hút muỗi sa từng bầy; không có cái mùng để nằm ngủ. Thiếu cái mùng cá nhân chùm đầu, muỗi đốt đau quá chịu không thấu. Hoặc người lính miền cao nguyên miền Trung vào những ngày tháng lạnh lẽo thấu xương mà thiếu cái mền thì làm sao chịu nổi?

Những nguyên do thật giản dị, nhỏ bé ấy, nếu cấp chỉ huy ý thức được thì cấp nhỏ không bán vải kaki kiếm lời, cấp lớn không làm hao hụt công quỹ, người lính được tiếp tế đầy đủ tối thiểu thì sự chiến đấu còn hăng say tích cực hơn nữa. Trong hoàn cảnh dù thiếu thốn như thế, lạ thay chỉ có một số rất nhỏ chiến sĩ xuống tinh thần, còn hầu hết đều quyết tâm chế ngự, hy sinh chống kẻ thù Cộng Sản. Đất nước nhờ vậy mới có nhữngchiến sĩ can trường dũng cảm anh hùng bảo vệ miền Nam qua những cơn bão tố cuồng phong khiến cho chính kẻ thù phải khiếp phục và thế giới còn lương tâm phải xúc động bàng hoàng.

Ngoài chuyện bán vải, tôi còn đi xin xăng để phát mại nữa. Kho tồn trữ xăng nào cũng dư xăng vì được phép hao hụt bốc hơi của bồn xăng theo tỉ lệ qui định. Thực tế, xăng không bốc hơi nhiều như thế, nên đơn vị tồn trữ xăng có thể ngọai giao qua lại với anh em, với các đơn vị bạn để đổi chác loanh quanh. Tôi thì khác, có xăng là đem bán liền tù tì, để lâu nó bốc hơi cũng phí đi, mà đơn vị cho chỗ khác, đằng nào rồi xăng cũng đổ vào bình xe hơi, xe honda, xe vespa, xe lambretta, xe đò, tàu thủy... Tôi tự cho thế là tôi vô tội, bởi rằng còn bao nhiêu kẻ khác làm chuyện tầy trời như bán thuốc men, bán gạo, bán vũ khí, bán tài liệu cho Cộng sản thì chúng mới đắc tội chứ! Nói khơi khơi chả ai tin đâu, chỉ khi nào cháy nhà ra mặt chuột, lúc ấy mới rõ mặt nào là mặt mo, mặt nào mặt thớt hoặc mặt sứa gan lim đã góp sức xô đẩy cả một giang sơn gấm vóc vào tay quỷ đỏ.

Nhờ mần việc ngay tại Saigon, lại cấm trại liên miên 100 phần trăm, tôi tiếp tục sách đèn đi thi tú đụp. Số tôi có duyên nợ với trường thi, năm nào cũng ghi tên những mong bảng hổ đề danh mà lận đận mấy keo mới dính. Tôi dính bởi được cóp bài của thí sinh ngồi chung quanh và nhờ tài quay phim số dzách. Có lần giám thị bắt quả tang tôi đang lục tài liệu dưới gầm bàn nhưng ông lắc đầu lẳng lặng bỏ qua. Tôi đoán là ổng thấy tôi mặc quân phục cũng ngán, e tôi thù hận cho cái búa thì khốn. Cũng có thể ông ấy thấy tôi già đầu còn mài đũng quần thi cử nên thương hại. Hoặc ổng thấy cái bộ mặt tôi hiền lành chất phác thật thà nên tha làm phúc. Ấy, chính mấy cái đứa thật thà lại là cha quỷ quái. Như tôi chẳng hạn. Qua dăm phùa vác bút đi thi, tôi như cá vượt vũ môn, lò dò vào ngưỡng cửa đại học Luật Khoa học đại cho có tít sinh viên lả lướt với đời.

Mặc dù lên quan, tôi vẫn ở căn nhà ngọai ô khu vực Đồng Ông Cộ bèn Gia Định. Khu này nửa tỉnh nửa quê, vừa có điện có ti-vi, lại vừa có khu vườn rau xanh ngát một màu, có tre xanh, ao cá. Với số lương nhà binh ít ỏi mà sinh họat gia tăng, tôi tiết kiệm ngân quỹ gia đình bằng cách ăn cắp điện. Dùng một cái sào dài, tôi móc một đầu giây xuống ao khiến cho cá bị điện giật nằm phơi bụng lềnh bềnh, tôi vớt về nấu canh chua cá kho tộ. Đám trẻ quanh hàng xóm, có đứa thấy tôi làm ngon lành cũng bắt chước, chẳng may mó vào giây điện cao thế, bị giật chết ngoéo.

Chưa bắt được cá nó đã nằm ngay đơ hết thở. Tôi cảm thấy áy náy lương tâm mất mấy tiếng đồng hồ, cho rằng vì mình đầu têu mà thằng bé bắt chtrớc đến toi mạng. Sau tự an ủi rằng nó làm nó chịu, mình đâu có xúi giục nó đâu nào. Lương tâm lại êm ru bà rù như không có gì phiền muộn...

Trong nhà, tôi mua được cái máy lạnh cũ nửa ngựa, còn tốt у nguyên. Tiền điện cho cái máy này sơ sơ phải hơn chục ngàn mỗi tháng. Sức voi mới chịu nổi. Thế là tôi biến chế, lấy điện đường câu thẳng vào máy, không qua đồng hồ điện. Chạy điện chùa thả dàn chả mất xu nào xất cả. Tối nằm máy lạnh, coi ti-vi đài tàng hình số 9 ngó cậu Hùng Cường mí lị mợ Mai Lệ Huyền lắc lư con tàu đi song ca kích động, ngắm mợ Thanh Lan nũng nịu dễ thương giọng hát ngọt ngào, rồi theo rõi Tùng Lâm Xuân Phát chọc cười bể bụng, nhìn cậu Nhật Trường áo tây vắt vai lừng khừng trong tiếng ca bay bướm, thích thú coi ban AVT khăn đóng áo dài trình diễn độc đáo tài tình, ru hồn vào cõi mộng theo tiếng hát Thái Thanh mê ly tuyệt vời bay bổng... Tôi đã chẳng thấy chút nào lầm lỗi băn khoăn mà còn tự coi như cuộc đời vừa qua mấy nỗi gian truân, nay là lúc được quyền hưởng thụ đôi chút hạnh phúc thanh bình...

Cho dù đêm đêm bừng giấc, vẫn nghe vọng về tiếng súng xa xôi...